Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Một số sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại


Việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại còn phạm một số sai sót, cụ thể như sau:
1. Xác định sai thẩm quyền của Toà án khi thụ lý, giải quyết vụ án:
Ví dụ 1: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh; trụ sở tại quận M, thành phố HCM.
– Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân Trần Hoàng Hải; trụ sở tại huyện CL, tỉnh TG.
Ngày 8/11/2007, hai doanh nghiệp ký kết hợp đồng mua bán số 08/HĐMB/2007 mà theo đó ngoài các thoả thuận về việc mua bán hàng hoá (Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh mua của Doanh nghiệp tư nhân Trần Hoàng Hải 280.000 kg lúa Jasmin trị giá 1.064.000.000 đồng; thời hạn giao hàng đến ngày 31/12/2007; địa điểm giao hàng tại thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long…) thì tại Điều 5 của hợp đồng, hai bên còn có thoả thuận về việc giải quyết tranh chấp là: “…Trường hợp hai bên không giải quyết được thì Toà Kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là người phán quyết cuối cùng mà hai bên phải chấp hành”.
Khi tranh chấp xẩy ra, nguyên đơn là Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh đã khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân tỉnh TG là nơi có trụ sở của bị đơn (khởi kiện tại Toà án nhân dân tỉnh là vì tại thời điểm này Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG chưa được tăng thẩm quyền).
Tại Quyết định sơ thẩm số 09/2008/QĐST ngày 21/4/2008, Toà án nhân dân tỉnh TG nhận định (tóm tắt): Tại Điều 5 của hợp đồng mua bán các bên đã thoả thuận Toà Kinh tế Toà án nhân dân thành phố HCM giải quyết tranh chấp nên vụ kiện này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà Kinh tế Toà án nhân dân tỉnh TG. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm e khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 192, Điều 193, Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 11, Điều 24 Luật Thương mại, quyết định: Đình chỉ giải quyết vụ án.
Nguyên đơn kháng cáo Quyết định sơ thẩm.
Tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ vụ án số 106/2008/QĐPT ngày 9/9/2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố HCM căn cứ Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; giữ nguyên quyết định sơ thẩm.
Ngày 28/10/2008, nguyên đơn khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân thành phố HCM và đến ngày 13/11/2008, Toà án nhân dân thành phố HCM đã ra Thông báo số 4344/TATP về việc trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn, đồng thời hướng dẫn nguyên đơn khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân cấp huyện nơi có trụ sở của bị đơn (Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG).
Xét thấy: Việc thoả thuận của các đương sự về Toà án có thẩm quyền giải quyết chỉ được Toà án công nhận khi thoả thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 33, điểm b, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thì việc đương sự thoả thuận Toà Kinh tế Toà án nhân dân thành phố H giải quyết khi có tranh chấp là không đúng (Vì theo điểm a khoản 1 Điều 29, điểm b khoản 1 Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết loại việc này là Toà án nhân dân cấp huyện, do đó đương sự chỉ có thể thoả thuận Toà án nhân dân quận M, thành phố HCM nơi nguyên đơn có trụ sở để giải quyết tranh chấp). Do các đương sự thoả thuận Toà án có thẩm quyền giải quyết không đúng quy định của pháp luật thì căn cứ quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên tại thời điểm đương sự khởi kiện, Toà án nhân dân huyện CL chưa được tăng thẩm quyền nên lẽ ra Toà án nhân dân tỉnh TG phải thụ lý giải quyết. Việc Toà án nhân dân tỉnh TG đình chỉ giải quyết vụ án là sai, làm cho vụ án bị kéo dài. Nay Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG đã được tăng thẩm quyền, do đó khi thụ lý lại thì Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG đã có thẩm quyền giải quyết.
2. Xác định tư cách tố tụng của đương sự chưa đúng:
a. Xác định nguyên đơn:
Ví dụ: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh HG.
- Bị đơn: Công ty cổ phần sinh học Thái Dương.
Tại Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 01/2007/QĐST-KDTM ngày 9/8/2007, Toà án nhân dân tỉnh HG đã quyết định:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Hậu Giang chấp nhận cho Công ty cổ phần sinh học Thái Dương trả nợ gốc là 5.600.000.000 đồng và lãi trong hạn tính từ khi ngưng đóng lãi cho đến ngày 2/8/2007 là 1.217.373.398 đồng, tổng cộng là 6.817.938 đồng….
Ví dụ: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh VP.
- Bị đơn: Công ty TNHH Giấy Việt Nhật.
Tại Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 14/2009/QĐST-KDTM ngày 3/9/2009, Toà án nhân dân tỉnh VP đã quyết định:
1. Công nhận sự thoả thuận của các đương sự nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Vĩnh Phúc; bị đơn: Công ty TNHH Giấy Việt Nhật.
2. Sự thoả thuận của các đương sự cụ thể như sau:…
Xét thấy: Cả 2 ví dụ nêu trên đều cho thấy Toà án cấp sơ thẩm xác định tư cách khởi kiện của nguyên đơn là không đúng. Nguyên đơn trong vụ án phải là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chứ không phải là chi nhánh tại các tỉnh HG hoặc tỉnh VP, vì: Theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Chi nhánh chỉ là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hay một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền; chi nhánh không phải là pháp nhân. Trường hợp này, để giải quyết vụ án đúng pháp luật lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải hướng dẫn cho đương sự ngay từ khâu khởi kiện, thụ lý vụ án về việc pháp nhân khởi kiện và uỷ quyền khởi kiện (theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng dân sự; hướng dẫn tại tiểu mục 1.4, điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 phần I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Công văn số 38/KHXX ngày 29/3/2007 của Toà án nhân dân tối cao).
b. Xác định bị đơn:
Ví dụ: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Thuận Hoà Bình;
- Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình (do ông Đỗ Hoàng Bình- giám đốc làm đại diện theo pháp luật).
Ngày 31/3/2007, Công ty TNHH Thuận Hoà Bình ký hợp đồng bán cho Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình mặt hàng dây cáp điện với tổng trị giá hợp đồng là 817.248.000 đồng. Thực hiện hợp đồng, phía Công ty TNHH Thuận Hoà Bình đã giao đủ hàng cho Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình và đến ngày 2/5/2007 hai bên đối chiếu công nợ, theo đó số tiền Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình còn nợ lại là 577.248.000 đồng. Ngày 19/7/2007, Công ty TNHH Thuận Hoà Bình khởi kiện đối với Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình yêu cầu trả số tiền trên cùng tiền lãi phạt quá hạn theo hợp đồng.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 20/6/2008, Toà án nhân dân Quận N, thành phố HCM đã quyết định (tóm tắt): Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bị đơn là Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình phải trả cho Công ty TNHH Thuận Hoà Bình số tiền 671.222.974 đồng (gồm nợ gốc là 577.248.000 đồng, lãi phạt quá hạn là 93.975.974 đồng).
Ngày 20/6/2008, ông Đỗ Hoàng Bình – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình có đơn kháng cáo.
Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 953/2008/KDTM-PT ngày 25/8/2008, Toà án nhân dân thành phố HCM đã quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Xét thấy: Theo quy định tại khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “Chủ Doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp”. Trong vụ án này, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình là bị đơn đều là không đúng. Phải xác định bị đơn trong vụ án là ông Đỗ Hoàng Bình – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình.
(Ngoài ra, khi giải quyết vụ án này, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm còn có sai sót khác về tố tụng: các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất trình đều là những bản photocopy, không có công chứng, chứng thực và cũng không được Thẩm phán tiến hành đối chiếu với bản gốc, nhưng Hội đồng xét xử vẫn căn cứ vào các tài liệu này để giải quyết vụ án là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao).
3. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có sai sót:
Ví dụ 1: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á.
- Bị đơn: Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Tuyết Trang 
Theo hợp đồng tín dụng số 111/07-HĐNH-VAB ngày 30/3/2007, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á – Chi nhánh Đà Nẵng đã cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Tuyết Trang vay 1.600.000.000 đồng với lãi suất 0,95%/tháng, thời hạn vay 12 tháng. Để đảm bảo cho khoản vay, bà Lê Thị Tuyết Trang là giám đốc Công ty Tuyết Trang đã thế chấp cho Ngân hàng tài sản là nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương, phường HC 2, thành phố ĐN. Nhà đất này đã được Ủy ban làân dân quận HC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 7/7/2006 đứng tên bà Lê Thị Tuyết Trang. Do không trả được nợ nên Ngân hàng Việt Á đã khởi kiện đối với Công ty Tuyết Trang.
Tại Quyết định công nhân sự thoả thuận của các đương sự số 49/2008/QĐST-KDTM ngày 8/9/2008, Toà án nhân dân thành phố ĐN đã quyết định (tóm tắt):
Công nhận sư thoả thuận của các đương sự: Công ty Tuyết Trang còn nợ Ngân hàng Việt Á số tiền 1.853.333.333 đồng, gồm nợ gốc 1.600.000.000 đồng và nợ lãi 253.333.333 đồng.
Công ty Tuyết Trang cam kết thanh toán nợ dứt điểm từ ngày 30/8/2008 đến ngày 31/10/2008.
Nếu Công ty Tuyết Trang vi phạm thời hạn thanh toán thì tài sản thế chấp là nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương thuộc sở hữu của bà Lê Thị Tuyết Trang được phát mãi để Ngân hàng thu hồi nợ.
Ngày 30/7/2009, ông Hoàng Hồng Kỳ (chồng bà Lê Thị Tuyết Trang) có đơn khiếu nại Quyết định công nhân sự thoả thuận theo thủ tục giám đốc thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu mới thu thập, thấy: Trước thời điểm Ngân hàng khởi kiện vụ án này thì ông Kỳ đã khởi kiện tại Toà án nhân dân quận HC, thành phố ĐN về việc xin ly hôn bà Tuyết Trang và có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương (nhà đất này cũng chính là nhà đất mà bà Tuyết Trang đã thế chấp cho ngân hàng). Trường hợp này, do vụ án kinh doanh thương mại được thụ lý sau nên lẽ ra Toà án nhân dân thành phố ĐN cần tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự để chờ kết quả giải quyết vụ án ly hôn thì mới đúng pháp luật, nhưng thực tế Toà án nhân dân thành phố ĐN vẫn tiếp tục giải quyết vụ án. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thành phố ĐN cũng không xác minh, làm rõ hoặc thu thập chứng cứ nhằm xác định chính xác nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương là tài sản chung của ông Kỳ, bà Trang hay là tài sản riêng của bà Trang mà chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Trang để ra Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự trong đó có cả thoả thuận về việc xử lý tài sản thế chấp (nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương) là xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Kỳ.
Ví dụ 2: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng công thương Việt Nam
- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh Tùng.
Ngày 14/4/2008, ông Nguyễn Thanh Tùng ký Hợp đồng tín dụng số 08.06.0027/HĐTD vay Ngân hàng công thương Việt Nam – Chi nhánh tỉnh VP 350.000.000 đồng để kinh doanh hàng tạp hoá; thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất trong hạn là 1,37%/tháng… Để bảo đảm cho số tiền vay trên, ngày 8/4/2008, vợ chồng ông Tùng ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 08.06.0027/HĐBĐ với Ngân hàng, theo đó vợ chồng ông Tùng dùng tài sản là quyền sử dụng 150 m2đất (thuộc thửa đất số 226 tờ bản đồ 1B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 200573 do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Tường cấp cho ông Tùng) và tài sản gắn liền trên đất để thế chấp cho Ngân hàng. Hợp đồng thế chấp này được Uỷ ban nhân dân xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường, tỉnh VP xác nhận ngày 14/4//2008.
Do ông Tùng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông Tùng phải thanh toán tổng số tiền là 393.050.000 đồng (gồm nợ gốc 350.000.000 đồng và nợ lãi tính đến ngày 17/3/2009 là 43.050.000 đồng), nếu không trả được nợ thì xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tại phiên hoà giải ngày 16/4/2009, đại diện Ngân hàng và ông Tùng đã thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại Quyết đinh công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 07/2009/QĐST-KDTM ngày 22/4/2009, Toà án nhân dân tỉnh VP quyết định (tóm tắt): Công nhận sự thoả của các đương sự như sau:
1. Tính đến ngày 16/4/2009, ông Tùng còn nợ Ngân hàng công thương Việt Nam số tiền gốc là 350.000.000 đồng; tiền lãi là 48.300.000 đồng+lãi phạt quá hạn là 175.000 đồng. Tổng cộng:  398.475.000 đồng.
Ông Tùng thoả thuận trả nợ cho Ngân hàng như sau:
- Ngày 28/4/2009 trả 25.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 11/5/2009 trả  25.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 30/5/2009 trả 100.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 15/6/2009 trả 100.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 30/6/2009 trả số tiền gốc 100.000.000 đồng cộng toàn bộ lãi và phí phạt quá hạn.
2. Nếu phía ông Tùng vi phạm một trong các kỳ hạn trả nợ nêu trên thì phía Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án xử lý toàn bộ tài sản mà ông Nguyễn Thanh Tùng và bà Nguyễn Thị Thu Hương đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 08.06.0027/HĐBĐ ngày 8/4/2008 để thu hồi nợ.
Ngày 24/5/2010 và ngày 16/12/2010, Ngân hàng có đơn kiếu nại Quyết định công nhận sự thoả thuận theo thủ tục giám đốc thẩm.
Xét thấy: Đối chiếu nội dung Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 07/2009/QĐST-KDTM ngày 22/4/2009 nêu trên với thoả thuận của các đương sự tại phiên hoà giải ngày 16/4/2009 Toà án nhân dân tỉnh VP có lập 2 biên bản hoà giải:
- Tại Biên bản hoà giải ngày 16/4/2009, hai bên đương sự thống nhất ông Tùng còn nợ Ngân hàng tính đến ngày 16/4/2009 gồm nợ gốc, nợ lãi và nợ lãi phạt quá hạn, tổng cộng là 398.475.000 đồng; ông Tùng sẽ thanh toán theo từng đợt. Riêng ngày 30/6/2009, ông Tùng có trách nhiệm trả “100.000.000 đồng tiền gốc + toàn bộ lãi + lãi phát sinh”. Tại Biên bản hoà giải này không thể hiện việc các đương sự thoả thuận về việc xử lý tài sản thế chấp, phí phạt quá hạn.
- Biên bản hoà giải thành ngày 16/4/2009 về cơ bản đã thể hiện đúng thoả thuận của các đương sự về số nợ gốc và lãi, về thời gian và số tiền gốc ông Tùng phải trả cho Ngân hàng. Tuy nhiên, tại Biên bản này không ghi lãi phát sinh,nhưng lại có thêm phần xử lý tài sản thế chấp: “Nếu phía ông Tùng vi phạm một trong các kỳ hạn trả nợ nêu trên thì phía Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh VP xử lý toàn bộ tài sản mà ông Nguyễn Thanh Tùng và bà Nguyễn Thị Thu Hương đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 08.06.0027/HĐBĐ ngày 8/4/2008 để thu hồi nợ”.
Tại Quyết định công nhận sự thoả thuận đã không có khoản tiền lãi kể từ ngày ban hành quyết định cho đến ngày thanh toán hết nợ, song lại có thêm phần “phí phạt quá hạn”.
Như vậy, giữa “Biên bản hoà giải” và “Biên bản hoà giải thành” cùng ngày 16/4/2009 đã có nội dung khác nhau, và so với Quyết định công nhận sự thoả thuận cũng không thống nhất, dẫn đến việc đương sự khiếu nại.
Ví dụ 3: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH công nghiệp và thương mại Á Châu.
- Bị đơn: Công ty TNHH Bình Minh.
Quá trình giải quyết vụ án, tại buổi hoà giải ngày 29/8/2008 các bên đương sự đã thoả thuận được với nhau về toàn bộ các vấn đề trong vụ án và các thoả thuận này đều là tự nguyện, do đó Thẩm phán chủ trì buổi hoà giải đã lập Biên bản hoà giải thành, trong đó có ghi đầy đủ các nội dung thoả thuận của các đương sự như trong Biên bản hoà giải. Tuy nhiên, Biên bản hoà giải thành này chỉ có chữ ký của Thẩm phán chủ trì buổi hoà giải mà thiếu toàn bộ chữ ký của đương sự tham gia hoà giải.
Căn cứ vào Biên bản hoà giải thành nêu trên, Toà án nhân dân thành phố HN đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 129/2008/QĐST-KDTM ngày 5/9/2008 là vi phạm tố tụng (theo hướng dẫn tại tiểu mục 6.2 mục 6 phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Công văn số 107/VKHXX ngày 23/6/2006 của Toà án nhân dân tối cao).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét