Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

HỘ GIA ĐÌNH – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI SỬA ĐỔI CHẾ ĐỊNH CHỦ THỂ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005


1. Đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự về hộ gia đình
Hộ gia đình (HGĐ) là khái niệm được nhắc đến trong các văn bản pháp luật từ rất sớm (từ những năm 1964) và được ghi nhận như là một chủ thể pháp lý tham gia các quan hệ dân sự, chẳng hạn như: chủ thể quan hệ pháp luật dân sự (Điều 106 đến Điều 110 Bộ luật Dân sự – BLDS – năm 2005); chủ thể quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000); chủ thể quan hệ pháp luật cư trú, hộ tịch (Điều 24, 25 Luật Cư trú năm 2006); chủ thể quan hệ pháp luật về đăng ký kinh doanh, kinh doanh (Nghị  định số 88/2006 NĐ-CP)[1]; chủ thể quan hệ pháp luật về đất đai (quan hệ giao đất, cho thuê đất, nhận khoán đất sản xuất, chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng (QSD) đất)… Ngoài ra, HGĐ còn là chủ thể trong việc đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, các chương trình vận động, đóng góp tình nguyện… HGĐ với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là vấn đề có nguồn gốc từ lịch sử và mang tính đặc thù của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong BLDS 2005, với 5 điều luật từ Điều 106 đến Điều 110 về các giao dịch dân sự, chế định HGĐ đã gây nhiều khó khăn, vướng mắc cho công tác quản lý nhà nước và “cản trở” các giao dịch dân sự mà có HGĐ tham gia với tư cách là một bên trong quan hệ, giao dịch đó.
1.1. Về khái niệm hộ gia đình
Theo Từ điển Luật học, HGĐ là “tập hợp nhóm người có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng”1. Còn trong BLDS, khái niệm HGĐ không được định nghĩa một cách chính thức, mà chỉ khẳng định HGĐ có thể là chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự (Điều 106 BLDS). Điều 106 BLDS cho thấy, không phải bất cứ HGĐ nào cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, mà hội tụ đủ hai yếu tố sau đây mới trở thành chủ thể quan hệ dân sự: (i) HGĐ (theo hộ khẩu hành chính, theo quan hệ hôn nhân, theo quan hệ huyết thống, hoặc theo những cách xác định khác) và cộng với (ii) các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác. Điều 106 BLDS chỉ thừa nhận tư cách chủ thể của HGĐ khi giữa các thành viên có sự liên kết về mặt kinh tế và cũng chỉ thừa nhận tư cách chủ thể trong các quan hệ kinh tế, chứ không điều chỉnh tư cách chủ thể của HGĐ khi tham gia các giao dịch tiêu dùng. Như vậy, HGĐ là chủ thể hạn chế của quan hệ pháp luật dân sự. Chúng tôi cho rằng, xác định HGĐ với tư cách là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự theo quy định tại Điều 106 sẽ không khó khăn nếu đặt trong trạng thái tĩnh, tuy nhiên, trên thực tế, cuộc sống gia đình luôn ở trong trạng thái động, luôn có sự thay đổi, vận động dẫn đến tư cách chủ thể của HGĐ không rõ ràng.

Điều 106. Hộ gia đình
Hộ gia đình  các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này.
Thực tế khảo sát cho thấy, người dân, cán bộ Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã/phường thường không xác định biết thế nào là HGĐ trong giao dịch dân sự mà đồng nhất với HGĐ theo hộ khẩu[2]. Chỉ một số ít người được khảo sát như các luật sư, thẩm phán, công chứng viên[3] không nhầm lẫn về khái niệm HGĐ trong các quan hệ pháp luật dân sự khác nhau. Một số thẩm phán cho rằng, việc không tách bạch được HGĐ trong các quan hệ pháp luật khác nhau là căn nguyên của nhiều vấn đề phức tạp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến HGĐ.
1.2. Xác định thành viên hộ gia đình
BLDS không quy định về tiêu chí xác định thành viên của HGĐ trong quan hệ pháp luật dân sự, chưa quy định rõ căn cứ vào giấy tờ gì để xác định chính xác thành viên của HGĐ, đặc biệt là thành viên trong quan hệ sử dụng đất của HGĐ[4]. Trên thực tế, việc xác định thành viên của HGĐ trong từng quan hệ pháp luật cụ thể thường do UBND cấp xã/phường, cơ quan công an, Văn phòng đăng ký QSD đất[5]… thực hiện.
Bên cạnh đó, sự biến động về thành viên trong HGĐ cũng chưa được BLDS dự liệu. Trên thực tế, gia đình không phải là một chủ thể bất biến mà luôn chưa đựng những yếu tố biến động của sinh, ly, tử, biệt, tách, nhập…, tuy nhiên, do quy định của BLDS không rõ ràng nên khó xác định thành viên của hộ trong trạng thái biến động đó[6].
Đối với các thẩm phán, việc xác định thành viên của HGĐ rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định ai có quyền với tài sản chung của hộ. Trong nhiều vụ việc, Tòa án rất lúng túng trong việc xác định thành viên của hộ vì không rõ tiêu chí xác định là theo hộ khẩu hay theo quan hệ hôn nhân, hay theo quan hệ huyết thống. Bên cạnh đó, ở mỗi thời điểm khác nhau như thời điểm hình thành tài sản, thời điểm được cấp giấy chứng nhận, thời điểm tòa án thụ lý vụ án, thành viên của hộ cũng có những biến động làm ảnh hưởng đến việc xác định thành viên của hộ.
1.3. Đại diện hộ gia đình
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 107 thì chủ HGĐ trong quan hệ pháp luật dân sự có thể là một trong các thành viên của HGĐ (người cha, người mẹ hoặc thành viên đã thành niên) và có thể làm đại diện cho hộ trong gia dịch dân sự[7]. Như vậy, chủ hộ của HGĐ trong BLDS khác với chủ hộ trong sổ hộ khẩu được quy định tại Luật Cư trú. Chủ hộ của HGĐ có thể đồng thời hoặc không đồng thời là chủ hộ trong sổ hộ khẩu và vì thế, chủ hộ trong sổ hộ khẩu không thể đương nhiên dùng tư cách chủ hộ của HGĐ để thực hiện các giao dịch dân sự cho cả hộ (trừ trường hợp được cả hộ ủy quyền). Nhiều ý kiến cho rằng, Khoản 1 Điều 107 chưa đưa ra tiêu chí để xác định thành viên nào là chủ hộ của HGĐ, quy định một cách đơn giản, dễ dàng về chủ HGĐ trong giao dịch dân sự dẫn đến khó khăn khi xác định một thành viên của HGĐ xác lập giao dịch dân sự với tư cách cá nhân hay tư cách chủ HGĐ, từ đó, khó xác định trách nhiệm/nghĩa vụ phát sinh sẽ thuộc về cá nhân hay cả HGĐ.
Khoản 1 Điều 107 BLDS: “Chủ hộ là đại diện của HGĐ trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ”.
Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 107 quy định hành vi của một thành viên của HGĐ có thể phát sinh nghĩa vụ cho cả HGĐ, nhưng khái niệm “vì lợi ích chung của hộ” lại rất mơ hồ. Điều này không hợp lý khi mà hành vi này gây hại cho lợi ích chung của cả hộ hoặc không được sự tán đồng của các thành viên khác nhưng vẫn có thể làm phát sinh nghĩa vụ cho những thành viên khác trong HGĐ theo Khoản 1 Điều 110 BLDS. Mặt khác, vấn đề chưa rõ ở đây là, các thành viên HGĐ phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo quy định này là những thành viên đã đủ 15 tuổi có năng lực hành vi dân sự hay bao gồm cả những thành viên chưa đủ 15 tuổi, thành viên đã đủ 15 tuổi nhưng không có khả năng nhận thức hành vi, có tài sản chung với cả gia đình, vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới với cả HGĐ? Trong trường hợp nếu tài sản chung của HGĐ không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì thành viên dưới 15 tuổi, thành viên bị mất năng lực hành vi dân sự có tài sản riêng, có phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ hay không?
Khoản 2 Điều 107 BLDS: “Giao dịch dân sự do người đại diện của HGĐ xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả HGĐ”,
Khoản 1 Điều 110 BLDS: “…1. HGĐ phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện của HGĐ xác lập, thực hiện nhân danh HGĐ”.
1.4. Tài sản của hộ gia đình
Tài sản chung của HGĐ được hiểu theo quy định tại Điều 108 BLDS. Tài sản chung chính là khối tài sản do các thành viên của cả hộ tạo lập nên trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh tế chung và các tài sản mặc dù thuộc sở hữu cá nhân nhưng có thỏa thuận góp vào khối tài sản chung, hoặc các tài sản được sử dụng vào mục đích hoạt động kinh tế chung. Tài sản chung này bao gồm: quyền sở hữu nhà ở, QSD đất (gồm cả đất ở và đất canh tác), rừng, rừng trồng của hộ khi được Nhà nước giao đất canh tác, trồng rừng cho hộ và các tài sản chung được tạo thành theo các căn cứ được quy định tại Điều 170 BLDS.
Theo quy định pháp luật hiện hành, trong HGĐ có thể tồn tại một hoặc một số hình thức sở hữu khác nhau gồm sở hữu tư nhân (sở hữu riêng của thành viên), sở hữu chung (sở hữu chung vợ chồng (hợp nhất), sở hữu chung theo phần); bên cạnh đó, một tài sản trong gia đình có thể thuộc về nhiều hình thức sở hữu khác nhau (mang tính chất hỗn hợp). Trên thực tế, việc xác định dạng sở hữu, chủ sở hữu dễ bị nhẫm lẫn hoặc khó xác định, chẳng hạn tài sản chung của HGĐ nhưng bố mẹ cho rằng đó là tài sản chung hợp nhất của bố mẹ, các con không có quyền đòi hỏi, bố mẹ mua bán cũng không cần tham khảo ý kiến các con.
Tại các tỉnh/thành phố mà chúng tôi đã khảo sát, tài sản chung quan trọng nhất của HGĐ phần lớn là quyền sử đụng đất nông nghiệp. Về bản chất pháp lý, có thể được coi là sở hữu chung theo phần do ở đó, mỗi người đều có phần cụ thể và được ghi nhận trong văn bản của chính quyền.
1.5. Định đoạt tài sản chung của hộ gia đình
Chúng tôi cho rằng, có một số điểm bất cập liên quan đến Khoản 2 Điều 109 như sau:
Thứ nhất, xác định thế nào là “tài sản chung có giá trị lớn” của HGĐ? Đối với HGĐ này, xe máy là một tài sản lớn, nhưng đối với HGĐ khác, ôtô mới là tài sản lớn v.v..
Thứ hai, sự đồng ý của các thành viên trong HGĐ khi định đoạt tài sản:
- Đối với các “tài sản chung có giá trị lớn”: Việc đồng ý của tất cả các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên ở đây không được định rõ là đồng ý bằng hình thức nào (phải thể hiện bằng văn bản, hay chỉ cần đồng ý bằng lời nói).
- Đối với “các loại tài sản chung khác”: Ngoài những tài sản chung có giá trị lớn, đối với các loại tài sản chung khác, việc định đoạt phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý. Điều này có nghĩa rằng, rất nhiều giao dịch định đoạt tài sản chung của HGĐ có giá trị không lớn, đều phải có sự đồng ý của các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên. Điều này nhiều khi dẫn tới sự phức tạp không cần thiết liên quan đến các giao dịch về tài sản chung của HGĐ (giao dịch nhỏ, lẻ như: đem một con gà, một kg thóc, một mớ rau… của gia đình ra chợ bán…)
Khoản 2 Điều 109 BLDS: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của HGĐ phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”.
Thứ ba, giá trị pháp lý của giao dịch định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của HGĐ mà không có sự đồng ý của các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên hoặc giao dịch đối với các loại tài sản chung khác mà không có sự đồng ý của đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên là không rõ ràng, vì BLDS không quy định rõ những hợp đồng này là vô hiệu hay có hiệu lực?
Thứ tư, có sự đan xen trong việc áp dụng quy định của Khoản 2 Điều 109 và Khoản 2 Điều 107 BLDS. Khoản 2 Điều 107 quy định: “Giao dịch dân sự do người đại diện của HGĐ xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả HGĐ”. Trong khi đó, Khoản 2 Điều 109 lại quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của HGĐ phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”.
Trên thực tế, có những giao dịch ban đầu không mang tính chất định đoạt tài sản chung của HGĐ (áp dụng khoản 2 Điều 107, chỉ cần chủ hộ thực hiện), nhưng sau đó quan hệ pháp luật lại chuyển biến thành có tính chất định đoạt (giao dịch phải áp dụng khoản 2 Điều 109, phải có sự đồng ý của các thành viên), vậy giao dịch đó có hiệu lực hay không? Chẳng hạn, chủ hộ ký kết hợp đồng cầm cố tài sản của gia đình (ô tô, xe máy) để vay tiền (giao dịch không định đoạt, không chuyển quyền sở hữu tài sản), sau đó, vì không trả được nợ dẫn đến việc tài sản bị xử lý (quan hệ cầm cố vay tiền đã trở thành việc gia đình mất quyền sở hữu với tài sản), vậy chỉ một mình chủ hộ ký kết hợp đồng cầm cố ban đầu thì có hợp lý hay không?
2. Thực tế tham gia quan hệ pháp luật dân sự của chủ thể hộ gia đình
Như đã nói, HGĐ tham gia rất nhiều quan hệ pháp luật và nhiều dạng giao dịch dân sự khác nhau. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có một số dạng giao dịch dân sự mà HGĐ tham gia với tư cách chủ thể chủ yếu như vay vốn ngân hàng, mua bán tài sản phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình hoặc sản xuất kinh doanh, các giao dịch liên quan đến QSD đất. Chúng tôi thấy rằng, từ quy định hiện hành của pháp luật dân sự – với nhiều điểm bất cập, thiếu rõ ràng – đến thực tiễn cuộc sống đang có khoảng cách khá xa, thậm chí là khác biệt. Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật dân sự còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như quy định có tính đặc thù của pháp luật chuyên ngành, phong tục tập quán của xã hội, trình độ hiểu biết của người dân… Các biểu hiện cụ thể là:
· Giao dịch vay vốn ngân hàng
Thực tế cho thấy, trong giao dịch thế chấp tài sản chung để vay vốn ngân hàng, ngân hàng thường yêu cầu cả HGĐ ký vào hợp đồng – kể cả trong trường hợp đất của cá nhân hoặc đất của vợ chồng. Như vậy, việc ngân hàng yêu cầu các thành viên trong gia đình đều phải ký vào hợp đồng thế chấp tài sản là rộng hơn so với chủ thể thực tế sở hữu tài sản.
· Giao dịch mua bán tài sản
Trên thực tế, các giao dịch mua bán thông thường trong đời sống gắn liền với cá nhân đứng ra thực hiện giao dịch, ai mua, bán tài sản nào thì người đó chịu trách nhiệm, như vậy, thành viên trong HGĐ tham gia giao dịch với tư cách là cá nhân chứ không đặt ra vấn đề về tư cách đại diện cho HGĐ. Ví dụ khi A bán cho B thức ăn nuôi gia súc, A không thể biết và không thể phân biệt B đóng vai trò là đại diện của HGĐ mua để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của gia đình hay B là cá nhân mua để phục vụ cho việc chăn nuôi của riêng mình, bởi vậy, nếu B mua nợ A thì A đòi B tiền, chứ A không đòi gia đình của B trả tiền. Thực tế này khác biệt với quy định pháp luật hiện hành (Khoản 2 Điều 107, khoản 1 Điều 110) khi xác định HGĐ cũng có khả năng chịu trách nhiệm dân sự đối với giao dịch do thành viên của hộ thực hiện.
Tài sản trong các HGĐ trên thực tế thường được coi là tài sản của cha mẹ, kinh tế HGĐ cũng chủ yếu là quan hệ kinh tế chung của hai vợ chồng, con cái ở chung với cha mẹ có thể có đóng góp nhưng không có vai trò trong việc ra quyết định mua hay bán[8]. Bởi vậy, quy định về sự đồng ý của thành viên trên 15 tuổi khi chủ hộ thực hiện các giao dịch mang tính định đoạt hầu như không được thi hành.
Thực tế khảo sát các tranh chấp liên quan đến HGĐ tại Tòa án cho thấy, Tòa án không hoặc ít khi giải quyết vụ việc nào liên quan đến giao dịch của HGĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tranh chấp phát sinh từ các tài sản mà HGĐ làm ra, tranh chấp liên quan đến giao dịch do chủ hộ thực hiện mà không có sự đồng ý của các thành viên khác.
· Giao dịch liên quan đến QSD đất
Có thể nói rằng, QSD đất của HGĐ và các giao dịch liên quan đến QSD đất của HGĐ là vấn đề phức tạp lớn nhất, nảy sinh nhiều tranh chấp nhất trong thực tiễn tham gia quan hệ pháp luật dân sự của HGĐ.
- Về thực trạng giấy tờ về QSD đất ghi nhận HGĐ là chủ thể sử dụng:
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, nguồn gốc QSD đất của HGĐ tương đối phức tạp, bao gồm đất đai của cha ông để lại, đất đai được phân chia sau khi hệ thống các hợp tác xã nông nghiệp tan rã, đất đai nhận chuyển nhượng, được Nhà nước giao đất, cho thuê đất… Điều đáng lưu ý là, hầu hết giấy tờ liên quan đều ghi nhận QSD đất là của HGĐ ông A, ông B mà không có ghi nhận những thành viên của hộ cùng có QSD đối với mảnh đất đó là ai. Một số chính quyền cấp xã[9] có lưu giữ hồ sơ trước bạ, địa chính, trong đó xác định họ tên những chủ thể sử dụng đất trong mảnh đất cấp cho hộ, nhưng ngược lại, không ít địa phương không có sổ sách theo dõi chủ thể sử dụng của từng mảnh đất.
Hơn thế nữa, khi thực thi Luật Đất đai năm 1993, thực hiện hướng dẫn của Tổng cục Địa chính theo mẫu giấy tờ cấp đất, phần lớn giấy tờ giao đất của cá nhân, của vợ chồng khi Nhà nước cấp giấy chứng nhận đã ghi nhận thành đất của HGĐ. Tại một số tỉnh thành, chẳng hạn như tại Long An[10], chỉ một thời gian ngắn sau đó, chính quyền đã tiến hành rà soát từng trường hợp cụ thể và điều chỉnh các hồ sơ giao đất, cho thuê đất cho HGĐ thành các trường hợp giao đất, cho thuê đất cho cá nhân, vợ chồng, HGĐ đúng với chủ thể sử dụng đất trên thực tế. Tuy nhiên, tại phần lớn các tỉnh, thành trong cả nước, cơ quan địa chính đã không thực hiện công việc này hoặc thực hiện nhưng không triệt để.
Đến năm 2000, sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành, Luật Đất đai năm 1993 được sửa đổi, bổ sung, Nhà nước có chủ trương cấp lại giấy Chứng nhận QSD đất, một lần nữa, theo hướng dẫn và mẫu sổ đỏ của Tổng cục Địa chính, nhiều giấy tờ đứng tên cá nhân, vợ chồng được chuyển thành giấy tờ chứng nhận QSD đất của HGĐ.
Thực trạng trên cho thấy, việc xác định chủ thể thực sự của QSD đất của HGĐ trở thành “mê cung” mà ở đó, các nhà nghiên cứu, xây dựng pháp luật chính sách lẫn những người thực thi như cán bộ chính quyền cơ sở, thẩm phán, công chứng viên… không dễ dàng gỡ rối, phân định tách bạch, rõ ràng.
Từ những bất cập trong việc xác định thành viên có quyền đối với tài sản của HGĐ, đặc biệt là nhà và đất, đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp:
Một số đối tượng trong giao dịch chuyển nhượng QSD đất, nhà ở đã lợi dụng biến động giá cả của thị trường và lợi dụng chi tiết việc mua bán tài sản không có đủ sự đồng ý của các thành viên để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu, gây phức tạp trong quan hệ xã hội.
+ Nhiều trường hợp giấy chứng nhận QSD đất chỉ ghi chung chung như: Cấp cho HGĐ Ông A hay cấp cho tộc họ Nguyễn… nhưng thực tế, thửa đất lại thuộc QSD của cả vợ và chồng hoặc của các thành viên khác trong gia đình, nên khi có tranh chấp, Tòa án phải mất nhiều thời gian thẩm tra, xác minh để làm rõ những người có QSD đất cụ thể là những ai trong HGĐ, trong  tộc họ. Các đương sự thường cho rằng việc xét xử của Tòa án là thiếu tính thuyết phục nên thường có đơn kêu oan gửi nhiều cơ quan nhà nước, gây ra tâm lý thiếu tin cậy vào cơ quan Tòa án của người dân.
+ Nhiều trường hợp, việc xác định thành viên HGĐ giữa các Tòa án là không thống nhất. Có Tòa án dựa vào tiêu chí cư trú để quan niệm rằng, người đứng tên trong Giấy chứng nhận QSD đất nông nghiệp, thành viên của HGĐ nếu đã tách khẩu, chuyển đi nơi khác sinh sống thì không còn quyền đối với việc sử dụng đất nữa, có Tòa án lại cho rằng, giấy tờ ghi nhận QSD đất là văn bản quan trọng để xác định những thành viên có quyền đối với việc sử dụng đất chứ không nên căn cứ vào việc họ có còn cư trú ở địa phương nữa hay không. Có Tòa án cho rằng, việc xác định thành viên trong gia đình theo sổ hộ khẩu là căn cứ quan trọng để xác định chủ thể có QSD đất, có Tòa án lại cho rằng, phải căn cứ vào thành viên thực tế của gia đình tại thời điểm cấp đất để xác định chủ thể có QSD đất.
3. Có nên duy trì chế định chủ thể hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự?
Chúng tôi đã nêu hai phương án về việc hoàn thiện quy định của BLDS và lấy ý kiến của người dân, cán bộ chính quyền cơ sở, chuyên gia pháp luật, luật sư, thẩm phán:
Phương án 1: Không đề cập đến HGĐ là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự[11]các vấn đề về tài sản, quyền và trách nhiệm đều có thể quy về tài sản chung, hoặc tài sản vợ chồng.
Phương án 2Giữ các quy định về HGĐ và có sửa đổi hợp lý, trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, HGĐ vẫn là chủ thể được Nhà nước giao đất, giao rừng, các quy định về hộ kinh doanh vẫn được xác lập dựa trên HGĐ, việc bỏ chế định HGĐ sẽ dẫn đến những xáo trộn lớn trong đời sống xã hội, vì vậy, chừng nào HGĐ còn là chủ thể sử dụng đất thì pháp luật vẫn nên quy định HGĐ là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự.
Chúng tôi cho rằng, trước khi lựa chọn một trong hai phương án trên, các khía cạnh sau cần được cân nhắc kỹ lưỡng:
Thứ nhất, HGĐ có phải là chủ thể phổ biến trong quan hệ pháp luật dân sự hay không? Chúng tôi xác định HGĐ là chủ thể phổ biến trong quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình, hộ tịch, quan hệ pháp luật đất đai, nhưng không phải là chủ thể phổ biến trong quan hệ pháp luật dân sự. Mặt khác, như đã phân tích, quy định về HGĐ trong BLDS vừa có nhiều bất cập vừa không được áp dụng nhiều trong đời sống dân sự[12]. Bởi vậy, việc không ghi nhận HGĐ nữa sẽ không gây xáo trộn đến đời sống xã hội.
Thứ hai, thực tiễn thi hành các quy định của BLDS 1995 và BLDS 2005 về HGĐ có nảy sinh phức tạp trong đời sống xã hội, quản lý nhà nước và khó khăn trong giải quyết tranh chấp có liên quan hay không? Chúng tôi thấy rằng, từ sự thiếu tường minh trong các quy định pháp luật đã dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp trong thực tiễn thi hành pháp luật về HGĐ, quản lý nhà nước và giải quyết tranh chấp phát sinh.
Thứ ba, pháp luật dân sự có nên quy định về một chủ thể luôn có sự thay đổi như HGĐ?[13]Chúng tôi cho rằng, pháp luật không nên quy định về một đối tượng mà đối tượng đó luôn vận động, quy định pháp luật không thể đảm bảo được tính “động” để có thể bao quát được đối tượng đó.
Thứ tư, có thể xác định được quyền sở hữu của từng thành viên trong HGĐ hay không? Việc xác định sở hữu của thành viên đối với tài sản là động sản của HGĐ không hề khó khăn. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, sự thay đổi chính sách đất đai qua nhiều thời kỳ đã dẫn đến việc không thể một sớm một chiều có thể xác định được thành viên có quyền đối với QSD đất của HGĐ. Tình trạng QSD đất có nguồn gốc của cá nhân, vợ chồng nhưng giấy tờ ghi nhận QSD đất lại là của HGĐ tương đối phổ biến, bên cạnh đó là tình trạng giấy tờ chứng nhận QSD đất ghi nhận của HGĐ nhưng không khẳng định được những thành viên đều có quyền với đất. Đây chính là vấn đề mấu chốt nhất cần được cân nhắc trước khi lựa chọn phương án duy trì hay không duy trì chủ thể HGĐ trong pháp luật dân sự.
Từ các phân tích nói trên, chúng tôi ủng hộ quan điểm không duy trì HGĐ là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, bối cảnh thuận lợi và lý tưởng để lược bỏ các quy định từ Điều 106 đến Điều 110 BLDS về HGĐ là khi các nhà làm luật, cán bộ thực thi pháp luật “cá thể hóa” được vấn đề QSD đất của HGĐ trong hệ thống văn bản pháp luật về đất đai và trong thực tiễn xã hội. Tức là sau khi chính sách về đất đai được rà soát lại, Luật Đất đai năm 2003 được xem xét sửa đổi, bổ sung toàn diện, cơ quan có thẩm quyền rà soát, xác định lại từng mảnh đất ghi nhận QSD của HGĐ thuộc về thành viên cụ thể trong gia đình. Những giấy chứng nhận đã cấp cho HGĐ cần được chỉnh sửa theo hướng ghi rõ các cá nhân là thành viên, nghĩa là ghi đủ tên các thành viên của hộ hoặc ghi một hay một số cá nhân là chủ sử dụng đất thực sự khi có đủ căn cứ chứng minh nguồn gốc đất đó do cá nhân được chuyển nhượng, chia tách hoặc do thừa kế, tặng cho riêng. Với những giấy chứng nhận đang trong quá trình xét, cấp thì chỉ cấp giấy chứng nhận QSD đất cho HGĐ khi các thành viên trong hộ sử dụng đất cùng làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận QSD đất cho hộ, có xác nhận của UBND xã và ghi nhận đầy đủ tên của các thành viên có quyền. Trường hợp đất đã cấp cho HGĐ mà một trong các thành viên trong hộ muốn tách ra một thửa riêng bằng văn bản thỏa thuận phân chia QSD đất thì diện tích đất còn lại phải xác định rõ thuộc QSD của những cá nhân nào trong các thành viên còn lại trong hộ.
Trong giai đoạn hiện nay, việc đề xuất không duy trì chủ thể HGĐ nữa sẽ vấp phải những rào cản rất lớn từ dư luận xã hội, từ nhận thức của nhiều tầng lớp trong xã hội[14], từ những khó khăn trong việc giải quyết những vấn đề của chính sách đất đai. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta không chấp nhận sửa đổi các bất hợp lý trong các quy định của pháp luật.

[1]Hộ kinh doanh do một  cá  nhân  là  công  dân  Việt Nam  hoặc một nhóm người hoặc một HGĐ  làm chủ, chỉ được  kinh  doanh tại một  địa  điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh (Điều 36, khoản 1).
[2] Chính quyền cấp xã/phương tại Long An, Thái Bình, Phú Yên, Lạng Sơn
[3] Tại Thái Bình, trong quá trình công chứng, các công chứng viên thường căn cứ vào sổ hộ khẩu của gia đình đồng thời xác minh công sức đóng góp của cha mẹ, con cái vào tài sản được mang ra giao dịch.
[4] Báo cáo Đoàn khảo sát BLDS 2005 tỉnh Phú Yên – Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp
[5] Theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT ngày 21/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường)để biết thông tinxác định các thành viên HGĐ, người có yêu cầu có thể đề nghị Văn phòng đăng ký QSD đất cung cấp thông tin về các thành viên trong HGĐ được Nhà nước giao đất.Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp Văn phòng đăng ký QSD đất đều có thể xác định được.
[6] Chẳng hạn trường hợp trong hộ khẩu của HGĐ có thành viên mới (con dâu/con rể, cháu, chắt…) thì thành viên mới đó có được tính là thành viên của HGĐ trong quan hệ pháp luật dân sự không? Nếu những người này cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh tế chung của HGĐ thì họ có quyền đối với tài sản chung của HGĐ hay không?
[7] Chủ HGĐ trong quan hệ pháp luật dân sự có thể là chủ hộ theo hộ khẩu (bố hoặc mẹ) có thể là theo cách khác như người cao tuổi nhất, người đóng góp công sức tiền của nhiều nhất hoặc theo sự thỏa thuận của tất cả các thành viên trong hộ…
[8] Điều này đúng cả với trường hợp con thành niên và chưa thành niên: việc có được tham gia quyết định hay không phụ thuộc vào việc có được cha mẹ cho tham gia ý kiến hay không.
[9] Chẳng hạn tại Thái Bình, chính quyền giao đất cho HGĐ theo định suất cho các thành viên có tên trong sổ hộ khẩu gia đình tại thời điểm giao đất và lưu giữ sổ sách về các thành viên trong sổ địa chính.
[10] Tại tỉnh Long An, hầu hết giấy tờ đất đai đều ghi nhân chủ thể sử dụng đất là cá nhân, vợ chồng, không có hoặc rất ít giấy chứng nhận QSD đất ghi là “HGĐ”. Đặc điểm này xuất phát từ thực tế trước năm 1975, Long An là địa bàn thuộc Việt Nam Cộng hòa với chế độ tư hữu ruộng đất, đặc điểm này đã ảnh hưởng không nhỏ đến cách thức xử lý của chính quyền về đất đai, tạo ra sự khác biệt so với một số tỉnh miền Bắc.
Từ thời kỳ đổi mới cho đến nay, chính quyền cá thể hóa việc cấp đất (chỉnh sửa giấy tờ đã cấp hoặc giấy tờ cấp mới ghi nhận đất cấp cho cá nhân, vợ chồng); chỉ một số trường hợp dân phía nam về Đồng Tháp Mười khai hoang thì có cấp theo hộ, tính mỗi hộ được 1,3 ha. Trên thực tế, có trường hợp người đứng tên chủ hộ trong giấy chứng nhận QSD đất nhưng không phải là chủ HGĐ trong sổ hộ khẩu gia đình. Tại các xã An Vĩnh Ngãi, xã Long Trì, huyện Châu Thành, tại thời điểm chúng tôi tiến hành hoạt động khảo sát (tháng 12/2011) chính quyền xã cho biết hiện tại không còn quỹ đất để cấp mới, vì vậy người dân, vợ chồng hoặc HGĐ có đất thường do cha mẹ để lại hoặc nhận chuyển nhượng. UBND tỉnh cũng có chủ trương cho điều chỉnh bỏ từ “hộ” trong giấy chứng nhận QSD đất.
[11] Cần khẳng định rằng việc quy định về chủ HGĐ trong BLDS không có nghĩa là xóa bỏ chủ thể HGĐ trong các quan hệ pháp luật khác
[12] Báo cáo Đoàn khảo sát tại tỉnh Thái Bình (tháng 12/2011)
[13] Trong quan hệ pháp luật dân sự, hai chủ thể truyền thống là cá nhân, pháp nhân thường được xác định là có tư cách chủ thể (khi được hình thành, được sinh ra, có đủ năng lực hành vi dân sự) hoặc hết tư cách chủ thể (chết đi, giải thể, mất năng lực hành vi dân sự) và ít có sự biến động. Trong khi chủ thể HGĐ thì hoàn toàn khác biệt vì cuộc sống của HGĐ, thành viên của HGĐ luôn có sự thay đổi.
[14] Tại Thái Bình, quan điểm về việc cần phải duy trì HGĐ như một chủ thể của luật dân sự cho thấy yếu tố tâm lý rất rõ nét khi toàn bộ những người được hỏi, dù ở vai trò nào, cũng đều trả lời rằng không thể bỏ chủ thể này đi được. Kể cả đối với những thẩm phán đưa ra quan điểm về việc nên thiết lập tài sản của HGĐ theo chế định sở hữu chung cũng vẫn cho rằng, không thể bỏ HGĐ.
Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét