Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010

Qui định về hoạt động Thừa phát lại

Nghị định 61/2009 qui định về hoạt động thừa phát lại, thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh. Công việc chính của thừa phát lại là tống đạt văn bản của Tòa án, lập vi bằng theo yêu cầu, xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp thực hiện thi hành án dân sự theo yêu cầu. Vi bằng là gì ? Thừa phát lại là ai ? …

Thừa phát lại và Văn phòng thừa phát lại


Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và một số công việc khác.
 Thừa phát lại được làm những công việc sau :
  1. Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan thi hành án dân sự.
  2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
  3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự.
  4. Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án.
  Khi thực hiện công việc về thi hành án dân sự, Thừa phát lại có quyền như Chấp hành viên – trừ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
  Cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp và mọi cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Thừa phát lại theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối trái pháp luật yêu cầu của Thừa phát lại thì phải chịu trách nhiệm và bồi thường thiệt hại nếu có.
  Chi phí thực hiện công việc của Thừa phát lại phải được ghi nhận trong hợp đồng giữa văn phòng Thừa phát lại và người yêu cầu ( một dạng hợp đồng dịch vụ).

Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của Thừa phát lại. Tên gọi văn phòng Thừa phát lại phải bao gồm cụm từ “Văn phòng Thừa phát lại” và phần tên riêng liền sau. Người đứng đầu Văn phòng Thừa phát lại phải là Thừa phát lại và là người đại diện theo pháp luật của văn phòng Thừa phát lại.
  Văn phòng Thừa phát lại có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.
  Thủ tục thực hiện công việc của Thừa phát lại

 1. Tống đạt văn bản của cơ quan thi hành án dân sự và tòa án

 Tống đạt là việc thông báo, giao nhận các văn bản của Tòa án và Cơ quan thi hành án dân sự do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật.
  Văn phòng Thừa phát lại được quyền thỏa thuận để tống đạt các văn bản của Cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án tại thành phố Hồ Chí Minh và ngoài địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Về thủ tục tống đạt : Trưởng văn phòng Thừa phát lại có thể giao thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại thực hiện việc tống đạt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận việc tống đạt phải do chính Thừa phát lại thực hiện.
  Thủ tục thực hiện việc thông báo về thi hành án dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Thủ tục thực hiện việc tống đạt văn bản của Tòa án thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng.
  Văn phòng Thừa phát lại phải chịu trách nhiệm trước Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự về việc tống đạt thiếu chính xác, không đúng thủ tục, đúng thời hạn của mình; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thưởng theo quy định.

2. Lập vi bằng

 Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.
  Thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự trừ các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp pháp luật cấm.
  Về thủ tục lập vi bằng : Việc lập vi bằng phải do chính Thừa phát lại thực hiện. Thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại có thể giúp Thừa phát lại thực hiện việc lập vi bằng, nhưng Thừa phát lại phải chịu trách nhiệm về vi bằng do mình thực hiện.

Vi bằng chỉ ghi nhận những sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến; việc ghi nhận phải khách quan, trung thực. Trong trường hợp cần thiết Thừa phát lại có quyền mời người làm chứng chứng kiến việc lập vi bằng.

Vi bằng lập thành 03 bản chính: 01 bản giao người yêu cầu; 01 bản gửi Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh để đăng ký trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lập vi bằng; 01 bản lưu trữ tại văn phòng Thừa phát lại theo quy định của pháp luật về chế độ lưu trữ đối với văn bản công chứng.
  Nội dung chủ yếu của vi bằng có các nội dung chủ yếu sau:
  a) Tên, địa chỉ văn phòng Thừa phát lại; họ, tên Thừa phát lại lập vi bằng;
  b) Địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm lập vi bằng;
  c) Người tham gia khác (nếu có);
  d) Họ, tên, địa chỉ người yêu cầu lập vi bằng và nội dung yêu cầu lập vi bằng;
  đ) Nội dung cụ thể của sự kiện, hành vi được ghi nhận;
  e) Lời cam đoan của Thừa phát lại về tính trung thực và khách quan trong việc lập vi bằng;
  g) Chữ ký của Thừa phát lại lập vi bằng và đóng dấu văn phòng Thừa phát lại, chữ ký của những người tham gia, chứng kiến (nếu có) và có thể có chữ ký của những người có hành vi bị lập vi bằng.
  Kèm theo vi bằng có thể có hình ảnh, băng hình và các tài liệu chứng minh khác.
  Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án, là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

Cá nhân, tổ chức muốn lập vi bằng phải thỏa thuận với Trưởng văn phòng Thừa phát lại về việc lập vi bằng, gồm các vấn đề chính như : Nội dung cần lập vi bằng; Chi phí lập vi bằng. .. Việc thỏa thuận lập vi bằng được lập thành văn bản.
  3. Xác minh điều kiện thi hành án dân sự

 Thừa phát lại có quyền xác minh điều kiện thi hành án liên quan đến việc thi hành án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ quan thi hành án dân sự tại thành phố Hồ Chí Minh. Khi thực hiện, Thừa phát lại có quyền xác minh ngoài địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong trường hợp đương sự cư trú, có tài sản hay có điều kiện thi hành án ngoài địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Về thủ tục, việc xác minh điều kiện thi hành án được tiến hành bằng văn bản yêu cầu hoặc trực tiếp xác minh. Khi trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án của đương sự, Thừa phát lại phải lập biên bản.
  Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện yêu cầu của Thừa phát lại và chịu trách nhiệm về nội dung thông tin đã cung cấp.

Trong trường hợp cần thiết, Thừa phát lại có quyền mời cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh. Các quy định khác về thủ tục xác minh điều kiện thi hành án thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án.
  Người được thi hành án có quyền dùng kết quả xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại để yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền thi hành án vụ việc căn cứ kết quả xác minh để tổ chức thi hành án.
  Trong trường hợp có căn cứ xác định kết quả xác minh không khách quan, chính xác thì Cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng Thừa phát lại khác có quyền không sử dụng kết quả đó nhưng phải trả lời bằng văn bản có nêu rõ lý do.

Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến việc thi hành án thỏa thuận với Trưởng văn phòng Thừa phát lại về việc xác minh điều kiện thi hành án. Văn bản thỏa thuận phải có các nội dung chủ yếu sau: Nội dung cần xác minh, trong đó nêu cụ thể yêu cầu xác minh về điều kiện tài sản hay các điều kiện khác của đương sự; Thời gian thực hiện việc xác minh; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Chi phí xác minh…
  4. Trực tiếp thi hành bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự

 Thừa phát lại được quyền trực tiếp tổ chức thi hành theo đơn yêu cầu của đương sự đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
  Thừa phát lại có thể tổ chức thi hành các vụ việc ngoài địa bàn quận, huyện nơi đặt văn phòng Thừa phát lại nếu đương sự có tài sản, cư trú hay có các điều kiện khác ngoài địa bàn quận, huyện nơi đặt văn phòng Thừa phát lại.
  Cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một văn phòng Thừa phát lại hoặc Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án. Điều này có nghĩa là nếu Quí vị đã nhờ Văn phòng thừa phát lại trực tiếp thi hành án thì không còn quyền yêu cầu cơ quan thi hành án (của Nhà nước) thực hiện nữa.
  Đương sự có quyền yêu cầu văn phòng Thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án dân sự trong trường hợp vụ việc đó đang do Cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp tổ chức thi hành. Thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
Về thủ tục chung về thi hành án của Thừa phát lại : Thừa phát lại thực hiện các thủ tục về thi hành án theo quy định tại Nghị định 61/2009. Trường hợp trong Nghị định không quy định thì áp dụng theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  Trưởng văn phòng Thừa phát lại ra quyết định thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ký hợp đồng thỏa thuận thi hành án với người yêu cầu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
  Quyết định thi hành án có các nội dung:
  a) Tên, địa chỉ Văn phòng Thừa phát lại;
  b) Ngày, tháng, năm ra văn bản;
  c) Nội dung yêu cầu người phải thi hành án thi hành;
  d) Thời hạn để người phải thi hành án tự nguyện thi hành.
  Quyết định thi hành án phải được gửi cho Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tại nơi có văn phòng Thừa phát lại để phối hợp thi hành.

Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại Luật Thi hành án dân sự. khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, Thừa phát lại có quyền và nghĩa vụ như Chấp hành viên.
  Sau khi hết thời hạn tự nguyện đã được ấn định trong quyết định thi hành án, Thừa phát lại có quyền ra quyết địnháp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quy định tại Luật thi hành án dân sự.

Quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự có các nội dung chủ yếu sau:
  a) Tên, địa chỉ văn phòng Thừa phát lại; họ, tên Thừa phát lại ra quyết định cưỡng chế thi hành án;
  b) Căn cứ ra quyết định cưỡng chế;
  c) Đối tượng và biện pháp cưỡng chế thi hành án áp dụng;
  d) Thời gian, địa điểm áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
  Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, Thừa phát lại có quyền, nghĩa vụ như Chấp hành viên và thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Người yêu cầu thi hành án và văn phòng Thừa phát lại thỏa thuận về việc thi hành án. Văn bản thỏa thuận thể hiện dưới hình thức hợp đồng và có các nội dung chủ yếu như: Ngày yêu cầu thi hành án; Các khoản yêu cầu thi hành theo bản án, quyết định; Chi phí, phương thức thanh toán ...
  Nghị định 61/2009 có hiệu lực từ ngày 09 tháng 9 năm 2009.
 Hoạt động thừa phát lại tuy thực chất đã có tại miền Nam trước năm 1975, nhưng nay có thể xem là một hoạt động còn rất mới mẻ tại Việt Nam, có ý nghĩa xã hội hóa thêm một phần trong lĩnh vực tư pháp, vốn đang ở tình trạng quá tải và kém hiệu quả.
 

“Thừa phát lại ơi, lập vi bằng cho tui đi!”

Có thỏa thuận, giao dịch, sự kiện xảy ra nhưng không thuộc thẩm quyền chứng của cơ quan nào: Đã có vi bằng của thừa phát lại.
Sau một tháng được cấp giấy phép, chờ các thủ tục con dấu, mã thuế… và đi vào hoạt động chính thức, năm văn phòng thừa phát lại đầu tiên được thí điểm tại TP.HCM đã có nhiều khách hàng gõ cửa. Yêu cầu phổ biến nhất là việc lập vi bằng.
“Làm vi bằng cho chắc”
Công chứng hợp đồng bán căn nhà tái định cư ở quận 2 cho người quen xong, ông Phan Nam mới chột dạ nhận ra ở một số dự án, ngoài tiền bồi thường hỗ trợ được nhận ban đầu, một thời gian sau người bị giải tỏa còn nhận được thêm một khoản tiền hỗ trợ nữa. Sợ mất khoản tiền đó vào tay bên mua, ông Nam giao kèo: Nếu có bất kỳ khoản hỗ trợ thêm nào thì ông phải được nhận. Bên mua đồng ý. Nhưng suy đi nghĩ lại, ông Nam vẫn thấy chưa yên tâm. Ông bèn thuyết phục bên mua nhà đến Văn phòng thừa phát lại quận 1 nhờ lập một cái vi bằng ghi nhận thỏa thuận giữa hai bên: Nếu sau này nhà nước có hỗ trợ gì thêm cho người tái định cư thì ông Nam là người được hưởng.
Không riêng ông Nam, nhiều khách hàng bắt đầu tiếp cận với hoạt động lập vi bằng của thừa phát lại. Có người công chứng hợp đồng mua nhà xong thì một mực kêu Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh đến ghi nhận chuyện giao nhận tiền với lời giải thích: “Tiền mua nhà lên đến hàng tỉ đồng, thôi mình cứ làm cái vi bằng cho chắc ăn!”.
“Bằng chứng hóa” các thỏa thuận
Cách đây vài hôm, Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh nhận được yêu cầu của ông NĐK (đường Võ Duy Ninh, phường 22, Bình Thạnh) và họ lập tức xuống ngay hiện trường. Hóa ra việc đập bỏ và xây dựng mới của nhà kế bên đã gây ra một vệt nứt dài trên tường nhà ông K. Khi nhận được tờ vi bằng ghi nhận có việc xây dựng của nhà hàng xóm, có vệt nứt trên nhà mình, ông K. gật gù: “Coi như tôi đã có bằng chứng. Mà nhanh thiệt, gọi thừa phát lại là được đáp ứng ngay, không phải chầu chực đợi chờ”.
Nhân viên Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh đang lấy dấu vân tay của bên bị lập vi bằng. (Ảnh do Văn phòng thừa phát lại cung cấp)
Vì được lập theo yêu cầu của các đương sự nên các vi bằng có nội dung khá đa dạng. Trưởng Văn phòng thừa phát lại quận Tân Bình, ông Nguyễn Năng Quang, cho biết: “Trong nhiều trường hợp, người dân không thể yêu cầu công chứng, chứng thực mà chỉ có hình thức vi bằng mới có thể đáp ứng được yêu cầu ghi nhận sự thỏa thuận của đôi bên, biến nó thành bằng chứng trước tòa khi có tranh chấp xảy ra. Chẳng hạn chúng tôi vừa lập vi bằng về một trường hợp tự thỏa thuận tài sản sau khi ly hôn. Người vợ trả cho chồng 500 triệu đồng để được sở hữu căn nhà mà vợ chồng đã tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân”.
Công chứng “chê”, có thừa phát lại
Thừa phát lại Đỗ Phi Thường, Văn phòng thừa phát lại quận 1, cho biết có một số trường hợp mua bán nhà đất bằng giấy tay đã hẹn ông lập vi bằng về việc giao tiền, sau đó bên mua hoàn toàn chịu trách nhiệm về thủ tục hợp thức hóa căn nhà. Ông Thường nói: “Theo quy định, nhà đất phải có giấy tờ sở hữu thì mới có thể ra công chứng hợp đồng. Tuy nhiên, nhiều người không có giấy tờ hợp pháp nên đành phải mua bán bằng giấy tay và không có cơ quan nào chứng, để rồi khi một bên lật kèo thì bên kia ngã ngửa”. Ông Thường cho biết thừa phát lại không làm hợp đồng mua bán mà chỉ ghi nhận trực tiếp chứng kiến việc giao nhận tiền và ghi nhận thỏa thuận của các bên một cách chính xác, khách quan.
Điều khiến người dân hài lòng là thừa phát lại làm việc nhanh, hiệu quả. Thừa phát lại Nguyễn Văn Thắng, Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh, cho biết để xác minh một căn nhà có thuộc sở hữu của bên phải thi hành án, ông đã trực tiếp đến UBND phường, quận để hỏi và lập biên bản vì chờ UBND trả lời bằng văn bản thì lâu hơn khiến khách hàng phải đợi.
Nhiều thừa phát lại khi được người viết hỏi đã tin rằng trong tương lai, hoạt động lập vi bằng sẽ là thế mạnh của các văn phòng thừa phát lại do đây là lĩnh vực “độc quyền”, không cơ quan nào có thẩm quyền làm.
“Ổng” ngoại tình, lập vi bằng được không?
Có bà vợ hỏi dò: “Ông xã tôi tòm tem với con nhỏ phụ bán cà phê. Tôi muốn lập vi bằng để làm chứng cho việc ly hôn trước tòa, có được không?”.
Tại buổi họp báo trao quyết định thành lập năm văn phòng thừa phát lại vào tháng 5-2010, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính đã trả lời: “Thừa phát lại lập vi bằng khi đương sự yêu cầu, trừ trường hợp vi phạm về bảo đảm an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp pháp luật cấm. Như vậy, thừa phát lại không được phép xông vô một căn phòng nào đó rồi lập vi bằng nêu anh A, chị B đang “tình tang” với nhau. Tuy nhiên, thừa phát lại có thể lập vi bằng ghi nhận một cách khách quan rằng sáng hôm ấy có việc anh A và chị B cùng vô khách sạn, rồi ở trong khách sạn đó đến buổi chiều mới ra về. Việc đánh giá, xem xét nội dung vi bằng trên sẽ do tòa án thực hiện”.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PL VỀ XÁC LẬP QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN: HAI CON GẤU NGỰA “LÀM RỐI” CƠ QUAN NHÀ NƯỚC!

Chủ gấu bị cưỡng chế thu hồi đất “làm ngơ” hai con gấu, quận phải gửi cho Thảo Cầm Viên nuôi hộ. Thảo Cầm Viên chịu hết xiết đòi trả lại thì quận chẳng biết phải chuyển gấu đi đâu.
“Nhắc tới hai con gấu ngựa là chúng tôi nhức đầu. Mình không lường được tình huống này bởi trước nay chưa từng có, không ngờ nó phát sinh rắc rối như vậy” – ông Nguyễn Văn Út, Trưởng Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận 9, TP.HCM, than.
Mất trăm triệu đồng cơm nước cho… gấu
Ông Nguyễn Xuân Ngữ ngụ quận Gò Vấp có mảnh đất diện tích hơn 3.600 m2 tại phường Long Thạnh Mỹ, quận 9 làm nhà ở, trồng cây, nuôi cá và có cái chuồng nuôi hai con gấu ngựa. Đất này thuộc dự án Khu công nghệ cao nên ông bị giải tỏa. Do không tự nguyện bàn giao mặt bằng nên tháng 5-2009, cơ quan chức năng đã tiến hành cưỡng chế thu hồi đất.
Tuy nhiên, ông Ngữ không chịu di dời các tài sản gắn liền trên đất. Do đó, buộc lòng quận phải cưỡng chế di dời số tài sản trên, trong đó có hai con gấu ngựa của ông Ngữ. Chúng được gửi vào Thảo Cầm Viên chăm sóc tạm thời. Nhưng từ lúc gửi gấu ngựa đến nay, chi phí nuôi dưỡng gấu mà Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng đã phải trả lên đến cả trăm triệu đồng, gần bằng mua hai con gấu mới.
“Hội đồng thẩm định của Sở Tài chính cho biết về nguyên tắc, chi phí cưỡng chế do người bị cưỡng chế phải chịu. Do đó, chủ gấu phải trả tiền nuôi gấu. Tuy nhiên, QĐ 69/2008 do UBND TP ban hành thì cho phép trích 2% trên tổng kinh phí của dự án để ban bồi thường làm chi phí đảm bảo thực hiện bồi thường hộ trợ tái định cư. Trong các khoản chi, có nội dung chi cho công tác cưỡng chế thu hồi đất nếu không thu hồi được của người bị cưỡng chế. Bởi vậy giờ số tiền này chúng tôi chưa biết xử lý sao! ” – ông Út băn khoăn.

Ai nuôi gấu đây?
Đã vậy, gác qua chuyện chi phí nói trên thì việc xử lý tiếp theo đối với hai con vật này còn mệt hơn. Sau một thời gian nuôi dưỡng, Thảo Cầm Viên nhiều lần đòi trả hai con gấu ngựa cho quận 9 do chuồng trại không đủ, e việc phòng dịch cho hai con gấu khó đảm bảo. “Chúng tôi đâu ngờ sự thể kéo dài như vậy. Lúc đầu quận 9 đề nghị hỗ trợ thì chúng tôi cũng sẵn lòng vì chỉ nghĩ nuôi giúp vài tháng. Hợp đồng giữa Thảo Cầm Viên và quận 9 đã hết hạn từ quý I-2010 mà tới giờ Thảo Cầm Viên còn phải… ôm sô” – giám đốc Thảo Cầm Viên, ông Nguyễn Bá Dũng, “rên” không kém ông Út. Ông Dũng cho biết đây cũng là lần đầu tiên nơi này lâm vào tình huống nuôi thú hộ rồi “dính chấu” như vậy.
“Họp lần nào chúng tôi cũng đề nghị quận 9 giải quyết hai con gấu ngựa bởi Thảo Cầm Viên nuôi không nổi trong thời gian quá dài như vậy. Chúng tôi cũng nói rõ nếu gấu có chết thì Thảo Cầm Viên sẽ không chịu trách nhiệm”. Theo ông Dũng, trách nhiệm nhận nuôi dưỡng hai con gấu ngựa trên chính xác phải thuộc về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể là Chi cục Kiểm lâm.
Thật ra trước đó UBND quận 9 đã cầu cứu Sở NN&PTNT. Tuy nhiên, Sở thẳng thừng từ chối, cho rằng Chi cục Kiểm lâm không thể tiếp nhận hai con gấu ngựa để cứu hộ và trả về rừng. Bởi hai con gấu ngựa của ông Ngữ đã được Chi cục Kiểm lâm gắn chip điện tử để quản lý. Ông Ngữ chưa có đơn tự nguyện giao nộp hai con gấu ngựa cho nhà nước nên vẫn là tài sản của ông. Do đó, quận 9 trả hai con gấu ngựa lại cho ông Ngữ là hợp lý.
Trả lại cho chủ: Không xong!
UBND quận 9 bèn mời ông Ngữ đến, vận động ông nhận lại hai con gấu ngựa nhưng một lần nữa kết quả lại bất thành. Ông Ngữ không từ bỏ hai con gấu ngựa nhưng cũng không nhận lại mà yêu cầu “bắt gấu ở đâu, trả về chỗ đó, xây lại chuồng trại như cũ”. Ngoài ra, ông Ngữ còn yêu cầu quận phải cam kết gấu khỏe mạnh như lúc bắt đi, không bị bệnh trong vòng 100 ngày kể từ ngày giao cho ông. Nếu trong thời hạn đó mà gấu chết thì địa phương phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Yêu cầu của ông Ngữ bị quận 9 bác bỏ bởi việc trả lại hai con gấu về chỗ cũ là “không có cơ sở do đất nằm trong khu dự án, đã bồi thường giải tỏa, quy trình cưỡng chế thực hiện theo đúng quy định” – phó chủ tịch UBND quận 9, ông Nguyễn Văn Thành, đã báo cáo trong văn bản gửi UBND TP vào giữa tháng 9.
Xoay vòng vòng vẫn chưa chốt được hai con gấu ngựa này đi đâu về đâu. Vậy nên TP giao lại cho Sở Tư pháp nghiên cứu và đề xuất hướng giải quyết!
Luật chưa lường hết
Trao đổi với báo Pháp Luật TP.HCM, bà Ung Thị Xuân Hương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, cho hay chuyện giải quyết hai con gấu ngựa tưởng dễ mà không dễ. “Đây là tình huống Bộ luật Dân sự chưa dự liệu do thực tế phát sinh, gặp rất nhiều trong quá trình cưỡng chế thu hồi đất”. Bà cho biết Bộ luật Dân sự có quy định cách xử lý đối với “tài sản vô chủ” (Điều 239) và tài sản mà chủ sở hữu tuyên bố từ bỏ (Điều 249). Còn với trường hợp tài sản biết rõ ai là chủ nhưng chủ sở hữu không từ bỏ mà cũng không tiếp nhận tài sản, đặc biệt là tài sản có đăng ký quyền sở hữu như vụ hai con gấu ngựa thì luật chưa lường tới. Bà Hương cũng cho biết luật chưa hướng dẫn thủ tục xác định thế nào là hành vi chứng tỏ sự từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
“Trước nay tài sản tạm giữ thường là bàn ghế, giường tủ nên cũng ít rắc rối nhưng đến vụ hai con gấu ngựa thì mới thấy khó xử. Lỡ sau này tới cá sấu, cọp… thì cũng chưa biết sao. Lỡ chúng bị chết thì càng rối, ai chịu trách nhiệm bồi thường đây?” – bà Hương lo ngại.
Theo báo cáo của Sở Tài chính ngày 21-5, khi thực hiện dự án, UBND các quận, huyện tiến hành cưỡng chế thu hồi đất và tạm giữ các tài sản trên đất với số lượng rất lớn. Hầu như người có tài sản không nhận lại, có trường hợp phải tạm giữ trên 15 năm. Do đó, phát sinh chi phí chốt giữ, phí thuê kho bãi để tạm giữ trong khi nguồn kinh phí đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư không đủ để chi trả.
Ngày 9-11, Sở Tư pháp TP.HCM đã có văn bản gửi các quận, huyện hướng dẫn cách giải quyết tài sản tạm giữ trong quá trình cưỡng chế thu hồi đất. Theo đó, với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, cơ quan đang tạm giữ tài sản thông báo công khai để tìm chủ sở hữu. Sau một năm nếu không ai đến nhận thì sẽ thành tài sản vô chủ, cơ quan này được giữ luôn như quy định trong Bộ luật Dân sự. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu, do luật chưa hướng dẫn nên Sở Tư pháp đề nghị quận, huyện thống kê cụ thể số lượng, chủng loại, tình trạng để Sở báo cáo TP và xin ý kiến bộ, ngành.
( Nguồn: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM)

VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM SAU GẦN 5 NĂM THÍ ĐIỂM HOẠT ĐỘNG

Thực hiện thí điểm hoạt động các tập đoàn kinh tế trong gần 5 năm qua là đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX của Đảng vào cuộc sống. Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện mô hình này là đòi hỏi khách quan và thực tiễn để xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh ở Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế, thực hiện tốt mục tiêu bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3(khóa IX) có nêu: Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong nước và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng…
Triển khai thực hiện Nghị quyết trên, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế từ đầu năm 2005 nhằm thực hiện các mục tiêu: 1 – Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm công ty có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế; 2 – Bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, các lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế; thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác; 3 – Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp trong tập đoàn; 4 – Tạo cơ sở để hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về tập đoàn kinh tế.

Mô hình và đặc trưng của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Ở những nước khác nhau trên thế giới, tập đoàn kinh tế có những cấu trúc khác nhau. Các tập đoàn kinh tế của Thụy Điển hay Đức đã trải qua nhiều thay đổi lớn, trong đó quan hệ sở hữu đan xen và cấu trúc hình kim tự tháp dần biến mất. Ở Nhật Bản, các tập đoàn kinh tế được tổ chức hoặc theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang và phát triển tùy theo các ngành nghề; các tập đoàn gồm một ngân hàng, một công ty mẹ hoặc một công ty thương mại và một nhóm các hãng sản xuất. Ở Hàn Quốc, các tập đoàn kinh tế thường được kiểm soát bởi một gia đình hoặc một nhóm ít gia đình và được tổ chức thống nhất theo chiều dọc. Các tập đoàn kinh tế ở Trung Quốc lại phát triển theo cấu trúc riêng biệt, đó là các tập đoàn kinh tế đa ngành quy mô lớn có mối ràng buộc chặt chẽ với Nhà nước chứ không phải với các gia đình riêng biệt như ở Hàn Quốc.
Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, tập đoàn kinh tế là nhóm các công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế. Đến nay, Chính phủ đã thành lập 12 tập đoàn kinh tế nhà nước theo hai mô hình, đó là:
- Tổ chức lại các tổng công ty nhà nước (các tổng công ty 90 và 91): gồm 10 tập đoàn: Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
- Tổ hợp các doanh nghiệp độc lập có cùng lĩnh vực hoạt động: gồm 2 tập đoàn là Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và cơ khí chế tạo, bao gồm: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Sông Hồng, Tổng công ty Cơ khí Xây dựng, Tổng công ty Đầu tư phát triển xây dựng, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng. Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp từ: Tổng công ty Phát triển nhà và đô thị, Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng, Tổng công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng, Tổng công ty Đầu tư xây dựng cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam.
Các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam có các đặc trưng sau:
Một là, được hình thành chủ yếu từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các tổng công ty nhà nước theo quyết định của Chính phủ.
Hai là, hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế theo mục tiêu chiến lược phát triển của từng tập đoàn mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác khó có thể thực hiện được do hạn chế về năng lực tài chính hoặc kinh nghiệm quản lý; là một trong những công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Ba là, hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con (chuyển từ quan hệ hành chính trong tổng công ty nhà nước trước đây sang quan hệ về đầu tư vốn); quy mô và khả năng tích tụ vốn có trình độ cao hơn và quy mô lớn hơn so với các tổng công ty trước đây (trước khi chuyển đổi sang mô hình tập đoàn); phạm vi hoạt động được mở rộng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài.
Bốn là, hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong tập đoàn kinh tế được nâng cao; quan hệ chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên về đầu tư vốn và tài chính, thị trường, phân công chuyên môn hóa, nghiên cứu và phát triển, thể hiện rõ nét đặc trưng quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn kinh tế.
Năm là, quan hệ nội tại của tập đoàn kinh tế nhà nước bao gồm:
- Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
- Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ – công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp), công ty con ở nước ngoài;
- Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo;
- Các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn gồm: doanh nghiệp có vốn góp dưới mức chi phối của công ty mẹ và của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của công ty mẹ và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức hợp đồng liên kết hoặc không có hợp đồng liên kết, nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn.
- Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên tập đoàn có tư cách pháp nhân; có vốn và tài sản riêng; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận chung của tập đoàn. Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước trực tiếp đầu tư tại công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty con, doanh nghiệp liên kết.
Sáu là, quan hệ giữa tập đoàn với bộ, ngành và Chính phủ: Nhà nước là chủ sở hữu của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Chính phủ thống nhất thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ và đối với phần vốn nhà nước tại tập đoàn kinh tế nhà nước; Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập công ty mẹ, quyết định tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty mẹ theo đề nghị của bộ quản lý ngành và ý kiến của các bộ, ngành có liên quan; Thủ tướng Chính phủ giao bộ quản lý ngành, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và hội đồng quản trị tập đoàn thực hiện một số quyền của chủ sở hữu theo pháp luật hiện hành, theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của từng tập đoàn.
Bảy là, quản lý, giám sát đối với tập đoàn kinh tế nhà nước được thực hiện theo các phương thức: Thông qua chế độ báo cáo của hội đồng quản trị công ty mẹ; thông qua thực hiện kiểm toán tại công ty mẹ và các đơn vị thành viên; thông qua thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của công ty mẹ; thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cơ quan theo quy định của pháp luật.
Vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Sau khi được hình thành và đi vào hoạt động, các tập đoàn kinh tế đã tích cực đầu tư, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động; cơ cấu lại và đa dạng hóa sở hữu các đơn vị thành viên; kinh doanh đa ngành, trong đó tập trung vào ngành nghề chính; huy động được các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu trọng điểm, các chiến lược phát triển quan trọng; tích cực nghiên cứu, triển khai ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật, tay nghề của đội ngũ công nhân kỹ thuật và người lao động trong các doanh nghiệp, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng thành tập đoàn kinh tế mạnh, có tầm cỡ trong khu vực, làm nòng cốt để Việt Nam chủ động và thực hiện có hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò tích cực của các tập đoàn kinh tế đối với sự phát triển kinh tế đất nước thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, tạo nguồn ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, thực hiện vai trò chi phối, bảo đảm việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế (được thể hiện rõ nhất là trong giai đoạn 2008 – 2009, khi đất nước phải đối phó với những diễn biến bất lợi và ảnh hưởng xấu từ suy thoái kinh tế thế giới và khu vực đối với nền kinh tế quốc dân), bảo đảm cân đối cung – cầu và giữ ổn định giá các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế (xăng dầu, điện, đạm, khí hóa lỏng, than…) để bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát, chống giảm phát.
Thứ ba, là đầu tàu đi trước, mở đầu, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển.
Thứ tư, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở huy động, tập trung các nguồn lực, tăng nhanh năng lực sản xuất, đầu tư trong các ngành đòi hỏi công nghệ cao và nhu cầu vốn lớn, lĩnh vực then chốt.
Thứ năm, thực hiện sự gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học – công nghệ, đào tạo và sản xuất, kinh doanh.
Thứ sáu, cùng với việc tập trung mở rộng phát triển ở trong nước, các tập đoàn kinh tế đã vươn ra đầu tư mạnh ở nước ngoài, thương hiệu ngày càng được khẳng định, góp phần tạo dựng được hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Thứ bảy, là lực lượng quan trọng của Nhà nước trong việc bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường.
Thứ tám, là lực lượng chủ lực cùng Chính phủ và xã hội thực hiện các chương trình an sinh xã hội vì cộng đồng.
Một số vấn đề cần khắc phục
Thực tiễn hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước trong thời gian qua đã khẳng định thành công bước đầu trong việc thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và mục tiêu thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước của Chính phủ. Tuy nhiên, mô hình tập đoàn kinh tế ở Việt Nam còn mới mẻ, vì vậy các tập đoàn kinh tế cũng bộc lộ một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, đó là:
- Được thành lập, liên kết bằng quyết định hành chính, một số tập đoàn là biến thể của mô hình tổng công ty cũ, nên chưa thực hiện được mục tiêu đề ra là trở thành tập đoàn kinh tế mạnh.
- Quy mô và nguồn vốn quá nhỏ so với các tập đoàn kinh tế trong khu vực và trên thế giới; tổ chức và hoạt động chưa có đổi mới nhiều so với tổng công ty nhà nước trước đây, chưa tạo được sự đột phá mạnh mẽ cho mô hình tập đoàn kinh tế.
- Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các tập đoàn kinh tế chưa được hoàn thiện, chưa tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng của chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế; cơ chế quản lý tập đoàn còn nhiều bất cập.
- Kết quả sản xuất, kinh doanh của một số tập đoàn chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước, hiệu quả hoạt động chưa cao, năng suất lao động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
- Việc thực hiện huy động vốn, nguồn lực của các thành phần kinh tế khác vào sản xuất, kinh doanh thông qua cổ phần hóa, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty cổ phần mới tạo ra cơ cấu đa sở hữu ở một số tập đoàn triển khai còn chậm; dẫn tới hạn chế về thu hút thêm vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành và sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của tập đoàn kinh tế.
- Một số tập đoàn có tỷ lệ nợ trên vốn còn quá cao, dẫn đến độ rủi ro lớn, khả năng thanh toán nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.
- Một số tập đoàn chưa phát huy được vai trò chi phối trong lĩnh vực hoạt động. Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm; ở một số tập đoàn vẫn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con.
- Công tác dự báo, giám sát, đánh giá đối với hoạt động của các tập đoàn kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của mô hình này.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên trong các tập đoàn cần phải được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện.
Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ tới không chỉ là nâng cao tốc độc tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại mà còn cần tạo ra và phát huy những lợi thế so sánh để chủ động cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời tạo ra những những bước đột phá về kinh tế, bứt khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và quốc tế. Thực tế khách quan này và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam đã được khẳng định sau 5 năm hoạt động thí điểm đặt ra yêu cầu thực tiễn là phải sớm nghiên cứu hoàn thiện và tiếp tục phát triển mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn mới để có được những tập đoàn kinh tế mạnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.
Giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Để bảo đảm tính bền vững của sự phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn mới, có đặc thù riêng (là hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước) so với các tập đoàn kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới, một số giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện là:
1 - Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
2 - Tổ chức tổng kết đánh giá kết quả hoạt động để chỉ ra những tồn tại, yếu kém, đúc kết những điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và thách thức, tích lũy những kinh nghiệm tốt từ hoạt động thực tiễn thời gian qua của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam; kết hợp với thực hiện nghiên cứu một cách toàn diện về các mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu trên thế giới để có thể tìm ra một hoặc một số mô hình tập đoàn kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta, trên cơ sở đó tìm ra hướng đi phù hợp cho các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp.
3 - Nhà nước xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước; các tập đoàn kinh tế nhà nước rà soát lại chiến lược phát triển của từng tập đoàn để có những điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
4 - Kiện toàn công tác quản lý của Nhà nước và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn. Hình thành mới một cơ quan của Chính phủ quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thực hiện ủy quyền tối đa cho hội đồng thành viên tập đoàn trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để các tập đoàn chủ động, quyết định kịp thời và chịu trách nhiệm về các vấn đề lớn trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và đấu thầu đối với những vấn đề đòi hỏi phải có quyết định nhanh chóng, không để lỡ những cơ hội sản xuất, kinh doanh; thường xuyên sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế tài chính của tập đoàn cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của tập đoàn theo từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển.
5 - Thực hiện thường xuyên việc tái cấu trúc doanh nghiệp theo hướng tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chủ chốt; tránh cạnh tranh nội bộ, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển tương ứng với mô hình phát triển của các tập đoàn.
6 - Đẩy mạnh tập trung và tích tụ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đan xen (trên cơ sở bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực, ngành nghề then chốt) thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hóa, cơ cấu lại nguồn vốn, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty mới… để tạo cơ cấu đa sở hữu nhằm phát huy thế mạnh và tăng cường khả năng cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
7 - Lựa chọn các đánh giá, nhận định có chất lượng cả về lý luận và thực tiễn từ nhiều góc độ của các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm ở trong nước và nước ngoài để có những giải pháp khắc phục hạn chế, phát huy những ưu điểm.
8 - Sớm hoàn thiện và kịp thời có những hướng dẫn cụ thể các căn cứ pháp lý bảo đảm cho hoạt động của các tập đoàn kinh tế, có các chính sách linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ để tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động bình đẳng trong sân chơi cạnh tranh.
9 - Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng. Đẩy mạnh thực hiện gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học, đào tạo và sản xuất kinh doanh, bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng cường phát triển thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, tích cực chia sẻ những khó khăn với cộng đồng và xã hội.
10 - Nâng cao vai trò, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên đối với các hoạt động của các tập đoàn./.
( Nguồn: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ SỐ 22 (214) NĂM 2010)

Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

VĂN KIỆN HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC KHÍA CẠNH LIÊN QUAN TỚI THƯƠNG MẠI CỦA QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

có quyền, trừ khi điều này không tương  xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm, ra lệnh buộc người xâm phạm phải thông tin cho chủ thể quyền biết về những người tham gia vào việc sản xuất hoặc phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ xâm phạm và về các kênh phân phối của những người đó.
Điều 48. Bồi thường cho bên bị
1. Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài và đã lạm dụng các thủ tục thực thi phải trả cho bên đã bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái khoản bồi thường tương xứng với thiệt hại do sự lạm dụng đó gây ra. Các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn các chi phí, trong đó có thể bao gồm cả phí đại diện thích hợp.
Đối với việc điêu hành bất cứ luật nào liên quan đến việc bảo hộ hoặc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, các Thành viên chỉ được miễn trách nhiệm pháp lý cho cả các cơ quan và các viên chức nhà nước không phải chịu những biện pháp chế tài tương ứng nếu các hành vi được thực hiện hoặc được dự định thực hiện một cách có thiện ý nhằm điều hành các luật đó.
Điều 49. Các thủ tục hành chính
Trong phạm vi mà các thủ tục hành chính xử lý vụ việc có thể buộc áp dụng bất kỳ biện pháp chế tài dân sự nào, các thủ tục đó phải phù hợp với các nguyên tắc về cơ bản tương đương với những nguyên tắc quy định trong Mục này.
Mục 3
Các biện pháp tạm thời
Điều 50
1. Các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng một cách khẩn cấp và hữu hiệu các biện pháp tạm thời:
(a) nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bất kỳ loại quyền sở hữu trí tuệ nào, và đặc biệt nhằm ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu vào các kênh thương mại thuộc phạm vi quyền hạn của mình ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan;
(b) nhằm bảo tồn các chứng cứ liên quan đến hành vi bị khiếu kiện là xâm phạm quyền.
2. Trong trường hợp cần thiết, đặc biệt, nếu bất kỳ một sự chậm trễ nào cũng có nguy cơ gây hậu quả không khắc phục được cho chủ thể quyền, hoặc nếu có thể thấy rằng chứng cứ đang có nguy cơ bị thủ tiêu, các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời trước khi nghe bị đơn trình bày ý kiến.
3. Các cơ quan xét xử cũng phải có quyền yêu cầu nguyên đơn cung cấp bất kỳ chứng cứ nào có thể có được một cách hợp lý, đủ sức thuyết phục rằng nguyên đơn là chủ thể quyền và quyền của nguyên đơn đang bị hoặc hoặc rõ ràng có nguy cơ bị xâm phạm, và buộc nguyên đơn phải nộp khoản bảo đảm hoặc bảo chứng tương đương đủ để bảo vệ bị đơn và ngăn chặn sự lạm dụng.
4. Trường hợp đã ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời trước khi nghe bị đơn trình bầy ý kiến, các bên bị áp dụng biện pháp đó phải được thông báo ngay, chậm nhất là sau khi thi hành các biện pháp đó. Trong một thời hạn hợp lý kể từ khi thông báo lệnh áp dụng các biện pháp đó, theo yêu cầu của bị đơn lệnh áp dụng biện pháp tạm thời phải được xem xét lại, trong đó có cả việc nghe bị đơn trình bày ý kiến để đi đến quyết định sửa đổi, huỷ bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó.
5. Nguyên đơn có thể được cơ quan sẽ thi hành các biện pháp tạm thời yêu cầu cung cấp thông tin khác cần thiết để xác định hàng hoá có liên quan.
6. Không ảnh hưởng đến khoản 4, theo yêu cầu của bị đơn, các biện pháp tạm thời được áp dụng theo các khoản 1 và khoản 2 phải bị huỷ bỏ hoặc bị đình chỉ hiệu lực dưới hình thức khác, nếu thủ tục tố tụng để xét xử vụ việc không được tiến hành trong một thời hạn hợp lý, do cơ quan xét xử đã ra lệnh áp dụng các biện pháp đó ấn định nếu luật pháp quốc gia của Thành viên cho phép như vậy, hoặc không quá 20 ngày làm việc hoặc 31 ngày theo lịch, tính theo thời hạn nào dài hơn, nếu luật quốc gia không cho phép ấn định thời hạn đó.
7. Nếu các biện pháp tạm thời bị huỷ bỏ, hoặc bị đình chỉ hiệu lực vì bất cứ hành vi hay thiếu sót nào của nguyên đơn, hoặc nếu sau đó thấy rằng quyền sở hữu trí tuệ không bị xâm phạm hoặc không có nguy cơ bị xâm phạm, theo yêu cầu của bị đơn, các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn khoản bồi thường thoả đáng đối với bất kỳ thiệt hại nào do các biện pháp đó gây ra.
8. Trong phạm vi mà các thủ tục hành chính xử lý vụ việc có thể buộc áp dụng bất kỳ biện pháp tạm thời nào, các thủ tục đó phải phù hợp với các nguyên tắc về cơ bản tương đương với những nguyên tắc quy định trong Mục này.
Mục 4
Các yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp kiểm soát biên giới [12]
Điều 51. Đình chỉ thông quan tại các Cơ quan hải quan
Các Thành viên phải ban hành, một cách phù hợp với các quy định sau đây, các thủ tục[13] cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giả mạo hoặc vi phạm bản quyền[14] có thể xẩy ra, được đệ đơn cho các cơ quan có thẩm quyền, là cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử, yêu cầu đình chỉ thông quan tại các cơ quan hải quan để ngăn chặn các hàng hoá đó vào lưu thông tự do. Các Thành viên có thể cho phép đệ đơn như vậy đối với hàng hoá xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, với điều kiện phải đáp ứng các yêu cầu của Mục này. Các Thành viên cũng có thể quy định các thủ tục tương ứng về việc đình chỉ thông quan tại các cơ quan hải quan đối với những hàng hoá xâm phạm được tập kết để xuất khẩu ra khỏi lãnh thổ của mình.
Điều 52. Đơn
Bất kỳ một chủ thể quyền nào tiến hành các thủ tục theo Điều 51 trên đây đều phải cung cấp chứng cứ thích hợp để chứng minh với các cơ quan có thẩm quyền rằng, theo luật của nước nhập khẩu, hiển nhiên có sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và phải cung cấp một bản mô tả hàng hoá chi tiết đến mức các cơ quan hải quan có thể dễ dàng nhận biết những hàng hoá đó. Trong một thời hạn hợp lý, các cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho nguyên đơn về việc đơn có được chấp nhận hay không, và về thời hạn mà các cơ quan hải quan sẽ hành động nếu điều này được các cơ quan có thẩm quyền ấn định thời hạn đó.
Điều 53. Khoản bảo đảm hoặc bảo chứng tương đương
1. Các cơ quan có thẩm quyền phải có quyền yêu cầu nguyên đơn nộp khoản bảo đảm hoặc bảo chứng tương đương đủ để bảo vệ bị đơn và các cơ quan có thẩm quyền và để ngăn ngừa sự lạm dụng. Khoản bảo đảm hoặc vật bảo chứng tương đương đó không được cản trở một cách bất hợp lý việc vận dụng các thủ tục đó.
2. Nếu thể theo đơn yêu cầu được nộp theo quy định của Mục này, việc thông quan đối với hàng hoá liên quan đến các kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí hoặc thông tin bí mật để đưa vào lưu thông tự do bị đình chỉ tại các cơ quan hải quan theo quyết định không phải của một cơ quan xét xử hoặc một cơ quan độc lập khác, nếu thời hạn quy định tại Điều 55 đã kết thúc mà cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định áp dụng biện pháp tạm thời, và nếu mọi điều kiện khác đối với việc nhập khẩu đều được thoả mãn, thì hàng hoá đó của chủ sở hữu, người nhập khẩu, hoặc người nhập khẩu theo uỷ thác phải được thông quan nếu những người đó nộp khoản bảo đảm với một số lượng đủ để bảo vệ chủ thể quyền đối với bất kỳ sự xâm phạm nào. Việc nộp khoản bảo đảm đó không được ảnh hưởng đến bất cứ biện pháp chế tài nào khác mà chủ thể quyền có thể vận dụng, điều này được hiểu là khoản bảo đảm phải được hoàn trả nếu chủ thể quyền không thực hiện quyền tố tụng trong một thời hạn hợp lý.
Điều 54. Thông báo về việc đình chỉ
Người nhập khẩu và nguyên đơn phải được thông báo ngay về việc đình chỉ thông quan đối với hàng hoá theo Điều 51 trên đây.
Điều 55 . Thời hạn đình chỉ
Trong một thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ khi nguyên đơn được thông báo về việc đình chỉ thông quan, nếu các cơ quan hải quan không được thông báo rằng thủ tục để xét xử vụ việc đó đã được một bên không phải là bị đơn tiến hành, hoặc rằng cơ quan có thẩm quyền đã quyết định áp dụng các biện pháp tạm thời để kéo dài thời hạn đình chỉ việc thông quan đối với hàng hoá, thì hàng hoá đó phải được thông quan, nếu đáp ứng mọi điều kiện khác đối với việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu; trong những trường hợp thích hợp, thời hạn này có thể được gia hạn thêm 10 ngày làm việc. Nếu thủ tục tố tụng để xét xử vụ việc đó đã được tiến hành, thì theo yêu cầu của bị đơn việc xem xét lại, bao gồm cả việc nghe bị đơn trình bầy ý kiến, phải được thực hiện, trong một thời hạn hợp lý, để ra quyết định sửa đổi, huỷ bỏ hoặc giữ nguyên những biện pháp đó. Không phụ thuộc vào các quy định trên, trường hợp việc đình chỉ thông quan hàng hoá được thực hiện hoặc được tiếp tục thực hiện theo một biện pháp xét xử tạm thời, các quy định tại khoản 6 Điều 50 phải được áp dụng.
Điều 56. Bồi thường cho người nhập khẩu và chủ sở hữu hàng hoá
Các cơ quan hữu quan phải có quyền buộc nguyên đơn phải trả cho người nhập khẩu, người nhập khẩu theo uỷ thác hoặc chủ sở hữu hàng hoá khoản bồi thường thoả đáng đối với bất cứ thiệt hại nào mà người đó phải gánh chịu do việc ngăn giữ hàng hoá một cách sai trái hoặc do việc ngăn giữ hàng hoá đã được thông quan theo Điều 55 trên đây.
Điều 57. Quyền kiểm tra và thông tin
Với điều kiện không làm ảnh hưởng tới việc bảo hộ thông tin bí mật, các Thành viên phải cho các cơ quan có thẩm quyền quyền dành cơ hội cho chủ thể quyền được yêu cầu tiến hành kiểm tra bất kỳ hàng hoá nào bị cơ quan hải quan ngăn giữ để chứng minh yêu cầu của mình. Các cơ quan có thẩm quyền cũng phải có quyền tạo cơ hội tương đương cho người nhập khẩu yêu cầu tiến hành kiểm tra bất cứ hàng hoá nào như vậy. Đối với trường hợp vụ việc được phán quyết thuận theo yêu cầu của chủ thể quyền, các Thành viên có thể quy định cho các cơ quan có thẩm quyền quyền thông báo cho chủ thể quyền biết về tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu và người nhập khẩu theo uỷ thác và về số lượng của hàng hoá đó.
Điều 58. Hành động mặc nhiên
Nếu các Thành viên yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền phải chủ động hành động và phải đình chỉ thông quan những hàng hoá mà các cơ quan đó đã thu được chứng cứ hiển nhiên về sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,
a) bất kỳ lúc nào các cơ quan có thẩm quyền cũng có thể yêu cầu chủ thể quyền cung cấp những thông tin có thể giúp họ thực hiện các quyền lực đó;
b) người nhập khẩu và chủ thể quyền phải được thông báo ngay về việc đình chỉ thông quan. Trường hợp người nhập khẩu nộp đơn cho các cơ quan có thẩm quyền khiếu nại về việc đình chỉ thông quan, việc đình chỉ đó phải tuân thủ, với những sửa đổi thích hợp, các điều kiện quy định tại Điều 55 trên đây;
c) các Thành viên chỉ được miễn trách nhiệm pháp lý cho cả cơ quan Nhà nước và các công chức Nhà nước khỏi bị áp dụng các biện pháp chế tài tương ứng nếu những hành vi được thực hiện hoặc được dự định thực hiện một cách có thiện ý.
Điều 59. Các biện pháp chế tài
Với điều kiện không làm ảnh hưởng tới các quyền khiếu kiện dành cho chủ thể quyền và quyền của bị đơn được yêu cầu cơ quan xét xử xem xét lại vụ việc, các cơ quan có thẩm quyền phải có quyền ra lệnh tiêu huỷ hoặc xử lý hàng hoá xâm phạm theo các nguyên tắc nêu tại Điều 46 trên đây. Đối với hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo, các cơ quan có thẩm quyền không được cho phép tái xuất những hàng hoá xâm phạm vẫn giữ nguyên trạng hoặc xử lý chúng theo một thủ tục hải quan khác, trừ các trường hợp ngoại lệ.
Điều 60. Nhập khẩu với số lượng nhỏ
Các Thành viên có thể không áp dụng các quy định trên đối với những hàng hoá phi thương mại với số lượng nhỏ, là hành lý cá nhân hoặc hàng gửi với số lượng nhỏ.
Mục 5
Các thủ tục hình sự
Điều 61
Các Thành viên phải quy định việc áp dụng các thủ tục hình sự và các hình phạt để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu hàng hoá hoặc xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại. Các biện pháp chế tài theo quy định phải bao gồm cả phạt tù và/hoặc phạt tiền đủ để ngăn ngừa xâm phạm, tương ứng với mức phạt được áp dụng cho các tội phạm có mức độ nghiêm trọng tương đương trong những trường hợp thích hợp, các biện pháp chế tài cũng phải bao gồm cả việc bắt giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm và bất cứ vật liệu và các phương tiện nào khác được sử dụng chủ yếu để thực hiện tội phạm. Các Thành viên có thể quy định các thủ tục hình sự và các hình phạt áp dụng cho các trường hợp khác xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trường hợp cố ý xâm phạm và xâm phạm với quy mô thương mại.
Phần IV
các thủ tục để đạt được và duy trì các quyền sở hữu trí tuệ, và thủ tục liên quan theo yêu cầu của các bên liên quan
Điều 62
1. Các Thành viên có thể quy định rằng một trong những điều kiện để đạt được hoặc duy trì các quyền sở hữu trí tuệ nêu tại các Mục từ Mục 2 đến Mục 6 Phần II Hiệp định này, là phải tuân thủ các trình tự và thủ tục hợp lý. Các trình tự và thủ tục đó sẽ phải phù hợp với các quy định của Hiệp định này.
2. Trường hợp việc đạt được quyền sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào thủ tục cấp quyền hoặc đăng ký quyền đó, các Thành viên phải bảo đảm rằng các thủ tục cấp hoặc đăng ký quyền, phụ thuộc vào việc đáp ứng các điều kiện về bản chất đối tượng sở hữu trí tuệ, được hoàn thành trong một thời hạn hợp lý để tránh rút ngắn một cách tuỳ tiện thời hạn bảo hộ.
3. Điều 4 của Công ước Paris (1967) phải được áp dụng, với những sửa đổi thích hợp, cho nhãn hiệu dịch vụ.
4. Các thủ tục liên quan đến việc đạt được và duy trì các quyền sở hữu trí tuệ, và thủ tục hành chính về huỷ bỏ hiệu lực và, nếu luật quốc gia quy định, các thủ tục theo yêu cầu của bên liên quan như phản đối, huỷ bỏ, và đình chỉ hiệu lực, phải phù hợp với các nguyên tắc chung quy định tại các khoản 2 và khoản 3 Điều 41.
5. Các quyết định hành chính cuối cùng theo bất kỳ thủ tục nào quy định tại khoản 4 trên đây đều phải có thể bị xem xét lại tại cơ quan xét xử hoặc cơ quan tương đương với cơ quan xét xử. Tuy nhiên, các Thành viên không có nghĩa vụ phải quy định khả năng xem xét lại nói trên đối với các quyết định từ chối đơn phản đối hoặc đơn yêu cầu huỷ bỏ bằng thủ tục hành chính, với điều kiện là đối tượng của đơn phản đối hoặc yêu cầu huỷ bỏ đó có thể bị tuyên bố vô hiệu theo thủ tục khác.
Phần V
Ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp
Điều 63. Tính minh bạch
1. Các luật và các quy định, các quyết định xét xử và các quyết định hành chính cuối cùng để áp dụng chung, do Thành viên ban hành, liên quan đến đối tượng của Hiệp định này (khả năng đạt được, phạm vi, việc đạt được, thực thi và ngăn ngừa sự lạm dụng các quyền sở hữu trí tuệ) phải được công bố, hoặc nếu việc công bố đó không có khả năng thực hiện, phải tiếp cận được một cách công khai, bằng ngôn ngữ quốc gia, theo cách thức để các chính phủ và những người nắm quyền có thể biết rõ về các Văn bản đó. Những Thoả ước liên quan đến đối tượng của Hiệp định này, có hiệu lực giữa chính phủ hoặc một cơ quan chính phủ của một Thành viên và chính phủ hoặc một cơ quan chính phủ của một Thành viên khác cũng phải được công bố.
2. Các Thành viên phải thông tin về các luật và các quy định nêu tại khoản 1 trên đây cho Hội đồng TRIPS để giúp Hội đồng đánh giá việc thi hành Hiệp định này. Hội đồng phải cố gắng giảm đến mức tối thiểu nghĩa vụ này cho các Thành viên và có thể quyết định miễn nghĩa vụ thông tin về các luật và các quy định đó trực tiếp cho Hội đồng nếu việc thương lượng với WIPO về việc thành lập một hệ thống chung để đăng ký các luật và quy định pháp luật đó đạt kết quả. Hội đồng cũng phải xem xét bất kỳ hoạt động thông tin nào bắt buộc phải tiến hành để thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định này xuất phát từ các quy định của Điều 6ter Công ước Paris (1967).
3. Theo yêu cầu bằng văn bản của một Thành viên, mỗi Thành viên khác phải sẵn sàng cung cấp thông tin về các vấn đề được quy định tại khoản 1 trên đây. Thành viên nào có lý do để tin rằng tồn tại một quyết định xét xử hoặc quyết định hành chính hoặc thoả thuận song phương trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ ảnh hưởng đến các quyền của mình theo Hiệp định này, cũng có thể yêu cầu bằng văn bản để được tiếp cận với hoặc được thông tin chi tiết về những quyết định xét xử hoặc quyết định hành chính hoặc các thoả thuận song phương như vậy.
4. Không quy định nào tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 3 trên đây buộc các Thành viên tiết lộ những thông tin bí mật có thể cản trở việc thực thi luật hoặc trái với lợi ích xã hội hoặc có thể gây tổn hại cho lợi ích thương mại hợp pháp của doanh nghiệp cụ thể nào đó, thuộc nhà nước hoặc tư nhân.
Điều 64. Giải quyết tranh chấp
1. Các quy định tại các Điều XXII và XXIII của GATT 1994 được chi tiết hoá và áp dụng trong  Thoả thuận về giải quyết tranh chấp(*) phải được áp dụng đối với việc thương lượng và giải quyết tranh chấp theo Hiệp định này, nếu không có quy định cụ thể khác trong Hiệp định này.
2. Trong thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực, không được áp dụng các điểm 1(b) và điểm 1(c) Điều XXIII của GATT 1994 để giải quyết các tranh chấp theo Hiệp định này.
3. Trong suốt thời hạn được quy định tại khoản 2, Hội đồng TRIPS phải nghiên cứu phạm vi và thể thức đơn kiện thuộc loại quy định tại các điểm 1(b) và điểm 1(c) điều XXIII của GATT nộp theo Hiệp định này, và đề xuất ý kiến để Hội nghị Bộ trưởng thông qua. Hội nghị Bộ trưởng chỉ được ra quyết định thông qua những ý kiến đề xuất đó hoặc quyết định kéo dài thời hạn nêu tại khoản 2 trên cơ sở nhất trí, và ý kiến đề xuất đã được thông qua phải có hiệu lực đối với tất cả các Thành viên mà không phải qua bất kỳ một thủ tục chấp nhận nào khác.
Phần VI
Các điều khoản chuyển tiếp
Điều 65. Các điều khoản chuyển tiếp
1. Tuỳ thuộc vào các quy định tại các khoản 2, khoản 3 và khoản 4, không Thành viên nào có nghĩa vụ phải thi hành Hiệp định này trước khi kết thúc thời hạn chung, kéo dài một năm kể từ ngày Hiệp  định WTO bắt đầu có hiệu lực.
2. Bất kỳ Thành viên nào là nước đang phát triển cũng được phép hoãn thời hạn thi hành các quy định của Hiệp định này, trừ các Điều 3, Điều 4 và Điều 5, thêm 4 năm so với thời hạn quy định tại khoản 1.
3. Bất kỳ một Thành viên nào khác đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường tự do và đang tiến hành cải tổ cơ cấu hệ thống sở hữu trí tuệ và gặp những khó khăn đặc biệt trong việc soạn thảo để ban hành và thi hành luật và quy định về sở hữu trí tuệ, cũng có thể được hưởng thời hạn trì hoãn quy định tại khoản 2 trên đây.
4. Nếu Thành viên là nước đang phát triển bị Hiệp định này ràng buộc nghĩa vụ mở rộng việc bảo hộ patent cho sản phẩm sang những lĩnh vực công nghệ chưa được bảo hộ trong lãnh thổ của Thành viên đó vào ngày Thành viên phải thi hành Hiệp định này theo thời hạn chung quy định tại khoản 2 thì Thành viên đó có thể hoãn thêm 5 năm nữa việc thi hành các quy định về các patent cho sản phẩm tại Mục 5, Phần II Hiệp định này đối với những lĩnh vực công nghệ đó.
5. Bất kỳ Thành viên nào sử dụng thời hạn chuyển tiếp theo các khoản 1, khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 trên đây đều phải bảo đảm rằng bất kỳ sự thay đổi nào trong các luật, quy định và thực tiễn áp dụng luật của mình được thực hiện trong thời gian đó không làm giảm mức độ phù hợp với các quy định của Hiệp định này.
Điều 66 . Những Thành viên là nước kém phát triển
1. Do những nhu cầu và yêu cầu đặc biệt, những nhu cầu bức bách về kinh tế, tài chính và hành chính, và nhu cầu cần có sự linh hoạt để tạo ra một nền tảng công nghệ bền vững của các Thành viên là nước kém phát triển, các Thành viên đó không bị buộc phải thi hành các quy định của Hiệp định này, trừ các Điều 3, Điều 4 và Điều 5, trước khi hết 10 năm kể từ thời hạn chung quy định tại khoản 1 Điều 65 trên đây. Hội đồng TRIPS phải gia hạn thời hạn này theo yêu cầu chính đáng của Thành viên là nước kém phát triển.
2. Những Thành viên là nước phát triển phải tạo động lực để khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức trong lãnh thổ của mình chuyển giao công nghệ cho những Thành viên là nước kém phát triển để giúp họ tạo ra một nền tảng công nghệ bền vững và có khả năng phát triển.
Điều 67  . Hợp tác kỹ thuật
Để tạo điều kiện thi hành Hiệp định này, theo yêu cầu và với nội dung và điều kiện cùng thoả thuận, những Thành viên là nước phát triển phải hợp tác về kỹ thuật và tài chính để giúp những Thành viên là nước đang phát triển và kém phát triển. Sự hợp tác đó phải bao gồm cả sự trợ giúp trong việc soạn thảo để ban hành luật và quy định quốc gia về bảo hộ và thực thi các quyền sở hữu trí tuệ cũng như việc ngăn ngừa sự lạm dụng các quyền đó, và phải bao gồm cả sự hỗ trợ việc thành lập và củng cố các cơ quan và tổ chức trong nước liên quan đến các vấn đề đó, trong đó có cả việc đào tạo cán bộ.
Phần VII
Các quy định về cơ chế; điều khoản cuối cùng
Điều 68. Hội đồng về những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
Hội đồng TRIPS phải điều hành Hiệp định này, đặc biệt là việc tuân thủ nghĩa vụ theo Hiệp định  này của các Thành viên, và phải tạo cho các Thành viên cơ hội thương lượng về những vấn đề liên quan đến những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Hội đồng phải làm tròn những trách nhiệm khác do các Thành viên giao phó và đặc biệt phải đáp ứng mọi yêu cầu trợ giúp của các Thành viên trong các thủ tục giải quyết tranh chấp. Khi thực hiện các chức năng của mình, Hội đồng có thể tham khảo và tìm kiếm thông tin từ bất cứ nguồn nào mà Hội đồng cho là thích hợp. Trong việc thương lượng với WIPO, trong vòng một năm kể từ cuộc họp Hội đồng lần thứ nhất , Hội đồng phải tìm cách thiết lập cơ chế phù hợp để hợp tác với các cơ quan của WIPO.
Điều 69. Hợp tác quốc tế
Các Thành viên thoả thuận hợp tác với nhau nhằm loại trừ hoạt động thương mại quốc tế liên  quan đến hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Để đạt được mục đích đó, các Thành viên phải thiết lập và thông báo các điểm liên lạc thuộc hệ thống các cơ quan hành chính quốc gia và sẵn sàng trao đổi thông tin về việc buôn bán hàng hoá xâm phạm. Đặc biệt, các Thành viên phải đẩy mạnh việc trao đổi thông tin và hợp tác giữa các cơ quan hải quan trong vấn đề chống buôn bán hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo và hàng hoá xâm phạm bản quyền.
Điều 70. Bảo hộ các đối tượng đang tồn tại
1. Hiệp định này không làm phát sinh các nghĩa vụ đối với những hành vi xảy ra trước thời điểm áp dụng Hiệp định này cho Thành viên tương ứng.
2. Trừ trường hợp được quy định khác trong Hiệp định này, Hiệp định này làm phát sinh các nghĩa vụ đối với tất cả các đối tượng đang tồn tại vào thời điểm áp dụng Hiệp định này cho các Thành viên tương ứng, và đang được bảo hộ tại nước Thành viên đó tại thời điểm nói trên, hoặc đáp ứng hoặc sau đó đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo các điều khoản của Hiệp định này. Liên quan đến khoản này và các khoản 3, khoản 4 sau đây, các nghĩa vụ về bản quyền đối với các tác phẩm đã sáng tác chỉ được xác định theo Điều 18 Công ước Berne (1971), và các nghĩa vụ đối với các quyền của những người sản xuất bản ghi âm và những người biểu diễn đối với các bản ghi âm đang tồn tại chỉ được xác định theo Điều 18 Công ước Berne (1971) như quy định tại khoản 6 Điều 14 của Hiệp định này.
3. Hiệp định này không ràng buộc nghĩa vụ khôi phục việc bảo hộ các đối tượng mà vào thời điểm áp dụng Hiệp định này cho Thành viên tương ứng đã trở thành tài sản toàn dân.
4. Đối với bất kỳ hành vi nào liên quan đến những vật cụ thể có chứa đối tượng được bảo hộ, trở nên hành vi xâm phạm theo các quy định luật pháp phù hợp với Hiệp định này, và đã bắt đầu được tiến hành, hoặc được đầu tư cơ bản từ trước thời điểm một Thành viên phê chuẩn Hiệp định WTO, Thành viên đó có thể quy định giới hạn cho những biện pháp chế tài mà chủ thể quyền có thể vận dụng đối với việc tiếp tục thực hiện các hành vi đó sau thời điểm áp dụng Hiệp định này cho Thành viên đó. Tuy nhiên, trong những trường hợp như vậy, Thành viên đó ít nhất phải quy định việc trả khoản tiền bồi thường thoả đáng.
5. Một Thành viên không có nghĩa vụ phải thi hành các quy định của Điều 11 và khoản 4 Điều 14  đối với các bản gốc và các bản sao được mua trước ngày Thành viên đó thi hành Hiệp định này.
6. Đối với việc sử dụng không được phép của chủ thể quyền, các Thành viên không bắt buộc phải thi hành Điều 31, hoặc quy định tại khoản 1 Điều 27 về khả năng hưởng các quyền patent không phân biệt lĩnh vực công nghệ, nếu việc cấp phép sử dụng đã được chính phủ thực hiện trước thời điểm Hiệp định này được biết đến.
7. Đối với những quyền sở hữu trí tuệ mà đăng ký là một điều kiện để được bảo hộ, những đơn xin bảo hộ chưa được giải quyết trước thời điểm Thành viên thi hành Hiệp định này đều phải được phép sửa đổi để yêu cầu hưởng mức bảo hộ cao hơn theo quy định trong Hiệp định này. Nội dung sửa đổi đó không được hàm chứa các vấn đề mới.
8. Nếu đến thời điểm Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực mà một Thành viên vẫn chưa quy định việc bảo hộ patent cho dược phẩm và các sản phẩm hoá nông tương ứng với các nghĩa vụ của Thành viên đó theo Điều 27, thì Thành viên đó phải:
(a) quy định phương thức nộp đơn xin cấp patent cho các sáng chế nói trên từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực, bất kể các quy định của Phần VI;
(b) đối với các đơn nói trên, áp dụng các tiêu chuẩn cấp patent quy định trong Hiệp định này từ ngày thi hành Hiệp định này như thể các tiêu chuẩn đó được áp dụng từ ngày nộp đơn tại nước Thành viên đó, hoặc từ ngày ưu tiên của đơn, nếu có thể yêu cầu hưởng quyền ưu tiên và đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên ; và
(c) quy định sự bảo hộ patent phù hợp với Hiệp định này từ thời điểm cấp patent cho đến hết thời hạn bảo hộ tính từ ngày nộp đơn theo Điều 33 của Hiệp định này, đối với những đơn đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ nêu tại điểm (b) trên đây.
9. Đối với sản phẩm là đối tượng của đơn xin cấp patent tại một nước Thành viên theo quy định tại khoản 8 trên đây, bất kể các quy định của Phần VI, Thành viên đó phải cấp độc quyền tiếp thị sản phẩm trong vòng 5 năm kể từ khi được phép tiếp thị ở nước Thành viên đó, hoặc kéo dài đến khi có quyết định cấp hoặc từ chối cấp patent cho sản phẩm ở nước Thành viên đó, tuỳ thuộc thời hạn nào ngắn hơn, với điều kiện là, sau khi Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực đơn xin cấp patent đã được nộp và một patent đã được cấp cho sản phẩm đó ở một nước Thành viên khác và sản phẩm được phép tiếp thị tại nước Thành viên khác đó.
Điều 71. Xem xét lại và sửa đổi
1. Hội đồng TRIPS phải đánh giá việc thi hành Hiệp định này sau khi kết thúc thời hạn chuyển  tiếp quy định tại khoản 2 Điều 65. Dựa trên những kinh nghiệm rút ra từ việc thi hành Hiệp định này, sau
2 năm kể từ thời điểm nói trên và tiếp đó cứ 2 năm một lần, Hội đồng phải xem xét lại việc thi hành Hiệp định. Hội đồng cũng có thể đánh giá việc thi hành Hiệp định trên cơ sở xem xét những bước phát triển mới liên quan có khả năng dẫn đến việc điều chỉnh hoặc sửa đổi Hiệp định này.
2. Những sửa đổi chỉ nhằm thích ứng với việc bảo hộ ở mức cao hơn các quyền sở hữu trí tuệ đã đạt được và đang có hiệu lực trong các Thoả ước đa phương khác và được tất cả các Thành viên của WTO chấp nhận theo các Thoả ước đó, có thể được chuyển cho Hội nghị Bộ trưởng xử lý phù hợp với khoản 6 Điều X Hiệp định WTO(**) dựa trên đề xuất được nhất trí của Hội đồng TRIPS.
Điều 72. Bảo lưu
Những bảo lưu liên quan đến bất kỳ quy định nào của Hiệp định này đều không được ghi nhận nếu không được tất cả các Thành viên khác nhất trí.
Điều 73. Những ngoại lệ về an ninh
Không một quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là:
(a) buộc một Thành viên cung cấp bất cứ thông tin nào mà việc bộc lộ thông tin đó bị Thành viên đó coi là coi là trái với các lợi ích cơ bản của an ninh quốc gia; hoặc
(b) cấm một Thành viên thực hiện bất cứ hành động nào Thành viên đó coi là cần thiết đối với việc bảo vệ các lợi ích cơ bản của an ninh quốc gia
(i) liên quan đến các chất có thể phân rã hạt nhân hoặc những chất từ đó có thể thu được các chất có thể phân rã hạt nhân;
(ii) liên quan đến việc buôn bán vũ khí, đạn dược và và phương tiện chiến tranh và liên quan đến việc buôn bán những hàng hoá và những đồ vật khác để trực tiếp hoặc gián tiếp cung cấp cho căn cứ quân sự;
(iii) được thực hiện trong chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp khác trong quan hệ quốc tế; hoặc (c) cấm Thành viên thực hiện bất cứ hành động nào phù hợp với nghĩa vụ của mình theo Hiến chương Liên hợp quốc đối với việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế.
Chú thích của Hiệp định TRIPS:
[1] Đối với một Thành viên của WTO có lãnh thổ hải quan riêng, thuật ngữ “công dân” được đề cập trong Hiệp định này có nghĩa là thể nhân hoặc pháp nhân cư trú, hoặc có cơ sở công nghiệp hoặc thương mại thực sự và hoạt động có hiệu quả trong lãnh thổ hải quan đó.
[2] Trong Hiệp định này, “Công ước Paris” có nghĩa là công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; “Công ước Paris (1967)” có nghĩa là Văn bản Stockholm của Công ước đó, ký kết ngày 14.7.1967, “Công ước Berne” có nghĩa là Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; “Công ước Berne 1971″ có nghĩa là Văn bản Paris của Công ước đó, ký kết ngày 24.7.1971; “Công ước Rome” có nghĩa là Công ước quốc tế về bảo hộ những người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh truyền hình, được thông qua tại Rome ngày 26.10.1961; “Hiệp ước về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp” (Hiệp ước IPIC) có nghĩa là Hiệp ước về shữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp được thông qua tại Washington ngày 26.4.1989; “Hiệp ước WTO” là Hiệp ước thành lập WTO.
[3] Trong các Điều 3 và 4 của Hiệp định này, “bảo hộ” phải bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến việc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ được quy định rõ trong Hiệp định này
[4] Bất kể câu đầu tiên của Điều 42, liên quan đến các nghĩa vụ này, các Thành viên có thể quy định việc thực thi quyền bằng thủ tục hành chính thay vì các thủ tục tư pháp.
[5] Trong Điều này, các thuật ngữ “trình độ sáng tạo” và “khả năng áp dụng công nghiệp” có thể được mỗi Thành viên coi là đồng nghĩa với các thuật ngữ “không hiển nhiên” và “hữu ích”
[6] Quyền này, cũng như các quyền khác theo Hiệp định này đối với việc sử dụng, bán, nhập khẩu hàng hoá hoặc phân phối hàng hoá dưới hình thức khác, phải tuân thủ quy định tại Điều 6
[7] Các hình thức “sử dụng khác” có nghĩa là hình thức sử dụng không thuộc trường hợp cho phép tại Điều 30
[8] Điều này được hiểu là những Thành viên nào không có một hệ thống cấp patent gốc đều có thể quy định rằng thời hạn bảo hộ được tính từ ngày nộp đơn vào hệ thống cấp patent gốc tương ứng
[9] Thuật ngữ “chủ thể quyền” (right holder) trong Mục này phải được hiểu là đồng nghĩa với thuật ngữ “chủ thể quyền” (holder of the right) trong Hiệp ước IPIC.
[10] Trong quy định này, “cách thức trái với hoạt động thương mại trung thực” ít nhất phải có nghĩa là những hành vi như phá vỡ hợp đồng, làm lộ bí mật và xui khiến người khác làm lộ bí mật, kể cả hành vi tiếp nhận thông tin bí mật nếu đã biết, hoặc do cẩu thả nên không biết rằng thông tin đó thu được bằng các hành vi trên.
[11] Trong Phần này, thuật ngữ “chủ thể quyền” bao gồm cả những liên đoàn và hiệp hội đủ tư cách pháp lý để hưởng các quyền đó.
[12] Thành viên nào đã xoá bỏ về cơ bản mọi hoạt động kiểm soát việc vận chuyển hàng hoá qua biên giới của mình với một
Thành viên khác, mà cả hai đều thuộc một Liên minh hải quan, thì không phải áp dụng các quy định của Mục này tại biên giới đó.
[13] Điều này được hiểu là các Thành viên không có nghĩa vụ phải áp dung các thủ tục đó đối với việc nhập khẩu hàng hoá đã được chủ thể quyền hoặc người được sự đồng ý củachủ thể quyền đưa ra thị trường của một nước khác hoặc đối với hàng hoá quá cảnh.
[14] Trong Hiệp định này:
(a) “hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo” phải có nghĩa là bất cứ hàng hoá nào, kể cả bao bì, mang nhãn hiệu hàng hoá trùng với nhãn hiệu hàng hoá đã được đăng ký hợp pháp cho hàng hoá đó, hoặc không thể phân biệt với nhãn hiệu đó về những khía cạnh cơ bản, mà không được phép và do vậy xâm phạm các quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá đó theo luật của nước nhập khẩu;
(b) ” hàng hoá vi phạm bản quyền” phải có nghĩa là bất cứ hàng hoá nào là bản sao được làm ra mà không có sự đồng ý của người nắm giữ quyền hoặc người được phép của người nắm giữ quyền ở nước sản xuất, và hàng hoá đó được làm ra trực tiếp hoặc gián tiếp từ một sản phẩm mà việc làm bản sao sản phẩm đó cấu thành hành vi xâm phạm bản quyền hoặc quyền liên quan theo luật của nước nhập khẩu.

VĂN KIỆN NĂM 1991 CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO HỘ GIỐNG CÂY TRỒNG MỚI

(Thông qua ngày 2.12.1961, được sửa đổi tại Giơnevơ ngày 10.11.1972, 23.10.1978 và 19.3.1991)
Chương I. Các kháI niệm
Điều 1. Trong Văn kiện này:
Các khái niệm
(i) “Công ước này” dùng để chỉ Văn kiện hiện hành (năm 1991) của Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới;
(ii) “Văn kiện năm 1961/1972” dùng để chỉ Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới ngày 2.12.1961, được sửa đổi theo Văn kiện ngày10.11.1972;
(iii) “Văn kiện năm 1978” dùng để chỉ Văn kiện ngày 23.10.1978 của Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới
(iv) “ Nhà tạo giống ” dùng để chỉ:
- người tạo ra, hoặc phát hiện và cải tạo một giống cây,
- người thuê hoặc trả công cho những người nói trên để tạo ra, phát hiện và
cải tạo một giống cây, nếu luật pháp của các Bên ký kết liên quan quy định như vậy, hoặc
- người thừa kế hợp pháp của người nêu trên đây, tuỳ trường hợp.
(v) “Quyền của nhà tạo giống” dùng để chỉ quyền của nhà tạo giống được quy định trong Công ước này;
(vi) “Giống cây” dùng để chỉ một nhóm cây thuộc duy nhất một cấp phân loại thực vật thấp nhất, bất kể có đáp ứng đầy đủ hay không các điều kiện để công nhận quyền của nhà tạo giống, nhóm cây có thể:

- xác định được bằng sự thể hiện các tính trạng thu được từ các kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen đã biết,
- phân biệt được với các nhóm cây bất kỳ khác bằng sự thể hiện của ít nhất một trong các tính trạng nói trên và
- được coi là một đơn vị khi xét về khả năng phù hợp của nó để nhân giống bất biến.
(vii) “Bên ký kết” dùng để chỉ một Quốc gia hoặc một tổ chức liên chính phủ tham gia Công ước này;
(viii) “Lãnh thổ” liên quan đến một Bên ký kết dùng để chỉ lãnh thổ của Quốc gia khi Bên ký kết là một quốc gia và lãnh thổ trong đó hiệp ước thành lập tổ chức liên chính phủ được áp dụng khi Bên ký kết là một tổ chức liên chính phủ;
(ix) “Cơ quan có thẩm quyền” dùng để chỉ cơ quan được đề cập đến tại Điều 30(1)(ii);
(x) “Liên minh” dùng để chỉ Liên minh bảo hộ giống cây trồng mới được thành lập theo Văn kiện năm1961 và được đề cập đến trong Văn kiện năm 1972, Văn kiện năm 1978 và trong Công ước này;
(xi) “Thành viên của Liên minh” dùng để chỉ Quốc gia tham gia Văn kiện năm 1961/1972 hoặc Văn kiện năm 1978, hoặc dùng để chỉ Bên ký kết.
Chương II. Các nghĩa vụ chung của các bên ký kết
Điều 2. Nghĩa vụ cơ bản của các Bên ký kết
Mỗi Bên ký kết phải công nhận và bảo hộ quyền của nhà tạo giống.
Điều 3. Các loài và các giống cây được bảo hộ
(1) [Các Quốc gia đã là thành viên của Liên minh] Mỗi Bên ký kết, nếu đã bị ràng buộc bởi Văn kiện năm 1961/1972 hoặc Văn kiện năm 1978, phải áp dụng các quy định của Công ước này
(i) từ ngày bắt đầu bị ràng buộc bởi Công ước này cho tất cả các loài và giống cây mà các quy định của Văn kiện năm 1961/1972 hoặc Văn kiện năm 1978 đã được áp dụng cho chúng vào ngày nói trên và,
(ii) muộn nhất là khi kết thúc thời hạn 5 năm sau ngày nói trên cho tất cả các loài và giống cây.
(2) [Các thành viên mới của Liên minh] Mỗi Bên ký kết, nếu không bị ràng buộc bởi các Văn kiện năm 1961/1972 hoặc Văn kiện năm 1978, phải áp dụng các quy định của Công ước này
(i) từ ngày bắt đầu bị ràng buộc bởi Công ước này cho tối thiểu là 15 loài hoặc giống cây và,
(ii) muộn nhất là khi kết thúc thời hạn 5 năm kể từ ngày nói trên cho tất cả  các loài và giống cây.
Điều 4.  Đối xử quốc gia
(1) [Đối xử] Không ảnh hưởng đến các quyền quy định trong Công ước này, công dân của Bên ký kết cũng như các cá nhân định cư tại và pháp nhân có trụ sở đăng ký trên lãnh thổ của Bên ký kết được hưởng sự đối xử giống như sự đối xử mà luật của mỗi Bên ký kết khác đã hoặc sẽ dành cho công dân của mình đối với việc công nhận và bảo hộ quyền của nhà tạo giống liên quan trong lãnh thổ của mỗi Bên ký kết khác đó, với điều kiện là công dân, các cá nhân hoặc pháp nhân đó phải đáp ứng các điều kiện và thủ tục được áp dụng đối với công dân của Bên ký kết khác nói trên.
(2)[ “Công dân”] Trong khoản trên, “công dân” dùng để chỉ công dân của một Quốc gia khi Bên ký kết là một Quốc gia, và công dân của các Quốc gia thành viên của  tổ chức liên chính phủ khi Bên ký kết là một tổ chức liên chính phủ.
Chương III. Điều kiện để công nhận quyền của nhà Tạo giống
Điều 5 . Điều kiện bảo hộ
(1) [ Tiêu chuẩn phải đáp ứng] Quyền của nhà tạo giống được công nhận nếu giống cây
(i) mới,
(ii) khác biệt,
(iii)đồng nhất và
(iv) ổn định.
(2)[Các điều kiện khác] Việc công nhận quyền của nhà tạo giống không bị buộc phải tuân theo các điều kiện khác hoặc bổ sung bất kỳ nếu giống cây được xác định bằng một tên gọi phù hợp với các quy định tại Điều 20, người nộp đơn đáp ứng các thủ tục theo luật của Bên ký kết nơi mà đơn được nộp và nộp các khoản lệ phí theo quy định.
Điều 6. Tính mới
(1) [Tiêu chuẩn] Một giống cây được coi là mới nếu vào ngày nộp đơn yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống, vật liệu nhân hoặc vật liệu thu hoạch của giống cây đó chưa được bán hoặc được phân phối bằng cách khác cho người thứ ba nhằm mục đích khai thác giống cây bởi hoặc được sự đồng ý của nhà tạo giống:
(i) trong lãnh thổ của Bên ký kết, nơi đơn được nộp và trước ngày nộp đơn 1 năm;
(ii) trong lãnh thổ khác với lãnh thổ của Bên ký kết, nơi đơn được nộp và trước ngày nộp đơn 4 năm hoặc 6 năm đối với cây thân gỗ và cây leo.
(2)[Các giống cây vừa mới được tạo ra] Nếu một Bên ký kết áp dụng Công ước này cho một loài hoặc giống cây mà trước đây chúng chưa được áp dụng theo Công ước này, hoặc theo một Văn kiện sớm hơn, thì có thể coi giống cây vừa mới được tạo ra tồn tại vào ngày mở rộng bảo hộ đáp ứng điều kiện tính mới được quy định tại khoản (1), ngay cả khi việc bán hoặc việc phân phối như quy định tại khoản này được thực hiện trước giới hạn thời gian quy định tại khoản này.
(3) [“Lãnh thổ” trong một số trường hợp nhất định] Nhằm mục tiêu của khoản (1), tất cả các Bên ký kết là Quốc gia thành viên của cùng một tổ chức liên chính phủ có thể cùng tiến hành, khi các quy định của tổ chức đó đòi hỏi như vậy, nhằm thống nhất hoá các hành động được thực hiện trên các lãnh thổ của các Quốc gia thành viên của tổ chức đó với các hành động được thực hiện trên các lãnh thổ riêng của các Quốc gia thành viên và nếu làm như vậy các Bên ký kết phải thông báo ngay cho Tổng Thư ký.
Điều 7. Tính khác biệt
Một giống cây được coi là khác biệt nếu có khả năng phân biệt một cách rõ  ràng với bất kỳ một giống cây nào khác đã được biết đến một cách rộng rãi tại thời điểm nộp đơn. Đặc biệt, việc nộp đơn yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống hoặc yêu cầu đăng ký vào danh sách chính thức các giống cây ở nước bất kỳ phải được coi là khiến cho giống cây đó được biết đến rộng rãi từ ngày nộp đơn nếu các đơn này dẫn tới việc công nhận quyền của nhà tạo giống hoặc ghi nhận các giống cây đó vào danh sách chính thức các giống cây, tuỳ trường hợp.
Điều 8. Tính đồng nhất
Một giống cây được coi là đồng nhất nếu có sự đồng nhất một cách đầy đủ các tính trạng liên quan của nó, trừ những biến dị có thể xảy ra do các đặc điểm cụ thể của qúa trình nhân giống.
Điều 9. Tính ổn định
Một giống cây được coi là ổn định nếu các tính trạng liên quan của nó duy trì bất biến sau các quá trình nhân giống liên tiếp hoặc vào thời điểm kết thúc mỗi chu trình nhân giống trong trường hợp nhân giống theo chu trình cụ thể.
Chương IV. Đơn yêu cầu công nhận quyền  của nhà tạo giống
Điều 10. Nộp đơn
(1) [Nơi nộp đơn đầu tiên] Nhà tạo giống có thể chọn cơ quan có thẩm quyền  của Bên ký kết để nộp đơn đầu tiên yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống.
(2) [Thời gian nộp các đơn tiếp theo] Nhà tạo giống có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của các Bên ký kết khác công nhận quyền của nhà tạo giống mà không cần phải chờ việc công nhận quyền của của nhà tạo giống do cơ quan có thẩm quyền của Bên ký kết nơi nhận đơn đầu tiên thực hiện.
(3) [Sự độc lập của bảo hộ] Không một Bên ký kết nào được từ chối công nhận quyền hoặc hạn chế thời hạn hiệu lực của quyền trên cơ sở việc bảo hộ các giống cây giống nhau không được thực hiện hoặc đã bị từ chối hoặc hết hạn hiệu lực tại một Quốc gia hoặc một tổ chức liên chính phủ bất kỳ nào khác.
Điều 11. Quyền ưu tiên
(1) [Quyền; thời hạn của quyền] Bất kỳ nhà tạo giống nào đã nộp đơn yêu cầu bảo hộ giống cây theo quy định vào một trong các Bên ký kết (“đơn đầu tiên”) đều phải được hưởng quyền ưu tiên trong thời hạn 12 tháng cho việc nộp các đơn yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống đối với cùng một giống cây vào cơ quan có thẩm quyền của Bên ký kết bất kỳ khác (“đơn tiếp theo”). Thời hạn này được tính từ ngày nộp đơn đầu tiên. Ngày nộp đơn phải không được tính vào thời hạn này.
(2) [Yêu cầu hưởng quyền ưu tiên] Để được hưởng quyền ưu tiên, trong đơn tiếp theo của mình, nhà tạo giống phải yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của đơn đầu tiên. Trong thời hạn muộn nhất là 3 tháng kể từ ngày nộp đơn tiếp theo, Cơ quan có thẩm quyền nhận đơn tiếp theo có thể yêu cầu nhà tạo giống cung cấp bản sao các tài liệu đơn đầu tiên được cơ quan có thẩm quyền xác nhận và các mẫu hoặc bằng chứng khác xác nhận rằng giống cây của cả hai đơn là giống nhau.
(3) [Tài liệu và vật liệu] Nhà tạo giống phải được phép trong thời hạn là 2 năm sau khi kết thúc thời hạn hưởng quyền ưu tiên hoặc trong thời gian thích hợp sau khi đơn đầu tiên bị từ chối hoặc rút bỏ để cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền của Bên ký kết nhận đơn tiếp theo thông tin, tài liệu hoặc mọi vật liệu cần thiết được quy định cho việc xem xét đơn theo Điều 12 như được quy định bởi luật của Bên ký kết đó.
(4) [Các sự kiện xảy ra trong thời hạn] Các sự kiện xảy ra trong thời hạn quy định tại khoản (1) như nộp một đơn khác hoặc công bố hoặc sử dụng giống cây là đối tượng của đơn đầu tiên không được coi là căn cứ để từ chối đơn tiếp theo. Các sự kiện như vậy cũng không được làm phát sinh quyền cho bất kỳ bên thứ ba nào.
Điều 12. Xét nghiệm
Mọi quyết định công nhận quyền của nhà tạo giống đòi hỏi việc xét nghiệm sự  đáp ứng các điều kiện quy định tại các Điều từ Điều 5 đến Điều 9. Trong quá trình xét nghiệm, cơ quan có thẩm quyền có thể gieo trồng giống cây hoặc thực hiện các khảo nghiệm cần thiết khác, hoặc sử dụng các kết quả khảo nghiệm sinh trưởng hoặc thử nghiệm đã được thực hiện trước đó. Nhằm mục đích xét nghiệm, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu nhà tạo giống cung cấp tất cả các thông tin, tài liệu hoặc vật liệu cần thiết.
Điều 13. Bảo hộ tạm thời
Mỗi một Bên ký kết phải quy định các biện pháp nhằm bảo vệ lợi ích của nhà tạo giống trong thời hạn từ ngày nộp đơn yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống đến ngày công nhận quyền đó. Các biện pháp như vậy phải cho phép nhà tạo giống quyền tối thiểu là được hưởng khoản đền bù tương xứng từ bất kỳ người thứ ba nào đã thực hiện trong thời hạn nói trên các hành vi buộc phải xin phép nhà tạo giống như quy định tại Điều 14 khi quyền của nhà tạo giống được công nhận. Bên ký kết có thể quy định rằng các biện pháp đã nói trên chỉ được áp dụng đối với người đã được nhà tạo giống thông báo về việc nộp đơn của mình.
Chương V. Quyền của nhà tạo giống
Điều 14. Phạm vi quyền của nhà tạo giống
(1)[Các hành vi liên quan đến vật liệu nhân giống]
(a) Phù hợp với các Điều 15 và Điều 16, các hành vi sau đây liên quan đến vật liệu nhân giống của giống cây được bảo hộ phải được phép của nhà tạo giống: (i) sản xuất hoặc nhân giống,
(ii) chế biến nhằm mục đích nhân giống, (iii) chào bán,
(iv)bán hoặc các cách tiếp cận thị trường khác, (v) xuất khẩu,
(vi)nhập khẩu,
(vii)tàng trữ nhằm thực hiện các hành vi bất kỳ nêu tại các điểm từ (i) đến
(vi) trên đây
(b) Nhà tạo giống có thể cho phép người khác thực hiện quyền của mình phù hợp với các điều kiện và hạn chế nhất định.
(2)[Các hành vi liên quan đến các vật liệu thu hoạch] Phù hợp với các Điều 15 và Điều 16, các hành vi được đề cập tại các điểm (i) đến (vii) khoản (1)(a) liên quan đến vật liệu thu hoạch, bao gồm cả cây nguyên vẹn và các phần của cây thu được bằng cách sử dụng bất hợp pháp vật liệu nhân giống của giống cây được bảo hộ, phải được  phép của nhà tạo giống trừ trường hợp nhà tạo giống có cơ hội hợp lý để thực hiện quyền của mình liên quan đến vật liệu nhân nói trên.
(3)[Các hành vi liên quan đến các sản phẩm nhất định] Phù hợp với các Điều 15 và Điều 16, mỗi Bên ký kết có thể quy định rằng các hành vi được đề cập tại các điểm từ điểm (i) đến (vii) khoản (1)(a) liên quan đến các sản phẩm được làm trực tiếp từ vật liệu thu hoạch của giống cây đã được bảo hộ thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định tại khoản (2) bằng cách sử dụng bất hợp pháp các vật liệu thu hoạch nói trên phải được phép của nhà tạo giống, trừ trường hợp nhà tạo giống có cơ hội hợp lý để thực hiện quyền của mình liên quan đến các vật liệu thu hoạch nói trên.
(4)[Các hành vi bổ sung có thể được] Phù hợp với các Điều 15 và Điều 16, mỗi nước thành viên có thể quy định các hành vi khác với các hành vi được đề cập tại các điểm từ điểm (i) đến (vii) khoản (1)(a) phải được phép của nhà tạo giống.
(5)[Các giống cây dẫn xuất và một vài giống cây khác]
(a) Các quy định của các khoản (1) đến (4) cũng phải được áp dụng đối với:
(i) các giống cây dẫn xuất của giống cây được bảo hộ, khi giống được bảo hộ bản thân nó không phải là giống dẫn xuất của một giống khác,
(ii) các giống cây không có khả năng phân biệt một cách rõ ràng theo Điều 7 với giống cây được bảo hộ và
(iii) các giống cây mà việc sản xuất nó đòi hỏi phải sử dụng lặp lại giống cây được bảo hộ.
(b) Nhằm mục tiêu của tiết (a) (i), một giống cây phải được coi là dẫn xuất của  giống cây khác (“giống cây ban đầu”) khi
(i) giống cây đó thực chất bắt nguồn từ giống cây ban đầu hoặc từ giống cây mà bản thân nó thực chất bắt nguồn từ giống cây ban đầu khi vẫn giữ lại các biểu hiện của các tính trạng chủ yếu thu được từ kiểu gen hoặc phối hợp các kiểu gen của giống cây ban đầu,
(ii) giống cây đó có khả năng phân biệt một cách rõ ràng với giống cây ban đầu và
(iii) trừ những khác biệt là kết quả của tác động dẫn xuất, giống cây đó phù hợp với giống cây ban đầu về sự biểu hiện các tính trạng ban đầu thu nhận được từ kiểu gen hoặc sự kết hợp các kiểu gen của giống cây ban đầu.
(c) Các giống cây dẫn xuất có thể thu được, chẳng hạn, bằng cách lựa chọn các sinh vật đột biến do tự nhiên hoặc được kích thích, hoặc các phép thế hoặc lựa chọn một phương án riêng từ các cây của giống cây ban đầu, lai ngược, hoặc biến đổi bằng công nghệ gen.
Điều 15. tới:
Các ngoại lệ đối với quyền của nhà tạo giống
(1)[Các ngoại lệ bắt buộc] Quyền của nhà tạo giống phải không được mở rộng
(i) các hành vi được thực hiện phục vụ nhu cầu cá nhân và mục đích phi thuơng mại,
(ii) các hành vi được thực hiện nhằm mục đích thí nghiệm và
(iii) các hành vi được thực hiện nhằm mục đích lai tạo các giống cây khác và các hành vi được liệt kê tại các khoản từ (1) đến (4) Điều 14 liên quan đến các giống cây khác này trừ khi các quy định của khoản (5) Điều 14 được áp dụng.
(2)[Các ngoại lệ tuỳ chọn] Không phụ thuộc vào Điều 14, mỗi Bên ký kết có thể, trong giới hạn hợp lý và để bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà tạo giống, hạn chế quyền của nhà tạo giống liên quan đến giống cây bất kỳ để cho phép nông dân sử dụng sản phẩm thu hoạch được từ việc gieo trồng trên cánh đồng của mình giống cây được bảo hộ, giống cây được nêu tại điểm (i) hoặc điểm (ii) tiết (a) khoản (5) Điều 14 nhằm mục  đích nhân giống trên cánh đồng của mình.
Điều 16 . Tình trạng khai thác hết quyền của nhà tạo giống
(1) [Tình trạng khai thác hết quyền] Quyền của nhà tạo giống không được mở rộng tới các hành vi liên quan đến vật liệu bất kỳ của giống cây được bảo hộ hoặc của giống cây theo quy định tại khoản (5) Điều 14 khi chúng đã được bán hoặc đưa ra thị trường bằng cách khác bởi hoặc được sự đồng ý của nhà tạo giống trong lãnh thổ của Bên ký kết liên quan, hoặc đến vật liệu bất kỳ có nguồn gốc từ vật liệu nói trên, trừ khi các hành vi như vậy
(i) gồm cả việc nhân tiếp giống cây đã được đề cập hoặc
(ii) gồm cả việc xuất khẩu các vật liệu của giống cây có khả năng nhân giống vào một nước không bảo hộ các giống cây đó, trừ khi vật liệu được xuất khẩu cho mục đích tiêu dùng.
(2) [Khái niệm "vật liệu"] Nhằm mục đích của khoản (1), liên quan đến giống cây, “vật liệu” dùng để chỉ
(i) vật liệu nhân dưới dạng bất kỳ,
(ii) vật liệu thu hoạch, gồm cả các cây nguyên vẹn và các phần của cây, và
(iii) sản phẩm bất kỳ được làm trực tiếp từ vật liệu thu hoạch.
(3) [“Lãnh thổ" trong các trường hợp cụ thể] Nhằm mục đích của khoản (1), tất  cả các Bên ký kết là Quốc gia thành viên của cùng một tổ chức liên chính phủ có thể cùng tiến hành, khi các quy định của tổ chức đó yêu cầu như vậy, nhằm thống nhất hoá các hành động được thực hiện trên các lãnh thổ của các Quốc gia thành viên của tổ chức đó với các hành động được thực hiện trên các lãnh thổ riêng của từng Quốc gia thành viên và các Bên ký kết phải thông báo ngay cho Tổng thư ký nếu làm như vậy.
Điều 17 . Hạn chế về thực hiện quyền nhà tạo giống
(1) [Lợi ích xã hội] Trừ khi được quy định rõ ràng trong Công ước này, không một Bên ký kết nào có thể hạn chế việc tự do thực hiện quyền của nhà tạo giống với lý do khác với lý do vì lợi ích của xã hội.
(2) [Khoản đền bù hợp lý] Khi các hạn chế bất kỳ như vậy được thực hiện để cho phép bên thứ ba thực hiện hành vi bất kỳ đòi hỏi phải được sự đồng ý của nhà tạo giống, Bên ký kết liên quan phải tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo đảm cho nhà tạo giống được nhận một khoản đền bù hợp lý.
Điều 18. Các biện pháp điều chỉnh thương mại
Quyền của nhà tạo giống phải độc lập với bất kỳ biện pháp nào được Bên ký  kết thực hiện để điều chỉnh việc sản xuất, công nhận và đưa ra thị trường vật liệu của giống cây trong lãnh thổ của mình hoặc nhập khẩu hoặc xuất khẩu các vật liệu như vậy. Trong mọi trường hợp, các biện pháp như vậy phải không gây ảnh hưởng tới việc áp dụng các quy định của Công ước này.
Điều 19. Thời hạn bảo hộ quyền của nhà tạo giống
(1) [Thời hạn bảo hộ] Quyền của nhà tạo giống phải được bảo hộ trong một thời hạn xác định.
(2) [Thời hạn tối thiểu] Thời hạn nói trên phải không được ngắn hơn 20 năm kể từ ngày công nhận quyền của nhà tạo giống. Đối với cây thân gỗ và thân leo, thời hạn nói trên phải không được ngắn hơn 25 năm kể từ ngày nói trên.
Chương VI. tên gọi của giống cây
Điều 20. Tên gọi của giống cây
(1)[Xác định giống cây bằng cách đặt tên; sử dụng tên gọi]
(a) Một giống cây phải được xác định bằng tên gọi chỉ đặc điểm gen của nó.
(b)Phù hợp với khoản (4), mỗi Bên ký kết phải bảo đảm rằng không một quyền nào về dấu hiệu được đăng ký với danh nghĩa là tên gọi của giống cây có thể gây ảnh hưởng tới việc sử dụng tự do các tên gọi gắn với giống cây, thậm chí sau khi hết hạn quyền của nhà tạo giống.
(2) [Các đặc điểm của tên gọi] Một tên gọi phải cho phép nhận ra được giống cây. Tên gọi không được gồm toàn các dấu hiệu trừ khi dấu hiệu đó được hình thành trên thực tế để chỉ giống cây đó. Tên gọi phải không có khả năng lừa dối hoặc gây nhầm lẫn về các đặc điểm, giá trị hoặc nhận biết giống cây hoặc nhận biết nhà tạo giống. Đặc biệt, tên gọi phải khác biệt với mọi tên gọi dùng để chỉ các giống cây thuộc cùng một loài hoặc thuộc các loài gần nhau đang tồn tại trên lãnh thổ của bất kỳ Bên ký kết nào.
(3)[Đăng ký tên gọi] Nhà tạo giống phải nộp đơn yêu cầu đăng ký tên gọi của giống cây cho cơ quan có thẩm quyền. Nếu tên gọi không đáp ứng các yêu cầu quy định tại khoản (2), cơ quan có thẩm quyền sẽ từ chối đăng ký tên gọi đó và yêu cầu nhà tạo giống đệ trình tên gọi mới trong thời hạn quy định. Tên gọi sẽ được cơ quan có thẩm quyền đăng ký đồng thời với việc công nhận quyền của nhà tạo giống.
(4) [Các quyền đã tồn tại trước của bên thứ ba] Quyền đã tồn tại trước của bên thứ ba phải không bị phương hại. Nếu vì quyền đã tồn tại trước mà việc sử dụng tên gọi của giống cây bị cấm đối với người phải sử dụng tên gọi đó theo quy định của khoản (7), cơ quan có thẩm quyền phải yêu cầu nhà tạo giống đăng ký tên gọi khác cho giống cây.
(5)[Tên gọi như nhau trong tất cả các Bên ký kết] Một giống cây phải được đệ trình cho tất cả các Bên ký kết dưới cùng một tên gọi. Cơ quan có thẩm quyền của mỗi Bên ký kết phải đăng ký tên gọi như được đệ trình, trừ khi cho rằng tên gọi không phù hợp trong phạm vi lãnh thổ của mình. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải yêu cầu nhà tạo giống đệ trình một tên gọi khác.
(6)[Thông tin giữa các cơ quan có thẩm quyền của các Bên ký kết] Cơ quan có thẩm quyền phải bảo đảm rằng tất cả các cơ quan có thẩm quyền của các Bên ký kết khác được thông báo về các vấn đề liên quan đến tên gọi của giống cây, đặc biệt là việc đệ trình, đăng ký và huỷ bỏ tên gọi. Bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào cũng đều có thể gửi ý kiến đánh giá của mình về việc đăng ký tên gọi, nếu có, cho cơ quan có thẩm quyền đã thông báo tên gọi đó.
(7)[Nghĩa vụ sử dụng tên gọi] Bất kỳ người nào trong lãnh thổ của một trong các Bên ký kết chào bán hoặc đưa ra thị trường vật liệu nhân của giống cây đang được bảo hộ trong lãnh thổ đó phải có nghĩa vụ sử dụng tên gọi của giống cây, thậm chí sau khi kết thúc thời hạn hiệu lực của quyền của nhà tạo giống, trừ khi theo quy định tại khoản (4) các quyền tồn tại trước ngăn cản việc sử dụng đó.
(8)[Các chỉ dẫn được sử dụng cùng với các tên gọi] Khi một giống cây được chào bán hoặc đưa ra thị trường, phải cho phép kết hợp nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại hoặc các chỉ dẫn tương tự với tên gọi của giống cây đã được đăng ký. Nếu chỉ dẫn như vậy được kết hợp, tên gọi vẫn phải có khả năng nhận biết một cách dễ dàng.
Chương vii. Huỷ bỏ và đình chỉ quyền của nhà tạo giống
Điều 21. Huỷ bỏ quyền của nhà tạo giống
(1) [Các lý do để huỷ bỏ] Mỗi Bên ký kết phải tuyên bố vô hiệu quyền của nhà tạo giống khi có căn cứ rằng
(i) các điều kiện được liệt kê tại các Điều 6 hoặc Điều 7 không được thoả mãn tại thời điểm công nhận quyền của nhà tạo giống,
(ii) các điều kiện được liệt kê tại các Điều 8 hoặc Điều 9 không được thoả mãn tại thời điểm công nhận quyền, khi việc công nhận quyền chủ yếu căn cứ vào thông tin và tài liệu do nhà tạo giống cung cấp,
(iii) quyền của nhà tạo giống được công nhận cho người không có quyền được hưởng nó trừ khi được chuyển giao cho người có quyền được hưởng quyền như vậy.
(2) [Loại trừ các lý do khác] Không được tuyên bố vô hiệu quyền của nhà tạo  giống vì các lý do khác với những lý do được nêu tại khoản (1).
Điều 22. Đình chỉ quyền của nhà tạo giống
(1)[Các lý do để đình chỉ] (a) Mỗi Bên ký kết có thể đình chỉ quyền của nhà tạo giống đã được mình công nhận nếu có cơ sở khẳng định rằng các điều kiện quy định tại Điều 8 hoặc Điều 9 không còn được thoả mãn nữa.
(b) Ngoài ra, mỗi Bên ký kết có thể đình chỉ quyền của nhà tạo giống đã được mình công nhận nếu sau khi được yêu cầu và trong thời hạn quy định mà (i) nhà tạo giống không cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền các thông tin, tài liệu hoặc vật liệu được coi là cần thiết cho việc xác minh việc lưu giữ giống cây đó, mình, hoặc
(ii) nhà tạo giống không nộp các khoản lệ phí duy trì hiệu lực quyền của
(iii) nhà tạo giống không đệ trình một tên gọi phù hợp khác khi tên gọi của giống cây bị huỷ bỏ sau khi công nhận quyền.
(2) [Loại trừ các lý do khác] Không được tuyên bố đình chỉ quyền của nhà tạo giống với lý do khác với các lý do được nêu tại khoản (1).
Chương viii. Liên minh
Điều 23. Các Thành viên
Các Bên ký kết sẽ là các thành viên của Liên minh.
Điều 24
Tư cách pháp lý và Trụ sở
(1)[Tư cách pháp lý] Liên minh có tư cách pháp lý
(2)[Phạm vi pháp lý] Liên minh có các quyền pháp lý cần thiết trên lãnh thổ của mỗi thành viên và phù hợp với luật pháp hiện hành trên lãnh thổ đó để đạt được mục  tiêu của Liên minh và thực hiện các nhiệm của mình.
(3)[Trụ sở] Trụ sở của Liên minh và các cơ quan thường trực của Liên minh đóng tại Giơnevơ.
(4)[Thoả thuận về Trụ sở] Liên minh có thoả thuận về trụ sở với Thuỵ sỹ.
Điều 25. Các cơ quan
Các cơ quan thường trực của Liên minh là Hội đồng và Văn phòng của Liên minh.
Điều 26. Hội đồng
(1)[Thành phần] Hội đồng bao gồm các đại diện của các thành viên của Liên
minh. Mỗi thành viên của liên minh phải chỉ định một đại diện tại Hội đồng và một kế nhiệm. Các đại diện hoặc các người kế nhiệm có thể được kèm theo các trợ lý hoặc các cố vấn.
(2) [Viên chức ] Hội đồng phải bầu ra một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch thứ nhất trong số các thành viên của Hội đồng. Có thể bầu Phó Chủ tịch khác. Phó Chủ tịch thứ nhất sẽ thay thế Chủ tịch nếu Chủ tịch không thể điều hành. Nhiệm kỳ của Chủ tịch là 3 năm.
(3)[Các kỳ họp] Hội đồng phải họp theo sự triệu tập của Chủ tịch Hội đồng. Kỳ họp chính thức của Hội đồng được tiến hành mỗi năm một lần. Ngoài ra, Chủ tịch có thể triệu tập Hội đồng theo ý mình; Chủ tịch phải triệu tập Hội đồng trong thời hạn 3 tháng nếu có một phần ba số thành viên của Hội đồng yêu cầu.
(4)[Các quan sát viên] Các quốc gia không phải là thành viên của Công ước có thể được mời với tư cách quan sát viên trong các cuộc họp của Hội đồng. Các quan sát viên cũng như các chuyên gia khác cũng có thể được mời dự các cuộc họp như vậy.
(5)[Nhiệm vụ] Nhiệm vụ của Hội đồng là:
(i) nghiên cứu các biện pháp thích hợp để bảo vệ lợi ích và khuyến khích sự phát triển của Liên minh;
(ii) thiết lập các nguyên tắc về thủ tục của Hội đồng;
(iii) chỉ định Tổng Thư ký và Phó Tổng Thư ký nếu thấy cần thiết và xác định thời hạn chỉ định từng chức vụ trên;
(iii) xem xét báo cáo hàng năm về hoạt động của Liên minh và đề ra chương trình công tác của Liên minh trong tương lai;
(iv) vạch ra cho Tổng Thư ký phương hướng cần thiết để hoàn thành các nhiệm vụ của Liên minh;
(v) thiết lập các quy chế về hành chính và tài chính của Liên minh;
(vi) kiểm tra và phê chuẩn ngân sách của Liên minh và ấn định phần đóng góp của các thành viên của Liên minh;
(vii) kiểm tra và phê chuẩn các quyết toán do Tổng Thư ký đệ trình;
(viii) ấn định ngày và địa điểm tổ chức các hội nghị được nêu tại Điều 38 và thực hiện các biện pháp chuẩn bị cần thiết; và
(ix)nói chung là đưa ra tất cả các quyết định nhằm bảo đảm hoạt động hiệu quả của Liên minh.
(6)[Biểu quyết] (a) Mỗi thành viên của Liên minh là một quốc gia có một quyền biểu quyết trong Hội đồng;
(b) Bất cứ một Bên ký kết nào là thành viên của tổ chức liên chính phủ có thể, trong phạm vi thẩm quyền của mình, thực hiện các quyền biểu quyết của các Quốc gia thành viên của mình. Tổ chức liên chính phủ này không dược thực hiện quyền biểu quyết của các Quốc gia thành viên của mình nếu các Quốc gia thành viên đó thực hiện quyền biểu quyết và ngược lại.
(7)[Đa số] Bất kỳ một quyết định nào của Hội đồng đòi hỏi phải được đa số biểu quyết nhất trí, với điều kiện là các quyết định bất kỳ của Hội đồng theo các khoản (5)(ii), (vi) và (vii) và theo Điều 28(3), 29(5)(b) và 38(1) phải được 3/4 số biểu quyết nhất trí. Việc vắng mặt không được coi là tham gia biểu quyết.
Điều 27. Văn phòng của Liên minh
(1) [Nhiệm vụ và điều hành Văn phòng] Văn phòng phải thực hiện các nhiệm vụ và chức năng được Hội đồng giao phó. Văn phòng hoạt động dưới sự điều hành của Tổng Thư ký.
(2) [Nhiệm vụ của Tổng Thư ký] Tổng Thư ký chịu trách nhiệm trước Hội đồng; Tổng Thư ký có trách nhiệm thực hiện các quyết định của Hội đồng. Tổng Thư ký phải đệ trình ngân sách của Liên minh cho Hội đồng phê chuẩn và có trách nhiệm thực hiện nó. Tổng Thư ký phải làm các báo cáo cho Hội đồng về việc công tác quản lý của mình và về các hoạt động và tình hình tài chính của Liên minh.
(3) [Nhân viên] Phù hợp với các quy định của Điều 26(5)(iii), các điều kiện để chỉ định và thuê nhân viên cần cho việc thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của Văn phòng phải được ấn định trong các quy định về hành chính và tài chính.
Điều 28. Ngôn ngữ
(1)[Các ngôn ngữ sử dụng trong Văn phòng] Tiếng Anh, Pháp, Đức và Tây Ban Nha được sử dụng trong Văn phòng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ của Văn phòng.
(2)[Ngôn ngữ trong các hội nghị nhất định] Các hội nghị của Hội đồng và các các hội nghị thường kỳ được tổ chức bằng 4 thứ tiếng.
(3)[Các ngôn ngữ bổ sung] Hội đồng có thể quyết định sử dụng các ngôn ngữ bổ sung khác.
Điều 29. Tài chính
(1) [Nguồn thu]Các khoản chi tiêu của Liên minh được lấy từ
(i) các khoản đóng góp hàng năm của các quốc gia thành viên của Liên
(ii) các khoản tiền nhận được từ việc cung cấp các dịch vụ, (iii) các khoản thu khác.
(2)[Các khoản đóng góp: đơn vị]
(a) Phần đóng góp của mỗi Quốc gia thành viên của Liên minh trong ố tổng các khoản đóng góp hàng năm được xác định bằng thương của tổng số chi tiêu từ các khoản đóng góp của các Quốc gia thành viên với số đơn vị đóng góp được áp dụng theo khoản (3). Phần đóng góp nói trên được tính theo quy định tại khoản (4).
(b) Số đơn vị đóng góp phải là các số nguyên hoặc là phân số với điều kiện các phân số không được nhỏ hơn 1/5.
(3)[Các khoản đóng góp: phần đóng góp của mỗi thành viên]
(a) Số đơn vị đóng góp được áp dụng cho mỗi thành viên của Liên minh trước đây đã tham gia Văn kiện năm 1961/1972 hoặc Văn kiện năm 1978 vào ngày bị ràng buộc bởi Công ước này phải bằng số đơn vị đóng góp được áp dụng cho thành viên đó ngay trước ngày nói trên.
(b) Trong quá trình tham gia Liên minh, quốc gia thành viên khác bất kỳ của Liên minh phải xác định số đơn vị đóng góp áp dụng cho Quốc gia trong tuyên bố gửi Tổng Thư ký.
Quốc gia thành viên bất kỳ có thể, vào bất kỳ thời điểm nào, xác định số đơn vị đóng góp khác với số đơn vị đóng góp theo điểm (a) hoặc điểm (b) trong tuyên bố gửi tổng Thư ký. Tuyên bố đó có hiệu lực từ đầu năm tiếp theo nếu nó được thực hiện trong thời gian 6 tháng đầu năm. Trường hợp khác, tuyên bố đó sẽ có hiệu lực từ đầu năm thứ hai sau năm nó được thực hiện.
(4[ Các khoản đóng góp: tính toán phần đóng góp]
(a) Đối với mỗi kỳ tài chính, giá trị tương ứng với một đơn vị đóng góp được xác định bằng cách chia tổng giá trị của chi phí trong kỳ đó cho tổng số đơn vị đóng góp áp dụng cho các Quốc gia thành viên của Liên minh.
(b) Giá trị đóng góp của mỗi Quốc gia thành viên được xác định bằng cách nhân giá trị tương ứng của một đơn vị đóng góp với số đơn vị đóng góp được áp dụng  cho Quốc gia thành viên đó. (5)[Nợ khoản đóng góp]
(a) Quốc gia thành viên của Liên minh nợ khoản đóng góp theo điểm (b) có thể không được thực hiện quyền biểu quyết của mình trong Hội đồng nếu giá trị của khoản nợ đó tương đương hoặc vượt quá giá trị đóng góp đến hạn đối với cả năm trước. Việc đình chỉ quyền biểu quyết sẽ không loại trừ các nghĩa vụ của các quốc gia thành viên đó và các quyền bất kỳ liên quan.
(b) Hội đồng có thể cho phép Quốc gia thành viên đó tiếp tục thực hiện quyền biểu quyết của mình nếu và chừng nào Hội đồng thấy rằng việc nợ khoản đóng góp thực sự là không thể tránh khỏi hoặc khác thường.
(6)[Kiểm toán tài chính] Việc kiểm toán được Quốc gia thành viên thực hiện như quy định trong các quy định về hành chính và tài chính. Quốc gia thành viên đó nếu chấp thuận sẽ được Hội đồng chỉ định.
(7)[Các khoản đóng góp của các tổ chức liên chính phủ]Bên ký kết bất kỳ là tổ chức liên chính phủ không có nghĩa vụ nộp tiền đóng góp. Tuy nhiên, nếu tổ chức đó quyết định trả tiền đóng góp thì các quy định của các khoản từ khoản (1) đến khoản (4) phải được áp dụng một cách phù hợp.
Chương ix. Thi hành Công ước; Các thoả thuận khác
Điều 30. Thi hành Công ước
(1)[Các biện pháp thi hành] Mỗi Bên ký kết phải áp dụng tất cả các biện pháp để thi hành Công ước này; cụ thể, mỗi Bên ký kết phải:
(i) bảo đảm các chế tài pháp lý đầy đủ để thực thi một cách có hiệu quả quyền của nhà tạo giống;
(ii) duy trì cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ công nhận quyền của nhà tạo giống hoặc trao nhiệm vụ đó cho một cơ quan có thẩm quyền của Bên ký kết khác. (iii) bảo đảm công chúng được thông báo thường xuyên các thông tin về – các đơn yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống, và
- các tên gọi đã được đệ trình và được chấp thuận.
(2)[Sự phù hợp của Luật] Khi đệ trình văn kiện chấp thuận, đồng ý, phê chuẩn hoặc tham gia, tuỳ trường hợp, mỗi nước thành viên hoặc tổ chức liên chính phủ phải sẵn sàng có đủ điều kiện để đảm bảo các quy định của Công ước này được thi hành một cách có hiệu quả theo hệ thống pháp luật của mình.
Điều 31. Mối liên hệ giữa các Bên ký kết và các Quốc gia bị ràng buộc bởi các Văn kiện năm sớm hơn
(1)[Mối liên hệ giữa các Quốc gia bị ràng buộc bởi Công ước này] Chỉ có Công ước này được áp dụng giữa các quốc gia thành viên của Liên minh bị ràng buộc bởi Công ước này và bất kỳ Văn kiện năm sớm hơn nào.
(2)[Mối liên hệ có thể với các Quốc gia không bị ràng buộc bởi Công ước này] Quốc gia thành viên bất kỳ không bị ràng buộc bởi Công ước này có thể tuyên bố trong thông báo gửi cho Tổng Thư ký rằng sẽ áp dụng Văn kiện cuối cùng mà mình bị ràng buộc trong quan hệ với mỗi thành viên của Liên minh chỉ bị ràng buộc bởi Công ước này. Từ khi kết thúc thời hạn 1 tháng sau ngày gửi thông báo đó và đến khi Quốc gia thành viên đó bị ràng buộc bởi Công ước này, thành viên của Liên minh đó sẽ áp dụng Văn kiện cuối cùng mà nó bị ràng buộc trong quan hệ với mỗi thành viên của Liên minh chỉ bị ràng buộc bởi Công ước này, ngược lại thành viên của Liên minh bị ràng buộc bởi Công ước này phải áp dụng Công ước này đối với thành viên của Liên minh không bị ràng buộc bởi công ước này.
Điều 32. Các thoả thuận đặc biệt
Các thành viên của Liên minh bảo lưu quyền ký kết với nhau các thoả thuận đặc biệt để bảo hộ các giống cây trong phạm vi mà các thoả thuận đó không trái với các quy định của Công ước này.
Chương X. Các quy định cuối cùng
Điều 33. kết
Công ước này để ngỏ cho Quốc gia bất kỳ là thành viên của Liên minh ký từ ngày nó được thông qua. Thời hạn để ngỏ cho việc ký Công ước này được duy trì đến 31/3/1992.
Điều 34. Phê chuẩn, Chấp thuận hoặc Thông qua; Gia nhập
(1)[Các Quốc gia và các tổ chức liên chính phủ ](a) Quốc gia bất kỳ theo quy định tại Điều này có thể trở thành thành viên của Công ước này.
(b) Theo quy định này,Tổ chức liên chính phủ bất kỳ có thể tham gia Công ước này nếu
(i)có thẩm quyền đối với các vấn đề được điều chỉnh bằng Công ước này, (ii) có hệ thông pháp luật riêng đảm bảo công nhận quyền của nhà tạo giống ràng buộc tất cả các Quốc gia thành viên, và
(iii) được phép một cách hợp pháp theo các thủ tục nội bộ để tham gia Công ước này.
(2)[Văn kiện gia nhập] Quốc gia bất kỳ đã ký Công ước có thể tham gia Công ước này bằng cách trình một văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc thông qua Công ước này. Quốc gia bất kỳ không ký Công ước này và tổ chức liên chính phủ bất kỳ có thể tham gia Công ước này bằng cách trình một văn kiện gia nhập Công ước này. Văn kiện phê chuẩn, chấp nhận, thông qua hoặc gia nhập được trình cho Tổng Thư ký.
(3)[ý kiến tư vấn của Hội đồng] Trước khi đệ trình văn kiện gia nhập, Quốc gia bất kỳ không là thành viên của Liên minh và tổ chức liên chính phủ bất kỳ phải yêu cầu Hội đồng cho ý kiến liên quan đến tính phù hợp của luật pháp của mình với các quy định của Công ước này. Nếu như ý kiến tư vấn tích cực thì văn kiện gia nhập có thể được đệ trình.
Điều 35. Bảo lưu
(1) [Nguyên tắc] Phù hợp với khoản (2), không cho phép bảo lưu đối với Công ước này
(2)[Các ngoại lệ có thể] (a) Không ảnh huởng đến quy định tại khoản (1) Điều 3, nếu Quốc gia bất kỳ mà vào thời điểm tham gia Công ước này đã tham gia Văn kiện năm 1978 và đã bảo hộ các giống cây được sản xuất bằng phương pháp vô tính dưới hình thức quyền sở hữu công nghiệp khác với quyền của nhà tạo giống cây thì Quốc gia đó phải có quyền tiếp tục thực hiện như vậy mà không phải áp dụng các quy định của Công ước này cho các giống cây đó.
Quốc gia bất kỳ áp dụng quyền nói trên phải thông báo ngay cho Tổng Thư ký vào thời điểm đệ trình văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc thông qua. Quốc gia đó có thể huỷ thông báo đó vào bất kỳ thời điểm nào.
Điều 36. Trao đổi thông tin về pháp luật và các loài và các giống cây được bảo hộ; Thông tin được công bố
(1) [Thông báo ban đầu] Tuỳ trường hợp, khi đệ trình văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc thông qua Công ước này, Quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ bất kỳ phải thông báo cho Tổng Thư ký về
(i) hệ thống pháp luật điều chỉnh quyền của nhà tạo giống của mình và
(ii) danh sách các loài và giống cây sẽ được áp dụng các quy định của Công ước này vào ngày bắt đầu bị ràng buộc bởi Công ước này.
(2) [Thông báo về các thay đổi] Mỗi Bên ký kết phải lập tức thông báo cho Tổng Thư ký
(i) các thay đổi bất kỳ trong hệ thống pháp luật của mình về điều chỉnh quyền của nhà tạo giống, và
(ii) sự mở rộng bất kỳ về áp dụng Công ước này cho các loài và giống cây bổ sung.
(3) [Công bố thông tin] Trên cơ sở các thông tin nhận được từ các nước thành viên tham gia Công ước này, Tổng Thư ký phải công bố thông tin về:
(i) hệ thống pháp luật điều chỉnh quyền của nhà tạo giống và các thay đổi bất kỳ trong hệ thống pháp luật đó,
(ii) danh sách các loài và giống cây được đề cập tại khoản (1) (ii) và sự  mở rộng bất kỳ được đề cập tại khoản (2)(ii).
Điều 37. Hiệu lực; Kết thúc việc gia nhập các Văn kiện sớm hơn
(1) [Hiệu lực ban đầu] Công ước này sẽ có hiệu lực sau khi 5 Quốc gia thành viên đệ trình văn kiện phê chuẩn, chấp nhận, tán thành hoặc gia nhập, với điều kiện ít nhất có 3 trong số các văn kiện đó do các Quốc gia tham gia Văn kiện năm 1961/1972 hoặc năm 1978 đệ trình.
(2) [Hiệu lực tiếp theo] Quốc gia bất kỳ không thuộc các Quốc gia nêu ở khoản (1) hoặc tổ chức liên chính phủ bất kỳ sẽ bắt đầu bị ràng buộc bởi Công ước này một tháng sau ngày đệ trình văn kiện phê chuẩn, chấp nhận, thông qua hoặc gia nhập, tuỳ trường hợp.
(3)[Kết thúc việc gia nhập Văn kiện năm 1978] Không một văn kiện gia nhập Văn kiện năm 1978 nào có thể được đệ trình sau khi Công ước này có hiệu lực theo khoản (1), trừ Quốc gia bất kỳ được coi là các nước đang phát triển, phù hợp với thực tiễn được xác lập bởi Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, có thể đệ trình văn kiện gia nhập trước ngày 31/12/1995, và Quốc gia bất kỳ khác có thể đệ trình văn kiện gia nhập trước ngày 31/12/1993. Các văn kiện gia nhập nói trên có thể được đệ trình ngay cả khi Công ước này đã bắt đầu có hiệu lực.
Điều 38. Sửa đổi Công ước
(1) [Hội nghị] Công ước này có thể được hội nghi các thành viên của Liên minh sửa đổi. Việc triệu tập một hội nghị như vậy phải được Hội đồng quyết định.
(2) [Số đại biểu tối thiểu và đa số phiếu] Hội nghị chỉ được tiến hành khi có ít nhất một nửa số thành viên của Liên minh tham dự. Việc thông qua bất kỳ một sửa đổi nào phải được hơn 3/4 số Quốc gia thành viên có mặt và biểu quyết tại hội nghị.
Điều 39 . Bãi ước
(1)[Thông báo] Bên ký kết bất kỳ có thể tuyên bố bãi ước Công ước này bằng việc thông báo cho Tổng Thư ký. Tổng Thư ký phải lập tức báo cho tất cả các thành viên của Liên minh về việc nhận được thông báo đó.
(2)[Các Văn kiện năm sớm hơn] Thông báo về việc bãi ước Công ước này cũng được coi là một thông báo bãi ước Văn kiện năm sớm hơn bất kỳ mà Bên ký kết bãi ước Công ước này đã bị ràng buộc.
(3)[Ngày có hiệu lực] Việc bãi ước sẽ có hiệu lực vào cuối năm tiếp theo năm Tổng Thư ký nhận được tuyên bố bãi ước.
(4)[Các quyền có được] Việc bãi ước không ảnh hưởng đến bất kỳ quyền nào có được đối với một giống cây theo Công ước này hoặc bất kỳ Văn kiện năm sớm hơn
nào cho đến ngày việc bãi ước có hiệu lực.
Điều 40. Bảo toàn các quyền hiện có
Công ước này không hạn chế các quyền của nhà tạo giống đang tồn tại theo luật của các Bên ký kết hoặc theo bất kỳ một Văn kiện năm sớm hơn nào hoặc bất kỳ thoả thuận khác Công ước này được các thành viên của Liên minh ký với nhau.
Điều 41. Bản gốc và chính thức của Công ước
(1)[Bản gốc] Công ước này được ký một bản duy nhất theo các thứ tiếng Anh, Pháp và Đức. Bản tiếng Pháp có ưu thế hơn trong trường hợp có sự không thống nhất giữa các bản khác nhau. Bản gốc phải được trao cho Tổng Thư ký.
(2)[Bản chính thức] Tổng Thư ký, sau khi thảo luận với các Chính phủ liên quan, phải lập các bản chính thức Công ước này bằng các thứ tiếng ảrập, Hà lan, ý, Nhật và Tây Ban Nha và bằng các ngôn ngữ khác do Hội đồng chỉ định.
Điều 42. Chức năng lưu chiểu
(1)[Chuyển phát các bản sao] Tổng Thư ký phải chuyển phát các bản sao được xác nhận của Công ước này cho tất cả các Quốc gia và tổ chức liên chính phủ có mặt tại Hội nghị cấp cao đã thông qua Công ước này và cho bất kỳ quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ nào theo yêu cầu của họ.
(2) [Đăng ký] Tổng Thư ký phải đăng ký Công ước này với Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.