Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012

Dậy sóng M&A truyền thông

Từ năm 2008 đến nay đã có ít nhất 5 cuộc “hôn nhân” giữa công ty truyền thông Việt Nam và tập đoàn truyền thông nước ngoài thông qua hình thức mua bán và sáp nhập (M&A) hoặc liên doanh. Đáng nói là 5 công ty Việt Nam trong các vụ này đều nổi tiếng ở lĩnh vực truyền thông, quảng cáo, còn phía “chú rể” là WPP (trụ sở tại Ireland) và Omnicom Group (trụ sở tại Mỹ) là tên tuổi hàng đầu thế giới về truyền thông. Giới truyền thông dự báo, danh sách những cuộc “hôn nhân“ đình đám tương tự sẽ còn tiếp tục.
“Lợi chàng lợi thiếp”
Một năm sau thương vụ hợp tác với Công ty Quảng cáo Chăm sóc Thương hiệu (BCI Brandcare) lập nên Công ty TBWA Việt Nam (2008), TBWA Group (thuộc Omnicom Group) tiếp tục liên doanh với Công ty Giải pháp Doanh nghiệp (Biz Solutions) tạo thành Biz Tequila. Cùng lúc này, người anh em của TBWA là Omnicom Media Group lập một liên doanh khác với Công ty Quảng cáo và Truyền thông (XPR Campaigns), dưới tên gọi Campaigns Solutions.
Sự bành trướng của Omnicom Group tại Việt Nam diễn ra đồng thời với WPP. Đầu tiên là vào giữa năm 2008, GroupM thuộc WPP đã mua 30% cổ phần của Tập đoàn Đất Việt VAC. Đầu năm 2009, WPP trở thành cổ đông của Smart Media, một công ty truyền thông, quảng cáo được sáng lập bởi các doanh nghiệp nhà nước lớn như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Công ty Thông tin Di động Việt Nam, Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam và công ty quảng cáo Goldsun.
Bằng cách M&A hoặc liên doanh, các tập đoàn truyền thông quốc tế đã chọn con đường ngắn nhất để thâm nhập thị trường Việt Nam. Điều này giúp họ tiết kiệm được thời gian và chi phí. Đối với 2 đại gia truyền thông thế giới, WPP và Omnicom Group, M&A là bước đi chiến lược đã được họ sử dụng từ lâu nhằm gia tăng sức ảnh hưởng tại các thị trường châu Á như Trung Quốc, Thái Lan... Năm ngoái, các công ty được mua bán, sáp nhập hoặc có liên doanh đã mang về cho WPP 1,306 tỉ USD và Omnicom Group 126 triệu USD (theo Advertising Age, tạp chí chuyên ngành quảng cáo của Mỹ).
Trong những thương vụ này, các công ty trong nước cũng có lợi. Chị Phan Bích Hà, Giám đốc Điều hành Biz Tequila, chia sẻ: “Trước đây, chúng tôi chuyên thực hiện marketing qua các kênh truyền thống như truyền hình, báo, đài... Từ khi hợp tác với TBWA, Công ty có thể cung cấp giải pháp toàn diện từ các kênh truyền thống đến hiện đại như PR, tài trợ, tổ chức sự kiện, khuyến mãi... Đặc biệt, khi hợp tác, Công ty còn nhận được sự hỗ trợ về nhân sự, kinh nghiệm, công nghệ thông tin... từ hệ thống của các tập đoàn truyền thông quốc tế dày dạn kinh nghiệm”.
Chị cho biết thêm: “Sự phát triển của một công ty như biểu đồ hình Sin. Nếu muốn khách hàng ở lại với mình, cần liên tục mang đến cho họ những cái mới”.
Và những lo ngại
Theo dự báo của GroupM thuộc WPP, thị trường quảng cáo Việt Nam năm 2009 sẽ tăng trưởng 16,6% so với năm 2008 và đạt doanh thu 681 triệu USD.
Theo công ty kiểm toán và tư vấn PricewaterhouseCoopers, giá trị của thị trường giải trí lẫn truyền thông Việt Nam đều tăng xấp xỉ 3 lần trong 5 năm từ 2004 -2009 và được kỳ vọng đạt 2,3 tỉ USD trong năm 2013. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của 2 ngành này tại Việt Nam được dự đoán sẽ cao nhất thế giới với 16,7%/năm.
Và trong cuộc chơi “hợp tác cùng phát triển” mà phía doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm, một số ý kiến quan ngại rằng, có thể các doanh nghiệp Việt sẽ bị “nuốt chửng” bởi các tập đoàn truyền thông quốc tế trên con đường bành trướng của họ.
Dĩ nhiên là Chính phủ sẽ không để các tập đoàn quốc tế có thể giành thế độc quyền trên thị trường, ít nhất là trong vài chục năm nữa, ông Nguyễn Thanh Sơn, Tổng Giám đốc T&A Ogilvy, nhận định. Tuy nhiên, ông cũng quan ngại “chiến lược mua lại rồi thôn tính luôn công ty gây tác động lên thị trường là hoàn toàn có thể xảy ra”. Nếu diễn biến theo hướng này, tức các tập đoàn truyền thông quốc tế mua lại nhiều công ty thì các công ty thực thi luật pháp Việt Nam cũng khó mà can thiệp. Vì đây không phải những vụ “mua đứt bán đoạn”, có thể dễ dàng xác định thị phần của họ.
Việc WPP vươn cánh tay tới 2 công ty truyền thông lớn của Việt Nam là Smart Media và Đất Việt còn cho thấy họ chưa dừng tham vọng bành trướng. Đối với những công ty trong nước giữ phần vốn góp ít hơn, nguy cơ bị thôn tính càng dễ hơn. Ông Đào Văn Kính, Phó Chủ tịch Đất Việt VAC, cho biết: “Các công ty Việt Nam không nên để các tập đoàn chiếm đa số cổ phần. Trong hôn nhân, dù yêu thương lắm thì cũng có thể ly dị. Hơn nữa, kinh doanh mà không hiểu điểm mạnh, điểm yếu của nhau, không cùng phát triển cân bằng, đến một lúc nào đó khi xảy ra xích mích, bên này rất dễ bị bên kia thôn tính”.
Trong khi đó, chị Hana Đặng, Giám đốc Điều hành Golden Communication Group, cho hay: “Nếu không bán mà tự điều hành công ty cũng được nhưng sẽ khó, nhất là trong mảng PR truyền thống, ngày càng nhiều công ty nước ngoài tham gia”.
Một nguồn tin cho biết Golden sẽ “hợp tác” với một công ty truyền thông nước ngoài vào đầu năm sau. Còn anh Nguyễn Trung Thẳng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Masso Group, tiết lộ, Công ty đã tiếp xúc với vài đối tác đặt vấn đề hợp tác chiến lược.
Liệu các công ty Việt Nam có đủ khôn ngoan trong cuộc chơi này? “Giá trị hợp đồng bao nhiêu không quan trọng, quan trọng là mục tiêu chiến lược 2 bên có gặp nhau không. Hai năm sau “hôn nhân”, mọi sự sẽ rõ”, ông Kính, Đất Việt VAC, nhận định.

THUẬT NGỮ CHỨNG KHOÁN

Bản cáo bạch - Prospectus:

Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phát hành phải công bố cho người mua chứng khoán những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và những quyền lợi của người mua chứng khoán... để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không. Tài liệu phục vụ cho mục đích đó gọi là Bản cáo bạch hay Bản công bố thông tin.
Bản cáo bạch chính là một lời mời hay chào bán để công chúng đầu tư đăng ký hoặc mua chứng khoán của công ty phát hành. Bản cáo bạch bao gồm mọi thông tin liên quan đến đợt phát hành, do đó thông tin đưa ra coi như là một điều kiện thực hiện lời chào bán đó. Thông thường một công ty muốn phát hành chứng khoán phải lập Bản cáo bạch để Ủy ban chứng khoán Nhà nước xem xét, gọi là Bản cáo bạch sơ bộ. Khi đã được chấp thuận bản sơ bộ sẽ được coi là Bản chính thức.
Đối với nhà đầu tư, bản cáo bạch là một tài liệu rất quan trọng, là phương tiện giúp họ đánh giá mức độ sinh lời và triển vọng của công ty trước khi ra quyết định có đầu tư hay không, vì một quyết định thiếu thông tin có thể khiến các nhà đầu tư phải trả giá đắt.
Bản cáo bạch thường có các nội dung chính như: tóm tắt bản cáo bạch, các nhân tố rủi ro, các khái niệm, các chứng khoán phát hành, các đối tác liên quan đến đợt phát hành, tình hình và đặc điểm của tổ chức phát hành và phụ lục. Trong đó thông tin quan trọng nhất của bản cáo bạch là thông tin tài chính: trong quá khứ và trong tương lai.
Thông tin tài chính trong quá khứ là các bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán đồng thời có phần thuyết minh và phân tích hoạt động thường là trong 2 năm trước. Dựa vào thông tin này, thông tin tài chính trong tương lai là những kế hoạch dự tính về doanh thu, lợi nhuận, cổ tức...trong năm tới. Qua đó người đầu tư sẽ hình dung được mức lợi nhuận mình có.  


Bán cổ phần khơi mào - Equity carve out
Hoạt động bán cổ phần khơi mào, còn gọi là chia tách một phần, xảy ra khi công ty mẹ tiến hành bán ra công chúng lần đầu một lượng nhỏ (dưới 20%) cổ phần của công ty con mà nó nắm hoàn toàn quyền sở hữu.
Thương vụ này không chỉ cho phép công ty mẹ huy động được lượng vốn cần thiết mà còn giúp họ giữ lại quyền kiểm soát với công ty con. Thông thường, sau khi bán bớt một phần nhỏ cổ phần của công ty con ra công chúng, công ty mẹ sẽ bán nốt số còn lại vào một thời điểm sau đó.
Việc bán khơi mào một lượng cổ phần nhỏ có thể coi là bước khởi đầu cho quá trình chia tách công ty. Các tập đoàn đa ngành khi phát triển đến một mức độ nhất định, hoặc trong những điều kiện kinh tế không thuận lợi có xu hướng sắp xếp lại (streamline) hoạt động của họ cho hợp lý hơn. Một trong các lựa chọn là bán bớt những công ty con phát triển không tốt lắm hoặc ít liên quan đến lĩnh vực kinh doanh cốt lõi của công ty, thông qua việc phát hành cổ phiếu công ty ra thị trường chứng khoán.
Thông thường, các công ty thường không bán hết ngay 100% số cổ phần của công ty con này ngay sau khi phát hành mà chỉ bán khơi mào một số lượng nhỏ vì một số lý do sau: trước khi phát hành cổ phiếu ra thị trường, các công ty con này thường thuộc quyền sở hữu 100% của công ty mẹ, và ít được thị trường biết đến.
Việc bán khơi mào một lượng nhỏ cổ phần ra thị trường chứng khoán giúp công ty con này được các nhà đầu tư quan tâm hơn và nó có thể giúp giá cổ phiếu tăng dần lên sau một thời gian. Như cách một nhà phân tích nói là nó giúp " khai phá giá trị tiềm ẩn của những công ty con", hay đó thực chất là quá trình công ty mẹ tiếp thị cho cổ phiếu trước khi bán nó.
Tuy nhiên, không phải mọi cổ phiếu sau khi bán khơi mào đều được bán hết sau đó. Nếu công ty mẹ công bố rõ ràng ý định bán hoàn toàn cổ phần của công ty con trong tương lai thì giá cổ phiếu mới tăng, trường hợp ngược lại cổ phiếu của công ty con này thường không hấp dẫn nhà đầu tư bằng.

Bán khống - Short Sales
Trong tài chính, Short sales hay Short selling hoặc Shorting là một nghiệp vụ trên thị trường tài chính được thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận thông qua giá chứng khoán giảm.

Trên thực tế hầu hết các nhà đầu tư đều nhằm vào việc mua chứng khoán để chờ giá tăng lên trong tương lai, nhưng những người kinh doanh nhờ vào giá chứng khoán giảm (short-seller) lại kiếm lợi nhuận nhờ vào việc giá cổ phiếu trong tương lai giảm xuống.

Ví dụ: Giả sử công ty XYZ bán cổ phiếu với giá 100.000VNĐ/cổ phiếu. Một người kinh doanh bằng hình thức này sẽ đi vay 100 cổ phiếu của công ty XYZ và bán đi ngay lập tức để thu về 10.000.000VNĐ. Nếu giá cổ phiếu của công ty XYZ giảm xuống chỉ còn 80.000VNĐ/cổ phiếu thì anh ta chỉ phải bỏ ra 8.000.000VNĐ để mua lại 100 cổ phiếu và trả cho công ty XYZ như ban đầu. Như vậy anh ta lãi 2.000.000VNĐ.

Mặc dù anh ta sẽ phải trả ra một khoản nào đó có thể là lãi do đã vay 100 cổ phiếu của công ty XYZ nhưng anh ta sẽ vẫn có lãi, mặc dù anh ta thậm chí không có cả tiền đầu tư ban đầu.

Cách làm này nghe có vẻ đơn giản nhưng cũng vẫn có rủi ro. Khi giá tăng lên, ví dụ 125.000VNĐ/cổ phiếu thì anh ta phải bỏ ra 12.500.000VNĐ để mua lại được 100 cổ phiếu ban đầu để trả lại cho công ty XYZ như vậy anh ta sẽ lỗ 2.500.000VNĐ.

Nghiệp vụ kiếm lợi thông qua giá cổ phiếu giảm đã được bắt nguồn ít nhất từ thế kỉ thứ 18 ở Anh. Những người thực hiện mua bán cổ phiếu kiếm lãi thông qua giá cổ phiếu xuống thấp thường bị nghi ngờ là làm giàu thông qua việc nghèo đi của người khác (vì số những người này rất ít, nhưng nếu giá cổ phiếu giảm xuống thì rất nhiều người đầu tư vào chứng khoán sẽ bị thua lỗ, thậm chí phá sản). Tuy nhiên các nghiên cứu đều kết luận rằng Short-selling đã có đóng góp quan trọng trong việc tạo nên tính hiệu quả của thị trường tài chính.

Nghiệp vụ mua bán khống tại thị trường chứng khoán Việt Nam được một số công ty chứng khoán cung cấp, tuy nhiên vẫn chưa được phổ biến.

Bạn cũng nên đề phòng nhân viên công ty chứng khoán "mượn" cổ phiếu của bạn để bán khống. Nhiều nhà đầu tư đã bị thiệt hại do bị "mượn" mà không xin phép như vậy. Mặc dù đây là một hành vi bất hợp pháp, nhưng rất khó truy cứu trách nhiệm. Vì vậy cách tốt nhất là bạn nên thường xuyên kiểm tra tài khoản của mình.

Bán tháo - Bailing out
Bailing out- bán tháo- chỉ việc bán nhanh bán gấp một chứng khoán hay một loại hàng hóa nào đó bất chấp giá cả, có thể bán với mức giá thấp hơn rất nhiều so với khi mua vào, như một biện pháp cứu vãn thua lỗ hơn nữa khi chứng khoán hay mặt hàng này đang theo chiều rớt giá trên thị trường. Với thị trường chứng khoán, mọi thông tin đều là tài nguyên quí giá, thì chỉ cần một tín hiệu "không lành" đã có thể gây lên hiện tượng bán tháo.

Ta có thể xem một ví dụ, bắt đầu từ thông tin đăng tải trên một số phương tiện thông tin đại chúng: Tổng Công ty Bảo Minh có khả năng bị phong toả tài khoản do chậm chi trả bảo hiểm đối với Công ty Hoàng Long trong vụ cháy nhà máy sản xuất mì ăn liền nhãn hiệu "Rồng Vàng". Mà trên thực tế việc chi trả tiền bảo hiểm cho Công ty Hoàng Long vẫn chưa được thực hiện là do yêu cầu của nhiều cơ quan chức năng liên quan chứ không phải Bảo Minh cố tình không thực hiện. Chịu ảnh hưởng của những thông tin bất lợi, cổ phiếu Bảo Minh trên sàn Hà Nội nhiều phiên liên tiếp bị bán tháo giá sàn với khối lượng lớn.

Ngoài ra thuật ngữ "Bailing out" còn mang nghĩa "cứu trợ", trợ giúp khẩn cấp cho các định chế tài chính gặp khó khăn, đặc biệt sự trợ giúp của các cơ quan quyền lực đối với các ngân hàng thương mại. Khi một Ngân hàng thương mại đứng trên bờ vực phá sản do có hiện tượng cùng một lúc khách hàng đến đòi rút tiền, Ngân hàng Trung Ương sẽ có hai cách để "bail out": một là dùng uy tín của mình để trấn an khách hàng và xin hoãn lại việc rút tiền; hai là cho ngân hàng thương mại vay tiền để giải quyết một số khoản nợ lớn, và từ đó gây lại lòng tin đối với khách hàng. Hiện nay các tổ chức quốc tế như IMF hay WB cũng cho các ngân hàng các nước thành viên vay như một hình thức "bailing out".    

Báo cáo tài chính - Financial statement
Báo cáo tài chính là các bản ghi chính thức về tình hình các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp.

Các báo cáo tài chính cung cấp một cái nhìn tổng thể về điều kiện tài chính của doanh nghiệp trong cả ngắn hạn và dài hạn. Có 4 loại báo cáo tài chính cơ bản.
  1. Bảng cân đối kế toán: Báo cáo về tài sản và nợ của công ty trong một thời điểm xác định.
  2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: còn gọi là Báo cáo lợi nhuận và lỗ, phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì.
  3. Báo cáo lợi nhuận giữ lại: Giải thích các thay đổi trong lợi nhuận giữ lại trong một thời kì.
  4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo về các hoạt động dòng tiền của một công ty, đặc biệt là các hoạt dộng đầu tư, cấp vốn...
Đối với các công ty lớn, những báo cáo này thường phức tạp và có thể gồm cả Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements) và các thảo luận và phân tích của đội ngũ quản lí. Thuyết minh thường mô tả các khoản mục thên Bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và báo cáo lưu chuyển tiền tệ một cách chi tiết hơn. Thuyết minh báo cáo tài chính được coi là một phần không thể thiếu của các báo cáo tài chính.

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

NĂM TRỤ CỘT ĐỂ HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI

Tư duy duy lý, văn hóa dân chủ, kinh tế thị trường, xã hội dân sự và quan trọng hơn hết, Nhà nước pháp quyền là năm trụ cột được đặt ra như là định hướng cho tương lai. Năm trụ cột này là tiền đế cho một xã hội sáng tạo, làm nên một đẳng cấp của một dân tộc…
Mục tiêu trong tương lai của Việt Nam, như vẫn được xác định là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phản ánh một lý tưởng tương đối phổ quát, liên quan đến những giá trị căn bản lâu dài của xã hội và con người nói chung. Những mục tiêu này có thể áp dụng cho nhiều nước khác nhau, với chính thể, tôn giáo và trình độ phát triển khác nhau. Với một nước Việt Nam đạt được những mục tiêu phát triển như thế, hẳn chúng ta sẽ có được tầm quan trọng như chúng ta đáng phải có trên trường quốc tế. Thế nhưng, câu hỏi rất quan trọng và cũng rất thực tế, đó là, để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta cần đạt được qua những điều kiện trung gian nào?
Để trả lời câu hỏi này, người ta buộc phải suy nghĩ nhiều hơn về những điều kiện cụ thể của Việt Nam, về yếu tố lịch sử, thể chế hiện thời, mô hình kinh tế và cấu trúc xã hội. Đồng thời, chi tiết hơn nữa là những chính sách phát triển tương ứng trong từng lĩnh vực, từ giáo dục đến kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.
Trong bối cảnh thực tế của Việt Nam hiện nay, tôi cho rằng chúng ta cần vun đắp được năm trụ cột để có một tương lai phát triển bền vững hướng đến mục tiêu đã đề ra.
Thứ nhất, cần xây dựng được con người Việt Nam có tư duy duy lý. Mặc dù con người về căn bản là tư duy theo logic, nhưng không phải dân tộc nào cũng đạt được trình độ tư duy duy lý. Trong lịch sử lâu dài của các dân tộc, có lẽ phương Tây chỉ tách ra như một nhóm nhỏ có tư duy duy lý từ thời đại Khai sáng. Nhiều người cho rằng thành tựu vĩ đại của sự duy lý phương Tây là khoa học máy móc hiện đại, là nhận thức về thế giới bằng khoa học rõ ràng khách quan. Nhưng tôi cho rằng thành tựu quan trọng hơn nhiều là thiết kế và tạo dựng được một xã hội, trong đó có những thiết chế cho phép khống chế được mối quan hệ duy cảm giữa người với người. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho một xã hội to lớn và phức tạp hoạt động trôi chảy. Người Việt Nam vẫn nổi tiếng là một dân tộc duy cảm, trọng tình hơn lý. Điều này hẳn đã giúp người Việt có sức mạnh quật cường khi bị đẩy đến chân tường. Nhưng trong một thế giới ngày càng đa dạng, quan hệ kinh tế – chính trị ngày càng phức tạp, với quy mô dân số to lớn, cần nhiều hơn lối tư duy duy lý để trật tự xã hội được duy trì và quyền lợi của dân tộc được bảo đảm. Một ví dụ là tinh thần tôn trọng giao kèo, thực hiện hợp đồng hay tuân thủ các quy định chung. Để con người Việt Nam duy lý hơn, chúng ta cần nền giáo dục thực tế và hiện đại hơn, cũng như việc điều chỉnh hệ thống chính sách về giáo dục, văn hoá, xã hội, hay tín ngưỡng của chúng ta ngày hôm nay.

Trụ cột thứ hai là nền văn hoá dân chủ. Nền dân chủ là niềm hãnh diện của các dân tộc văn minh, không phải vì nó được thể hiện như một tiêu chuẩn về mặt chính trị, mà vì nó cho phép thông tin được truyền tải và xử lý với quy mô lớn, nhờ thế khai thông nhận thức của các cá nhân, cộng đồng và giúp xã hội ra những quyết định đúng đắn hơn, bớt bất công và giảm tổn thương đến những nhóm thiểu số. Tuy nhiên, trước khi tiến tới thể chế dân chủ lành mạnh, một dân tộc cần thực sự được thấm nhuần trong một nền văn hoá dân chủ. Văn hoá dân chủ có thể tồn tại trước khi có một thể chế dân chủ, nếu một dân tộc có ý thức xây dựng nó. Mối quan hệ dân chủ cho phép hình thành con người độc lập về quan điểm, tư tưởng, nhân cách, và lối sống, đồng thời chia sẻ, tôn trọng sự độc lập tương ứng như thế của người khác. Lối sống có văn hoá dân chủ cần được xây dựng và bồi đắp từ trong quan hệ gia đình cho tới công sở, từ quan hệ giữa những cá nhân riêng lẻ cho tới những nhóm lợi ích… Về bản chất, cốt lõi của văn hoá dân chủ là khả năng dung thứ và đón nhận. Trong mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá dân chủ và thể chế dân chủ, tôi tin rằng văn hoá dân chủ có vai trò làm nền tảng, vì một nền văn hoá dân chủ phát triển có thể dễ dàng sinh ra một nền chính trị dân chủ chân chính, trong khi đa phần những nền chính trị dân chủ được dựng lên từ một xã hội còn xa lạ với văn hoá dân chủ, đều có khuynh hướng biến thái thành những thể chế phi dân chủ một cách tinh vi.
Trụ cột thứ ba, giờ đây đã không còn xa lạ với Việt Nam, là nền kinh tế thị trường. Bản thân thị trường là một cơ chế tổ chức sản xuất cao cấp và ưu việt nhất mà con người từng biết tới, nên tự nó có khả năng đánh bại các hình thức tổ chức xã hội khác muốn đương đầu với nó. Tuy nhiên, để đẩy nhanh quá trình khẳng định sự toàn thắng của thị trường, cần nhiều nỗ lực che chắn cho thị trường khỏi bị tổn thương vì những hành động chính sách hay hệ tư tưởng cũ. Một ví dụ ở nước ta là dù đã thừa hưởng những thành tựu vượt bậc do kinh tế thị trường mang lại, trong nhiều bộ phận xã hội, các hình thái khác nhau của tư tưởng tập thể chủ nghĩa vẫn còn đào sâu bám rễ. Từ nỗ lực duy trì độc quyền của những tập đoàn nhà nước trong nhiều lĩnh vực dân sinh, đến thói quen đổ lỗi dễ dãi cho nhiều hiện tượng xã hội như thể là hậu quả của việc “chạy theo thị trường”, cho tới các chính sách can thiệp kinh tế như trần lãi suất hay phổ cập mô hình “hàng bình ổn giá”. Thị trường không chỉ là một cỗ máy hữu hiệu để sản sinh ra của cải cho đất nước, mà nó còn là giảng đường vĩ đại truyền bá đức hạnh của sự cạnh tranh, thứ đức hạnh chỉ giúp dân tộc thêm mạnh mẽ. Trong sự nghiệp phấn đấu lâu dài xây dựng một thị trường thống nhất và phát triển, chúng ta cần hướng thẳng vào mục tiêu vun đắp cho khu vực kinh tế tư nhân mạnh mẽ và tự do, lấy đó làm nền tảng cho động lực phát triển và hội nhập kinh tế. Đây là một quá trình lâu dài, đòi hỏi nỗ lực cải cách kiên nhẫn trên nền tảng lịch sử để lại với khu vực kinh tế nhà nước to lớn còn đang hiện hữu, và tư duy cũ gắn liền với nó rằng kinh tế nhà nước phải có vai trò chủ đạo.
Trụ cột thứ tư cho xã hội Việt Nam văn minh, là sự phát triển của khu vực xã hội công dân. Đây là nơi mà các tổ chức, hiệp hội có tiếng nói độc lập với khu vực nhà nước và thị trường, phát huy ảnh hưởng nhờ bộc lộ những tri thức, nhu cầu bản địa hay ngầm ẩn trong lòng xã hội. Khu vực này đại diện cho những khía cạnh hay cấp độ quyền lợi mà thị trường và nhà nước không giải quyết trực tiếp được, hoặc nếu có thì hiệu quả không cao. Đặc biệt, việc phát triển một mạng lưới các tổ chức cộng đồng quy mô nhỏ, hiệp hội của những tổ chức – cá nhân có cùng lợi ích, hành động không vì lợi nhuận nhằm bảo vệ những quyền lợi thiết thực của các thành viên trên những khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống theo cách nhân văn hơn. Ở Việt Nam, truyền thống xã hội công dân còn sơ khai và mong manh, nếu so với khu vực nhà nước và thị trường. Việc xây dựng khu vực này thực sự cần tầm nhìn chia sẻ, sự thấu hiểu của giới lãnh đạo và người làm chính sách. Khác với thị trường, khu vực xã hội công dân thực sự cần có cơ chế phù hợp để trưởng thành, đặc biệt một cơ chế khai thông nguồn tài trợ từ dân chúng và doanh nghiệp. Gần gũi với các tổ chức dân sự là các tổ chức nghiên cứu khoa học và giáo dục tư nhân. Bên cạnh đó, để tiếng nói, nguyện vọng và tri thức của khu vực này lan toả, cần sự gắn bó của giới truyền thông và báo chí.
Trụ cột cuối cùng, và quan trọng bậc nhất, là một nhà nước pháp quyền. Có lẽ đây là một trong những mục tiêu đã được đặt ra từ rất sớm và liên tục được duy trì. Đã có nhiều thành tựu trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Thế nhưng, một nhà nước pháp quyền thực sự không phải chỉ là một nhà nước xây dựng được những luật pháp tốt, mà bản thân nó phải đặt được toàn bộ xã hội, trong đó gồm chính bản thân những cơ quan nhà nước cao nhất, nằm dưới pháp luật. Thường thì điều này không giải quyết được trong thực tế và ngay cả trong lý thuyết, nếu bản thân nhà nước không bao gồm những thành phần vừa độc lập vừa có quyền lực giám sát, chi phối lẫn nhau. Phải thừa nhận rằng người Việt Nam và người Á Đông không có một nhãn quan truyền thống rõ ràng về một xã hội được sắp xếp như vậy. Ví dụ như truyền thống Lễ trị của Khổng giáo ngay từ đầu đã hàm ý có một nhóm những người quản lý xã hội ở tầng cao nhất không cần bị điều chỉnh bởi pháp luật, mà tự họ làm gương cho xã hội noi theo. Nếu có điều chỉnh, chỉ cần điều chỉnh thông qua những quy tắc đạo đức hay sự phê bình để sửa sai (điều chỉnh bằng lễ). Chỉ có thứ dân mới cần tuân thủ luật lệ do những tầng lớp tinh hoa đó đề ra. Hiện tượng này sau hơn 2.000 năm đã có nhiều thay đổi, nhưng nhìn sâu vào bản chất cấu trúc xã hội của Trung Quốc và Việt Nam, chúng ta vẫn thấy dấu vết của quan niệm này, đặc biệt trong mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân, với tầng lớp lãnh đạo trong Đảng và phần còn lại của xã hội. Để kiến tạo một nhà nước pháp quyền, do đó, cần một sự sáng suốt và can đảm, để vun đắp một truyền thống pháp trị toàn diện trên cơ sở thiết kế một cấu trúc xã hội thực thụ phù hợp.
Theo tôi, năm trụ cột nêu trên, nếu được phát triển vững chắc và cân đối, sẽ làm chỗ dựa cho một nền tảng mà trên đó dân tộc Việt Nam phát triển trong trạng thái hài hoà với thế giới và khu vực, phát huy nguồn sức mạnh nội tại một cách đều đặn và thăng bằng, tinh thần dân tộc và nhân cách con người Việt Nam được cởi mở. Nói một cách khác, đó là năm trụ cột giúp Việt Nam hướng tới tương lai.

Nguồn: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ ĐIỆN TỬ

CUỘC CHIẾN THƯƠNG QUYỀN BÓNG ĐÁ: CÁCH ỨNG XỬ NÀO HAY HƠN?

Cuộc chiến về thương quyền bóng đá giữa VFF, VPF và VAG dù căng thẳng và đầy kịch tính nhưng rồi sớm muộn cũng sẽ có kết cục. Điều đọng lại rất đáng để suy gẫm trong vụ việc này có lẽ là ở cách hành xử của các bên.
Thói quen hành chính hóa
Bất đồng giữa các thế lực trong làng bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam về bản hợp đồng chuyển giao quyền khai thác các giải bóng đá kéo dài 20 năm giữa VFF và AVG thực chất đã âm ỉ từ hơn một năm nay, kể từ khi các bên đặt bút ký kết vào hồi tháng 12-2010.
Tuy nhiên, cuộc chiến chỉ thực sự nổ ra khi VPF bất ngờ bằng một công văn “bật đèn xanh” cho phép hệ thống đài truyền hình VTV được phát lại các trận bóng đá thuộc các giải đấu chuyên nghiệp Việt Nam.
Đáng nói là sau đó đài truyền hình VTC cũng nhập cuộc phát lại trận bóng đá thuộc một trong các giải đấu nêu trên với lý do đã được VPF “cấp phép”. Thậm chí, trả lời báo chí về việc này, ông Vũ Quang Huy, Phó giám đốc VTC khẳng định  rằng “VTC truyền hình trực tiếp có sự chấp thuận của đơn vị tổ chức giải là VPF và chúng tôi đã làm đúng theo chỉ dẫn phối hợp với VTV chọn trận phát sóng. Nếu AVG muốn kiện thì cứ kiện VPF” (Pháp Luật TPHCM, 9-1-2012).
Trong quá trình tranh chấp, VPF đã gửi công văn đến ba bộ Tư pháp, Thông tin Truyền thông và Văn hoá Thể thao Du Lịch nhờ giải quyết. Tương tự, AVG cũng gửi đơn cầu cứu lên Bộ Văn hoá Thể thao Du Lịch. Và mới đây, Bộ Văn hoá Thể thao Du Lịch đã phải lập một đoàn thanh tra để xem xét bản hợp đồng nói trên.
Của Caesar hãy trả cho Caesar!
Trước hết nói về hành động “bật đèn xanh” đơn phương của VPF cũng như hành vi hưởng ứng nhanh nhảu của VTC. Theo một số ý kiến thì những cách ứng xử này chưa phải thật khôn ngoan, thậm chí có thể gây nên những rủi ro không đáng có.

Thực tế, hợp đồng giữa VFF và AVG vẫn đang có hiệu lực, do đó hành vi của VPF có thể sẽ xâm hại đến lợi ích hợp pháp của AVG. Vì vậy, giả sử AVG khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường (ngoài hợp đồng), khả năng VPF, VTC phải gánh chịu trách nhiệm sẽ rất cao. Với một doanh nghiệp mà cổ đông là những người có thế lực, tiền bồi thường có thể không thành vấn đề nhưng còn tên tuổi, danh dự, thương hiệu?
Tiếp theo là việc các bên gửi đơn cầu cứu lên các bộ và Bộ Văn hoá Thể thao Du Lịch đã “chiều lòng” lập một đoàn thanh tra để giải quyết. Trong trường hợp khiếu nại, tố cáo liên quan đến những vấn đề thuộc quản lý nhà nước, theo thẩm quyền, bộ thanh tra là đúng.
Tuy nhiên, nếu thanh tra nhằm mục đích “phân xử” một hợp đồng thuộc địa hạt dân sự thì có lẽ không ổn bởi Bộ Văn hoá Thể thao Du Lịch đâu phải là một cơ quan tài phán. Hơn nữa, giả sử có hành vi vi phạm pháp luật hậu quả cuối cùng cũng chỉ là một quyết định xử phạt hành chính và như vậy hoạt động thanh tra sẽ không thể giải quyết hết các vấn đề tranh chấp. Ví dụ như vấn đề bồi thường, thanh lý, hủy bỏ, chấm dứt hợp đồng v.v… Đây cũng là một rủi ro hoàn toàn có thể xảy ra khi các bên sẽ phải mất công tốn sức kéo dài cuộc tranh chấp cho đến khi giải quyết được trọn vẹn các vấn đề phát sinh.
Cuộc chiến giữa các bên về bản chất là một vụ tranh chấp dân sự thuần túy. Và vì vậy áp dụng các trình tự giải quyết một vụ việc tranh chấp dân sự chắc hẳn vẫn là con đường ngay ngắn, phù hợp tập quán thương mại hơn cả. Đúng như người ta thường nói “của Caesar hãy trả cho Caesar”!
Điều đó có nghĩa, nếu thực sự hợp đồng giữa VFF và AVG trái pháp luật, với tư cách là người được VFF chuyển giao quyền và nghĩa vụ, VPF hoàn toàn có quyền đề nghị các bên liên quan thương lượng để sửa đổi, bổ sung hoặc thậm chí chấm dứt hợp đồng. Trường hợp thương lượng không thành, VPF có thể khởi kiện AVG ra toà để yêu cầu xem xét, hủy bỏ hợp đồng.
Tương tự, nếu xét thấy hành vi của VPF gây thiệt hại, AVG cũng có quyền đưa vụ việc ra toà để giải quyết. Việc xét xử công khai sẽ giúp cho các bên thoải mái tranh luận và bản án có hiệu lực pháp luật sẽ có giá trị thi hành.
Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Do vậy, có lẽ chúng ta cũng nên hội nhập cả cách hành xử khi có xảy ra tranh chấp. Tức là hãy để cho các quan tài phán giải quyết một cách chuyên nghiệp, minh bạch thay vì hành chính hóa vụ việc như thói quen lâu nay của chúng ta.

Nguồn: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP NHẤT CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

Thời gian vừa qua, cùng với quá trình xây dựng đề án tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Ngân hàng Nhà nước đang hoàn chỉnh Đề án tái cơ cấu lại  hệ thống các tổ chức tín dụng. Ngày 06 tháng 12 năm 2011, Ngân hàng Nhà nước chính thức công bố vụ hợp nhất tự nguyện đầu tiên giữa ba ngân hàng thương mại cổ phần (Sài Gòn, Việt Nam Tín nghĩa và Đệ Nhất) thành một ngân hàng thương mại cổ phần mới (NHTMCP).
Sự kiện hợp nhất 03 NHTMCP này là một trong những hành động cụ thể thực hiện đề án tái cơ cấu hệ thống các TCTD và chủ trương giảm nhanh số lượng các ngân hàng yếu kém, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Việc hợp nhất các NHTMCP là quá trình phức tạp, liên quan đến lợi ích của nhiều bên và phát sinh nhiều vấn đề pháp lý cần xử lý. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập một số vấn đề pháp lý cần quan tâm, xử lý trong quá trình thực hiện hợp nhất các NHTMCP. 
1. Bản chất pháp lý của việc hợp nhất các NHTMCP
Theo quy định tại Thông tư 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 của Ngân hàng Nhà nước (Thông tư 04), “hợp nhất tổ chức tín dụng” được hiểu là hình thức hai hoặc nhiều tổ chức tín dụng hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị hợp nhất. Như vậy, về bản chất pháp lý, hợp nhất các NHTMCP là việc hai hoặc nhiều NHTMCP hợp nhất với nhau thành một NHTMCP mới. Hệ quả pháp lý của hoạt động hợp nhất các NHTMCP là việc chấm dứt pháp nhân đối với các NHTMCP bị hợp nhất, đồng thời khai sinh một pháp nhân NHTMCP mới. Về mặt pháp lý, NHTMCP mới sẽ kế thừa toàn bộ quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các NHTMCP bị hợp nhất, cụ thể bao gồm: (i) Quyền chủ nợ của các NHTMCP bị hợp nhất đối với các khoản cấp tín dụng, khoản đầu tư vào trái phiếu, chứng khoán nợ khác được chuyển sang cho NHTMCP mới; (ii) Quyền cổ đông, thành viên góp vốn, chủ sở hữu của các NHTMCP bị hợp nhất đối với các khoản góp vốn, mua cổ phần được chuyển sang NHTMCP mới; (iii) Quyền sở hữu đối với các tài sản của NHTMCP bị hợp nhất (như trụ sở, bất động sản, tài sản khác…) được chuyển sang NHTMCP mới; (iv) Các nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi dưới mọi hình thức… của các NHTMCP bị hợp nhất cũng được chuyển sang NHTMCP mới. Hay nói cách khác, quyền của người gửi tiền tại các NHTMCP bị hợp nhất được bảo đảm. Việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng, đặc biệt là người gửi tiền đã  được pháp luật quy
định thuộc trách nhiệm của các NHTMCP liên quan; (v) Các quyền và nghĩa vụ khác theo hợp đồng/thỏa thuận của các NHTM bị hợp nhất được chuyển giao sang NHTMCP mới.

2. Một số vấn đề pháp lý cần xử lý khi thực hiện hợp nhất các HTMCP
Quá trình thực hiện việc hợp nhất các NHTMCP có một số vấn đề pháp lý cần xử lý như sau:
Thứ nhất, về quyền và nghĩa vụ của cổ đông của các NHTMCP bị hợp nhất. Về mặt pháp lý, việc hợp nhất các NHTMCP chính là việc các cổ đông của NHTMCP bị hợp nhất góp vốn vào NHTMCP mới bằng tài sản là vốn cổ phần của cổ đông tại các NHTMCP bị hợp nhất. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được định giá.
Trong trường hợp hợp nhất  các NHTMCP, việc định giá tài sản góp vốn là căn cứ pháp lý để xác định tỷ lệ chuyển đổi cổ phần của cổ đông tại các NHTMCP bị hợp nhất sang cổ phần của NHTMCP mới và là căn cứ xác định mức vốn điều lệ của NHTMCP mới. Việc định giá tài sản góp vốn trong trường hợp hợp nhất các NHTMCP được thực hiện thông qua kiểm toán độc lập báo cáo tài chính của các NHTMCP bị hợp nhất. Ngoài ra, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông của NHTMCP mới, sự lành mạnh về tài chính của NHTMCP mới, việc định giá tài sản của các NHTMCP bị hợp nhất phải được thực hiện đồng thời với việc xử lý các khoản nợ xấu của các NHTMCP để xác định chính xác giá trị tài sản còn lại của cổ đông tại NHTMCP bị hợp nhất.
TẢI TOÀN VĂN BÀI VIẾT TẠI ĐÂY

Nguồn: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 24/2011

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2012

Những người xuất chúng

Người tài chắc phải là những người xuất chúng. Mỗi phát kiến lớn nhỏ của họ góp phần làm cho cuộc đời này thêm hạnh phúc. Tìm ở đâu ra những người quý hiếm ấy?
Hằng năm, thế giới 7 tỷ người này góp thêm 1,75 triệu đơn xin cấp sáng chế, tức là những phát kiến kỹ thuật có tính mới so với toàn cầu. Như vậy, trung bình cứ một phút trôi qua trên thế giới này đã có thêm hơn 3 đơn xin cấp sáng chế. Trong khi đó, ở nước ta cả một ngày trôi qua chưa có tới 1 đơn, năm 2010 chỉ có 306 đơn xin cấp sáng chế của người Việt Nam được yêu cầu bảo hộ.

Từ số lượng các sáng chế, các công trình khoa học, tới các giải thưởng danh giá trên thế giới này, người Việt Nam vốn tự hào là một dân tộc thông minh chẳng thiếu anh tài, song đóng góp của dân tộc chúng ta vào kho tàng các phát minh trên thế giới quả là còn rất nhỏ nhoi.

Để những mầm non sáng tạo ấy không thui chột, cần chất vấn các thể chế xã hội hiện thời của đất nước chúng ta có giúp dung dưỡng tài năng hay không.
Có nhiều lý do để giải thích hiện tượng ấy, thuyết nào cũng có đầy lý lẽ. Rằng ở xứ ta “khôn chết, dại chết, biết thì sống”, một xã hội trọng tinh thần cộng đồng thì xấu đều hơn tốt lỏi, người nước ta không ưa kẻ chơi trội. Rằng một thời đề cao chủ nghĩa quân bình, mọi cố gắng tìm kiếm phá cách để thỏa chí tang bồng đôi khi bị quy kết là cá nhân chủ nghĩa. So với những người khác, người tài cũng thường dễ bị soi xét hơn, bị quy là “lắm tài, nhiều tật”. Trong một xã hội đề cao tôn ti trật tự và lối sống cộng thể, người nước ta có thể nể cái tài của người xuất chúng, song chưa đủ khoan dung để chấp nhận những tật riêng của họ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” đôi khi vẫn vang lên như một lời nguyền khó vượt qua.


Người ta thường bảo con người là sáng tạo kỳ diệu nhất của tạo hóa, hiểu biết của chúng ta về chính con người vẫn còn rất sơ khai. Đã xa rồi thời của những lý thuyết sặc mùi phân biệt chủng tộc, đã xa rồi thời của lý thuyết phân biệt con người xứ ôn đới và nhiệt đới, màu da và xứ sở không là điều kiện để một dân tộc trở nên thông minh. Những con người xuất chúng phần nhiều chỉ có thể được sinh ra từ chính sách giáo dục và cách thức tổ chức xã hội của mỗi dân tộc. Như vậy, muốn tìm những người xuất chúng ấy, phải chất vấn thái độ của dân tộc chúng ta đối với nền giáo dục, phải đánh giá những thể chế xã hội có góp phần khuyến khích sự tự do, sáng tạo của con người.

Lục tung vốn cổ, ngoài khắc kỷ phục lễ, học tiết độ bản thân để làm người, nền Nho học truyền thống cũng tạo ra vô số xiềng xích, ngăn cản dân tộc chúng ta dám thách thức các giá trị được xem là tinh hoa kinh điển để tạo ra những giá trị mới. Cái bóng cũ đã tàn, song dư âm của hàng nghìn năm ấy không dễ tan biến.

Đằng sau ước mơ cũ “tiên học lễ”, ngày nay con em chúng ta đang được nhồi nhét bao nhiêu thứ được gọi là “hậu học văn”. Năng lực sống, năng lực giao tiếp, năng lực cạnh tranh và chung sống với những biến động thay đổi ngày càng mau lẹ ngoài đời, tiếc rằng chưa được nhà trường chú trọng. Muốn ươm mầm tài năng, ngoài giỏi làm toán, giỏi làm văn, trẻ nhỏ cần được khuyến khích phát hiện vấn đề mới và ráng sức giải quyết chúng. Chung quy lại, chưa có nhiều người xuất chúng, nguyên nhân đầu tiên thuộc về chính sách giáo dục, đặc biệt là ở bậc phổ thông của đất nước chúng ta.

Cũng như thế, để những mầm non sáng tạo ấy không thui chột, cần chất vấn các thể chế xã hội hiện thời của đất nước chúng ta có giúp dung dưỡng tài năng hay không. Trong sinh hoạt kinh tế, chính trị cũng như văn hóa-xã hội, phải khơi thông được cuộc ganh đua giữa các ý tưởng. Cạnh tranh công khai sẽ ban thưởng cho sáng tạo và loại trừ trì trệ. Mọi chính sách của Nhà nước, tốt nhất là cần khơi thông cho cuộc cạnh tranh ấy được diễn ra.

Tống cựu, nghinh tân, nói thì dễ mà làm theo cái mới quả thật khó. Đất nước được canh tân trước hết bởi các chính sách đúng đắn. Ươm mầm và dung dưỡng người tài trước hết nhờ vào việc thiết kế chính sách giáo dục và quản trị quốc gia. Suy nghĩ và hành xử theo lối cũ là lẽ thường tình, tự làm mới chính mình mới là điều xuất chúng. Tân xuân, những mong ngày càng có nhiều người làm chính sách ở đất nước chúng ta dám vươn tới những điều phi thường ấy.

Nguồn: Tạp chí Tia Sáng

VƯỚNG MẮC TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

I. Vướng mắc trong giải quyết hợp đồng vay tài sản
Trong thời gian qua, do áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và hướng dẫn của Toà án nhân dân (TAND) tối cao nên việc giải quyết tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản (HĐVTS) của ngành Toà án đã có sự biến chuyển tích cực: giảm tỉ lệ bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa án, huỷ án; các bản án có hiệu lực pháp luật cũng ít sai sót nên tỉ lệ án bị giám đốc thẩm cũng giảm nhiều. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây (từ năm 2005 đến nay), các Toà án đã gặp một số khó khăn, vướng mắc khi giải quyết tranh chấp về HĐVTS.
Thứ nhất, sự biến tướng của hợp đồng vay tài sản
HĐVTS do các đương sự ký kết bị biến tướng thành hợp đồng dân sự khác (giả tạo) nhưng lại được chính pháp luật dân sự thừa nhận khi phát sinh tranh chấp. Đơn cử như TAND Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện nhiều vụ án dân sự về HĐVTS nhưng khi thực hiện giao dịch thì bên cho vay yêu cầu bên vay phải ký kết dưới dạng hợp đồng đặt cọc mua bán nhà hoặc hợp đồng mua bán nhà. Đồng thời, bên cho vay thu giữ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên vay. Khi đến hạn trả nợ, nếu bên vay không trả vốn và lãi thì bên cho vay yêu cầu tiến hành thủ tục mua bán nhà (hoặc hợp đồng đặt cọc mua bán nhà). Khi giải quyết những vụ này, nguyên đơn có nhiều thuận lợi hơn về chứng cứ (do các chứng cứ này đã được công chứng hoặc chứng thực) và thường được Toà án chấp nhận yêu cầu của họ, cho dù Toà án biết rõ đó là hợp đồng giả tạo để che giấu một hợp đồng khác. Lãi suất trong các hợp đồng này thường rất cao so với quy định của Điều 476 BLDS năm 2005. Ví dụ như vụ bà Nguyễn Thị Đ ở Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh từng mất nhà vì vay tiền của một người chuyên cho vay nặng lãi tại khu vực Hoà Hưng. Bà kể: “Lúc mới vay chủ nợ dễ dãi lắm, cần bao nhiêu tiền cũng đưa ngay. Lúc tôi không có tiền để đóng lãi cũng được bà ta đưa tiền để đóng lãi lại cho bà ta. Khi nợ lên đến hơn 500 triệu thì bà ta mới gộp mấy cái giấy nợ nói giờ phải viết lại thành giấy bán nhà”. Nghe giải thích của chủ nợ là ký giấy bán nhà chỉ trên hình thức mà thôi, nên bà Đ đã tin tưởng. Nào ngờ mới quá hạn trả nợ có mấy ngày là chủ nợ trở mặt đòi lấy nhà. Bà Đ không chịu nên bị kiện ra toà và bị toà tuyên thua kiện, phải bán nhà cho chủ nợ với giá chỉ bằng một nửa giá thị trường.
Sở dĩ bên cho vay buộc con nợ phải ký hợp đồng bán nhà (thường là giá rẻ hơn nhiều so với giá thị trường) là nhằm bảo đảm lợi ích của bên cho vay, thường là những đối tượng chuyên cho vay nặng lãi. Nếu chỉ ký hợp đồng thông thường với lãi suất cao, khi người vay không trả được nợ, bên cho vay kiện ra Toà án thì Toà án thường tuyên buộc con nợ phải trả nợ gốc và lãi với mức lãi suất tính tối đa cũng chỉ bằng 150% mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng quy định. Chính vì vậy, để “cột” nghĩa vụ của con nợ, chủ nợ thường ép con nợ phải ký giấy bán nhà, nếu không trả được nợ thì sẽ mất nhà. Vì thế, theo chúng tôi, khi tiến hành thu thập và đánh giá chứng cứ trong các hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, nếu có đủ chứng cứ để kết luận những hợp đồng trên giả tạo thì Toà án có thể áp dụng các quy định của Điều 129 và Điều 137 BLDS năm 2005 để tuyên bố vô hiệu và chuyển sang xét xử HĐVTS với lãi suất cơ bản để buộc bên vay trả cho bên cho vay.

Thứ hai, xác định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với hợp đồng vay tài sản
Theo Điều 25 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật HNGĐ) quy định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch dân sự do một bên thực hiện. Tuy nhiên, cho đến nay thì chỉ có một căn cứ duy nhất để có thể xác định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện, đó là “…nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Thực tế xét xử cho thấy, nguyên đơn thường không đủ chứng cứ để có thể chứng minh khoản tiền mà họ cho vay đã được bị đơn sử dụng để “… nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Vì vậy, thông thường Toà án chỉ buộc được một bên (vợ hoặc chồng) phải trả nợ cho nguyên đơn. Điều này dẫn đến hậu quả là sau khi giải quyết những vụ án này, việc thi hành án sẽ không thể thực hiện được vì người vợ (hoặc chồng) không chấp nhận bán tài sản chung để cho người kia thi hành án. Trong những trường hợp này, cơ quan thi hành án thường phải để vợ chồng họ tự phân chia tài sản hoặc phải chờ bản án của Toà án xét xử phân chia tài sản chung của vợ chồng để có căn cứ thi hành án. Nếu họ không tự phân chia hoặc không yêu cầu Toà án phân chia thì việc thi hành án sẽ bị kéo dài, gây thiệt hại cho nguyên đơn.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, phương án lấy giá trị tài sản giao dịch để làm căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của người chồng (hoặc vợ) trong vụ án tranh chấp về HĐVTS mà chỉ có chồng (hoặc vợ) giao kết với nguyên đơn là hiệu quả nhất. Tiếp đó, căn cứ vào giá trị tài sản giao dịch, Toà án có thể đánh giá chứng cứ để từ đó xác định trách nhiệm liên đới của cả hai vợ chồng đối với nguyên đơn trong quan hệ vay tài sản. Điều 27 Luật HNGĐ đã có quy định về tài sản chung của vợ chồng. Khoản 2, 3 Điều 28 Luật HNGĐ cũng quy định việc thoả thuận bàn bạc của vợ chồng trong việc sử dụng tài sản chung có giá trị lớn.
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra, là trong các tranh chấp về HĐVTS, trường hợp nào thì xác định tài sản có giá trị lớn? Nếu đã xác định tài sản có giá trị lớn thì khi thụ lý, Toà án có cần phải triệu tập vợ (hoặc chồng) của bị đơn (là người vay tài sản) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hay không? Trong trường hợp nào thì cả vợ (chồng) của người vay tài sản được xác định là đồng bị đơn?
Ví dụ, Bản án dân sự sơ thẩm số 26/DSST ngày 22/8/2005 của TAND quận Tân Bình xét xử tranh chấp về HĐVTS là 20 triệu đồng giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Bích và bị đơn là bà Phan Thị Ánh. Vì cho rằng khoản tiền này là tài sản có giá trị lớn và là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nên Toà án đã triệu tập ông Đương Đức Khiêm (chồng bà Ánh) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, và bản án này đã buộc ông Khiêm liên đới với bà Ánh trả nợ. Nhưng bản án dân sự phúc thẩm số 134/DSPT ngày 05/12/2005 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định rằng số nợ trên không phải là tài sản có giá trị lớn nên đã sửa án sơ thẩm, xác định chỉ có bà Ánh chịu trách nhiệm trả nợ cho bà Bích.
Thứ ba, hợp đồng vay tài sản có bảo đảm của người thứ ba
Trường hợp bên vay tài sản chết mà không để lại di sản thừa kế thì nguyên đơn có quyền khởi kiện người thừa kế đòi lại tài sản hay không? Trường hợp bên vay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì nguyên đơn có quyền khởi kiện người bảo lãnh được không? Trường hợp bên nhận nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay thì nguyên đơn có quyền khởi kiện bên nào? Bên người vay hay người nhận nghĩa vụ trả nợ cho người vay? Trường hợp bên nhận nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay đã thực hiện được một phần nghĩa vụ trả nợ rồi sau đó không trả tiếp, nguyên đơn có quyền khởi kiện người vay hay không?
Ví dụ, ông H ký hợp đồng ngày 30/4/2004 vay 20 lượng vàng SJC của ông K với thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 3%/tháng. Ông H đã trả được 03 tháng tiền lãi. Ngày 01/01/2005, ông H bị bệnh và mất, bà Y (là vợ) và 02 con là M, N được hưởng thừa kế gồm: 01 căn nhà, số dư nợ 250 triệu đồng của ông H với Công ty TNHH TM-DV Z. Về số tiền này thì công ty ký biên bản, thoả thuận trả nợ thay cho các thừa kế của ông H (biên bản lập ngày 30/6/2005) nhưng sau đó, công ty không thực hiện. Ông K nhận thấy bà Y và 02 con là M, N vẫn còn khả năng trả được nợ nên đã kiện ra TAND quận. Bản án sơ thẩm nhận định, họ là người thừa kế nên phải có nghĩa vụ trả nợ cho ông K. Mặc dù trước đó giữa Công ty Z và bà Y cùng 02 con đã thỏa thuận chuyển nghĩa vụ trả nợ cho Công ty, nhưng bên Công ty Z đã không thực hiện.
Trường hợp này, những người thừa kế hợp pháp phải có nghĩa vụ trả nợ cho người chết theo Điều 637 BLDS năm 2005. Còn việc chuyển giao nghĩa vụ như trên là không hợp pháp vì lúc này, không có sự đồng ý của bên có quyền. Do đó, ông K kiện bà Y và 02 con bà Y là hợp pháp. Sau đó, bà Y có quyền kiện công ty Z để đòi số nợ dư là 250 triệu đồng.
II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản
Không thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của chế định hợp đồng nói chung, và HĐVTS nói riêng đối với việc bảo đảm sự công bằng, hài hoà lợi ích của mọi chủ thể trong giao lưu dân sự. Nó không chỉ là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp hợp đồng mà còn góp phần xây dựng nên ý thức pháp luật của người dân. Sự ra đời của BLDS năm 1995 cũng như những cố gắng đóng góp trong việc sửa đổi BLDS năm 2005 đánh dấu bước quan trọng trong việc ghi nhận và bảo đảm có tính pháp lý cao nhất của Nhà nước đối với quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức. Chiếm vị trí xương sống của Bộ luật, chế định hợp đồng nói chung và chế định HĐVTS nói riêng thể hiện nhiều tư tưởng pháp lý tiến bộ và khoa học. Thực tế, chế định HĐVTS đã góp phần tích cực trong việc giải quyết hàng trăm nghìn vụ án tranh chấp, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính công minh của pháp luật. Nhưng thực tế cũng cho thấy, nhiều tranh chấp đã không được giải quyết thoả đáng, kịp thời, gây khiếu kiện kéo dài, làm giảm sút niềm tin vào tính nghiêm minh và đúng đắn của pháp luật. Thiệt hại là công lý chưa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Bởi vậy, việc hoàn thiện những quy định của chế định HĐVTS được xem là nhiệm vụ có tính cấp bách và kịp thời.
1. Đối tượng của hợp đồng
Pháp luật cần có quy định rõ ràng về nội dung ngoại tệ có được xem là đối tượng của HĐVTS hay không. Nếu cấm việc sử dụng đối tượng vay của HĐVTS là ngoại tệ thì phải có sự kết hợp giữa quy định của pháp luật với các biện pháp xử lý cụ thể trong thực tiễn để tránh trường hợp pháp luật thì cấm nhưng trên thực tế điều này vẫn diễn ra thường xuyên và phổ biến.
Các quy định về HĐVTS cần phải bao quát cả đến các quan hệ cho vay giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng mà theo quy định của pháp luật, tổ chức tín dụng là tổ chức được phép hoạt động ngoại hối. Vì thế việc bổ sung thêm đối tượng của HĐVTS vào Điều 471 BLDS năm 2005 là cần thiết. Ngoài ra, cần quy định cụ thể và tách bạch các đối tượng là vàng, kim khí quý, đá quý và không để chung trong đối tượng là vật. Việc tách bạch như vậy sẽ giải quyết được vấn đề lãi suất trong HĐVTS có đối tượng là vàng – một vấn đề mà BLDS hiện hành vẫn còn đang bỏ ngỏ.
Từ những lý giải trên, chúng tôi đề nghị sửa lại Điều 471 BLDS năm 2005 như sau:
1. HĐVTS là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền là nội tệ hoặc ngoại tệ, các giấy tờ có giá như tiền, vàng, kim khí quý, đá quý hoặc vật; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả tiền, các giấy tờ có giá hoặc vàng, kim khí quý đá quý, vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và trả lãi theo thoả thuận.
2. Đối với những HĐVTS có đối tượng là ngoại tệ khi giao kết phải tuân theo quy định pháp luật của Nhà nước về quản lý ngoại hối.
Nếu việc hạn chế sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch được sửa đổi theo hướng thông thoáng thì có thể bỏ khoản 2.
2. Hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng là một trong những vấn đề mang tính lý luận phức tạp của chế định hợp đồng. Tầm quan trọng của chúng không chỉ dừng lại ở giá trị chứng cứ khi nảy sinh tranh chấp mà còn liên quan đến việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, vấn đề hợp đồng vô hiệu, hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu về hình thức. Mặc dù BLDS đã có những quy định về hình thức hợp đồng, trong đó ghi nhận rõ ràng các hình thức, nhưng nhìn chung, toàn bộ quy định liên quan về hình thức của hợp đồng chưa thể hiện được quan điểm pháp lý mang tính toàn diện và hệ thống. Số lượng những vụ tranh chấp tại HĐVTS chủ yếu là hợp đồng miệng, bằng lời nói. Thực tế xét xử cho thấy, các HĐVTS giao kết bằng lời nói nhiều hơn các hợp đồng giao kết bằng văn bản. Đối với những hợp đồng giao kết bằng lời nói, nếu không có bên thứ ba làm chứng, sẽ tạo rất nhiều khó khăn cho thẩm phán trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp. Do vậy, BLDS cần quy định chi tiết hơn về hình thức của HĐVTS để tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án có cơ sở pháp lý khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐVTS; đồng thời đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên, bên vay không còn lý do để từ chối việc vay mượn của mình, còn bên cho vay không thể ép buộc bên vay hoặc lợi dụng giấy tờ vay nợ không rõ ràng để đi đòi nợ. Đây là giao dịch hết sức phổ biến của đời sống dân sự, dễ có những xung đột về lợi ích giữa các chủ thể. Mặt khác, việc quy định HĐVTS phải được lập thành văn bản thống nhất với quy định liên quan tại Mục 5 Chương XVII BLDS về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bởi vậy, một bản HĐVTS được ký kết với những điều khoản được quy định rõ ràng là căn cứ xác đáng nhất để các bên thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực và tự nguyện.
3. Nghĩa vụ của bên cho vay
Khoản 3 Điều 473 BLDS năm 2005 quy định: “Bên cho vay không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn trừ trường hợp quy định ở Điều 478 của Bộ luật này”. Thực ra quyền yêu cầu trả lại tài sản trước thời hạn không chỉ được quy định ở Điều 478 mà còn được quy định ở Điều 475. Tuy nhiên, việc đòi lại tài sản trước thời hạn là quyền của bên cho vay khi thoả mãn các điều kiện do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định. Không có quyền không có nghĩa là người cho vay phải có nghĩa vụ đối lập với quyền đó. Do đó, để tránh sự trùng lặp và đảm bảo được sự khái quát của tên điều luật đối với nội dung thì việc quy định như ở Khoản 3 Điều 473 là không cần thiết. Bên cạnh đó, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 473 quy định như vậy là quá chung chung. Do đó, Điều 473 nên quy định như sau:
Bên cho vay có các nghĩa vụ sau đây:
1. Trong trường hợp cho vay tài sản là tiền hoặc các giấy tờ có giá như tiền, thì phải giao tiền cho bên vay đầy đủ, đúng thời hạn đã thoả thuận;
2. Trong trường hợp tài sản cho vay là vàng, kim khí quý, đá quý hoặc vật, thì phải giao tài sản đúng số lượng, chất lượng, thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận, nếu:
a. Vay không có lãi mà tài sản vay không bảo đảm chất lượng do có khuyết tật, nếu bên cho vay ngay tình không biết về khuyết tật của tài sản, thì bên cho vay không có nghĩa vụ đổi lại tài sản vay; trong trường hợp bên cho vay biết tài sản có khuyết tật mà vẫn cho vay thì phải đổi lại tài sản;
b. Vay có lãi mà tài sản không đảm bảo chất lượng, thì bên cho vay có nghĩa vụ đổi lại tài sản vay và bồi thường thiệt hại.
3. Đối với HĐVTS có lãi, khi đến hạn trả nợ mà bên vay không thực hiện nghĩa vụ, thì bên cho vay không được thoả thuận với bên vay nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi vào thời gian tiếp theo.
4. Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 475 của Bộ luật này.
4. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
Khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận”.
Trong hợp đồng vay có thời hạn mà khi đến hạn, bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và bên cho vay không đồng ý cho vay tiếp thì bên vay đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 305 BLDS năm 2005 thì: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Trong trường hợp này, vì trước đó giữa các bên đã thoả thuận một hợp đồng cho vay có kỳ hạn và không có lãi, nếu khi đến hạn, bên vay không trả nợ mà áp dụng lãi suất nợ quá hạn sẽ không tương xứng với việc áp dụng chế tài trong trường hợp các bên đã thoả thuận trước đó về hợp đồng vay có thời hạn và có lãi. Do đó, khi đến hạn mà bên vay không thực hiện nghĩa vụ thì chỉ nên áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả như Khoản 4 Điều 474 là hợp lý, và đây cũng được coi là trường hợp pháp luật có quy định khác của Khoản 2 Điều 305.
Đối với hợp đồng vay có lãi và có kỳ hạn, Khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”. Quy định như Khoản 5 đã dẫn đến hai cách hiểu khác nhau về cách tính lãi đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi trong trường hợp bên vay không trả hoặc không đầy đủ:
Cách 1: Lãi = lãi suất thoả thuận x nợ gốc + lãi suất nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố x nợ gốc x thời hạn vay
Cách 2: Lãi = (nợ gốc lãi) x lãi suất nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố x thời hạn vay.
Cả hai cách hiểu trên là chưa chính xác, vì:
- Tiền lãi về nguyên tắc chỉ được tính trên nợ gốc (Khoản 2 Điều 209 BLDS năm 2005 quy định: “Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”).
- Nếu tính lãi suất nợ quá hạn thì phải tính theo thời gian chậm trả chứ không được tính trên thời hạn vay.
Có ý kiến cho rằng “tương ứng với thời hạn vay” tức là khoảng thời gian này tương ứng với thời hạn của loại cho vay nào (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) của Ngân hàng Nhà nước quy định thì áp dụng mức trần lãi suất cho vay của loại vay đó. Ý kiến như vậy là không hợp lý bởi lẽ “tương ứng với thời hạn vay” phải được hiểu là tương ứng với khoảng thời gian do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định, mà trong khoảng thời gian đó, bên vay được quyền sở hữu tài sản của bên cho vay. Bên cạnh đó, tại Khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005 cũng đã quy định là tính lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả. Như vậy, ngay trong cùng một điều luật, việc quy định đã không có sự thống nhất.
Do đó, Điều 474 Nghĩa vụ trả nợ của bên vay nên quy định như sau:
1. Bên vay tài sản là tiền hoặc các giấy tờ có giá như tiền, thì phải trả đủ tiền hoặc các giấy tờ có giá như tiền khi đến hạn;
2. Trong trường hợp vay tài sản là vàng, kim khí quý, đá quý hoặc vật, thì phải trả tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
3. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật hoặc các tài sản khác không phải là tiền, thì có thể trả bằng tiền theo giá trị của vật hoặc tài sản đã vay tại thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý;
4. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
5. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
6. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
5. Sử dụng tài sản vay
Điều 475 BLDS năm 2005 quy định: “Các bên có thể thoả thuận về việc tài sản vay và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn, nếu đã vướng mắc mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích”.
Ở đây, điều luật đã không quy định hậu quả pháp lý trong trường hợp này sẽ giải quyết như thế nào. Nếu là vay có kỳ hạn và có lãi thì khi đòi lại tài sản vay trước kỳ hạn, bên cho vay có được trả lãi không? Nếu được thì tính đến thời điểm nào, thời điểm trả tài sản hay phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn?
Trong trường hợp này, nên coi đây là một căn cứ để bên cho vay đơn phương đình chỉ hợp đồng. Khi đó, các bên sẽ giải quyết hậu quả của chấm dứt hợp đồng, tức là bên cho vay tài sản có quyền lấy lại tài sản, được hưởng lãi đến thời điểm chấm dứt hợp đồng và có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều này nên được sửa theo hướng sau: “Các bên có thể thoả thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay; bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích”.
6. Lãi suất
Trong HĐVTS thì lãi suất là một yếu tố rất quan trọng vì nó là cơ sở để tính lãi và đa số các tranh chấp về HĐVTS có nguyên nhân từ lãi, mức lãi suất. Trên thực tế, quan hệ vay tài sản nói chung rất phong phú, đa dạng, mức lãi suất được xem là phù hợp mà các bên tham gia giao dịch đưa ra và có thể cùng chấp nhận được chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố.
Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên thoả thuận, tuy nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường hợp không có cơ sở xác định rõ mức lãi đã thoả thuận, BLDS năm 2005 có quy định về mức lãi suất tại Khoản 1 Điều 476: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. BLDS năm 2005 sử dụng khái niệm “lãi suất cơ bản” để làm căn cứ viện dẫn khi xác định lãi suất trong HĐVTS. Tuy vậy, lãi suất cơ bản hiện nay không còn phù hợp, bởi:
- Cơ chế điều hành lãi suất bằng cách giao cho Ngân hàng Nhà nước ban hành mức lãi suất cơ bản như cách quy định của BLDS năm 2005 là không còn phù hợp do việc xác định lãi suất tiền vay trong thực tế hiện nay đã có nhiều biến động và chịu chi phối mạnh mẽ của quy luật thị trường, vượt xa những dự liệu của nhà làm luật khi ban hành BLDS năm 2005. Bản thân các quy định về lãi suất cơ bản, suy cho cùng, cũng chỉ là kết quả tham khảo từ lãi suất thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam, nhưng thực chất lại thường mang tính chủ quan của cơ quan quản lý, không theo kịp lãi suất thực tế diễn ra trên thị trường và đôi khi tỏ ra lạc hậu rất xa so với thực tế.
- Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước cũng như sự thay đổi trong các quan hệ cung – cầu trong thị trường vốn, theo hướng ngày càng tiến dần đến với những đòi hỏi khách quan của loại quan hệ này, đòi hỏi cần có sự thay đổi căn cứ xác định lãi suất thích ứng. Sắp tới, Nhà nước sẽ không điều hành lãi suất theo cơ chế công bố lãi suất cơ bản như từ trước tới nay, nên căn cứ áp dụng lãi suất cơ bản trong BLDS hiện hành không còn khả thi.
- Về mặt kỹ thuật, nhiều điều luật quy định về lãi suất trong BLDS năm 2005 không được trình bày chặt chẽ, có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng và thực thi pháp luật.
Bên cạnh đó, hiện nay ở từng thời điểm nhất định, Ngân hàng Nhà nước chỉ công bố một mức lãi suất cơ bản nhất định duy nhất để các tổ chức tín dụng tham khảo ấn định lãi suất kinh doanh và định hướng lãi suất thị trường. Ngân hàng Nhà nước không công bố các mức lãi suất cơ bản khác nhau tương ứng với từng loại cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Do vậy, chúng tôi đề nghị bỏ cụm từ “đối với loại cho vay tương ứng”.
Ngoài ra, Khoản 1 Điều 476 BLDS hiện hành chưa xác định cụ thể hậu quả pháp lý của việc vi phạm quy định của pháp luật về lãi suất trong hợp đồng. Nội dung Khoản 1 Điều 476 chưa xác định rõ chế tài khi các bên thoả thuận mức lãi suất trong HĐVTS vượt quá lãi suất quy định. Vấn đề này còn nhiều cách hiểu và cách vận dụng khác nhau:
Một là, nếu thoả thuận trong hợp đồng vượt quá mức lãi suất quy định, thì phần vượt quá đó sẽ được cơ quan áp dụng pháp luật tính lại cho bằng với mức lãi suất quy định. Như vậy, nội dung của điều khoản này bị vô hiệu một phần, đó là phần vượt mức lãi suất quy định và phần vô hiệu này không ảnh hưởng đến toàn bộ điều khoản lãi suất của hợp đồng.
Hai là, nếu thoả thuận về điều khoản lãi suất trong hợp đồng là vi phạm pháp luật, thì nội dung của thoả thuận này bị xem là vô hiệu tuyệt đối. Và nếu toàn bộ điều khoản lãi suất vô hiệu, thì coi như hợp đồng vay không có lãi.
Ba là, nếu các bên thoả thuận vượt quá mức lãi suất quy định, rồi không nhất trí với nhau về mức lãi suất đó, dẫn đến tranh chấp tại Toà án, thì phải áp dụng Khoản 2 Điều 476 là có sự tranh chấp về lãi suất, thì lãi suất phải được Toà án xác định lại theo lãi suất cơ bản, chứ không phải tính lại cho bằng với 150% lãi suất cơ bản.
Khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.
Như vậy, “có tranh chấp về lãi suất” ở đây được hiểu là gì? Nếu các bên thoả thuận mức lãi suất quá cao và sau đó bên vay lại không chấp nhận mức lãi suất đó nữa và khởi kiện thì giải quyết như thế nào? Sẽ áp dụng mức lãi suất có kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định như tại Khoản 2 hay áp dụng mức lãi suất bằng 150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định như quy định tại Khoản 1 và các văn bản khác? Để tránh cho việc hiểu sai dẫn đến việc áp dụng khác nhau về vấn đề này, khoản 2 Điều 476 nên bỏ cụm từ “hoặc có tranh chấp về lãi suất”.
Việc tính lãi trong HĐVTS có đối tượng là vàng thì vẫn đang bị bỏ ngỏ. Thực tế chưa có văn bản hướng dẫn và hiện nay cũng chưa có quy định nào của Nhà nước quy định về vấn đề này áp dụng cho đối tượng là vàng, điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan khi áp dụng và giải quyết, nên pháp luật cần có quy định ngay về vấn đề này.
Vì BLDS có vai trò quan trọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự trong xã hội, bảo đảm sự an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, nên cần phải có những điều khoản được quy định thật chặt chẽ, đảm bảo tính ổn định và giá trị lâu bền của Bộ luật. Do vậy, với những bất cập nói trên, cần thiết phải tìm kiếm một mức lãi suất phù hợp để làm căn cứ cho việc xác định lãi suất trong BLDS và để viện dẫn về lãi suất trong các HĐVTS.

Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

9 Sự thật kinh ngạc về Bill Gates

Mỗi ngày Bill Gates kiếm được 20 triệu USD, nếu đổi tài sản của tỷ phú này thành tờ tiền 1 USD có thể làm con đường từ trái đất tới mặt trăng. Đó là một vài ví dụ trong số 9 so sánh thú vị xung quanh tài sản khổng lồ của tỷ phú Bill Gates, người sáng lập hãng phần mềm Microsoft.

1. Bill Gates kiếm được 250 USD mỗi giây, khoảng 20 triệu USD mỗi ngày và 7,8 tỷ USD một năm.
2. Nếu ông ấy đánh rơi một USD, ông ấy sẽ không buồn nhặt lại vì như vậy sẽ mất 4 giây, tức khoảng 1.000 USD.
3. Nợ của nước Mỹ là 5,62 nghìn tỷ USD, nếu được giao trả món nợ này, Bill Gates sẽ trả xong trong chưa đầy 10 năm.
4. Bill Gates có thể làm từ thiện khoảng 15 USD cho mỗi người trên trái đất mà vẫn còn giữ lại cho riêng mình được 5 triệu USD.
5. Michael Jordan là vận động viên được trả lương cao nhất ở Mỹ. Nếu vận động viên này không ăn không uống, giữ lại toàn bộ thu nhập khoảng 30 triệu USD mỗi năm, thì phải đợi đến đến năm 227 tuổi mới giàu như Bill Gates hiện nay.
6. Nếu Bill Gates là một quốc gia, ông ấy sẽ là quốc gia giàu có thứ 37 trên trái đất.
7. Nếu bạn có thể đổi tất cả tiền của Bill Gates thành tờ 1 USD, bạn có thể làm con đường nối từ trái đất đến mặt trăng. Để làm con đường bằng các tờ tiền 1 USD này, bạn phải mất 1.400 năm và sử dụng 713 máy bay Boeing 747 để chở số tiền đó.
8. Năm nay, Bill Gates đã ở tuổi 54. Nếu giả dụ sống thêm 35 năm nữa, ông ta phải tiêu 6,78 triệu USD mỗi ngày mới hết số tiền ông ấy kiếm được hiện nay.
9. Nếu người dùng hệ điều hành Microsoft Windows có thể lấy được 1 USD với mỗi lần máy tính treo vì lỗi của hệ điều hành, Bill Gates sẽ phá sản chỉ trong 3 ngày.

Nguồn gốc và ý nghĩa ngày Tết cổ truyền Dân tộc

Nguồn gốc Tết âm lịch bắt đầu từ người Việt cổ
Tết của Việt Nam (hay còn gọi đầy đủ là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam được hình thành từ nền văn minh lúa nước và đời sống nông nghiệp của dân tộc Việt. Chữ “Tết” do chữ “Tiết” (節) mà thành.[1] Tết cổ truyền cũng được gọi là “Tết Nguyên đán”. Hai chữ “Nguyên đán” (元旦) có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”. Tết cổ truyền của Việt Nam được người Trung Quốc hiện nay gọi là Xuân tiết (春節) hoặc Nông lịch tân niên (農曆新年), còn tết của Trung Quốc ngày nay lại là Tết dương lịch tức ngày 1 tháng 1 hằng năm.[2]. Nhưng với cộng đồng người Hoa ở Đài Loan, Hồng Kông hay nhiều nước khác, Tết Nguyên Đán vẫn là tết cổ truyền của họ. Điều này cũng phản ánh Tết không phải của người Hoa Bắc và vùng Hoa Nam (Đài Loan, Hồng Kông, Quảng Châu…) vốn là đất Việt xưa.
Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam đôi khi không hoàn toàn trùng với Xuân tiết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa khác.
Nguồn gốc ra đời
Tết cổ truyền Việt Nam là một lễ hội truyền thống có liên quan đến việc trồng cấy cây nông nghiệp trong tập tục của người Việt cổ. Cụ thể hơn Tết cổ truyền (Tết Cả) có từ thời Hồng Bàng, trước cả thời Hùng Vương, trong đó nổi bật là câu chuyện Lang Liêu gói bánh chưng bánh dày mừng Tết vua Hùng. Điều đó thể hiện Tết cổ truyền Việt Nam đã có gần 5000 năm.
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.
Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Nói thêm về ảnh hưởng của Tết cổ truyền Việt nam lên Trung quốc, Khổng Tử là bậc tổ sư cho lễ nhạc của Trung Hoa viết trong sách Kinh Lễ như sau: “:”Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là “TẾ SẠ” (Tế Sạ là Khổng Tử phát âm chữ Thêts, là lễ hội năm mới của người Thái đất Phong Châu- TN)
Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, chúng gọi ngày đó là Nèn- Thêts, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này. Chỉ có bọn man di mới có ngày hội mà người trên kẻ dưới cùng nhau nhảy múa như cuồng vậy, bên ta không có sự Quân thần điên đảo như thế.”
Hai đoạn trích từ hai cuốn Kinh sử nổi tiếng của Văn hóa Trung Hoa đều khẳng định Tết của Việt có trước ngày “Tân Niên” Chinese new Year “, Thrếts Chìn” của người Tần Trung Hoa rất xa và Tết nguyên đán Trung quốc thay đổi rất nhiều so với Tết gốc của dân tộc Việt. Trong khi đó ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt vốn không thay đổi từ thời thượng cổ cho đến nay.

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

Các mô hình bảo hiến trên thế giới và khả năng lựa chọn của Việt Nam

Cơ chế bảo hiến hiểu theo nghĩa hiện nay lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ đầu thế kỷ 19, và không phải trên cơ sở hiến pháp mà từ án lệ. Chánh án Toà án Tối cao J. Marshall phán quyết về vụ Marbury v. Madison (Marbury kiện Madison) năm 1803: “Chỉ có toà án mới có quyền và có nghĩa vụ tuyên bố cái gì được gọi là luật”, “một văn bản luật trái với Hiến pháp không phải là luật”[1]. Tiền lệ này đã đặt nền tảng cho mô hình Mỹ về hoạt động bảo hiến với đặc điểm chính là xem xét tính hợp hiến của các đạo luật do các toà án bình thường thực hiện.
Sau đó, sau Đại chiến thế giới lần thứ I, ở châu Âu đã xuất hiện mô hình của mình, một mô hình mới về nguyên tắc, do học giả người Áo Hans Kelsen sáng tạo ra[2]. Khác biệt chủ yếu của mô hình này so với mô hình Mỹ là hoạt động bảo hiến tách khỏi hệ thống tòa án nói chung và do cơ quan chuyên trách thực hiện: toà án hiến pháp. Mô hình này được gọi là mô hình châu Âu.
Đến nay, sau các giai đoạn phát triển, chế định này đã lan truyền rộng rãi, được khẳng định ở các nước châu Âu, ở nhiều quốc gia mới thành lập sau Đại chiến thế giới lần thứ II tại châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh, ở các nước Đông Âu cũ, các nước đang phát triển mà trước đó chế định này hoặc bị huỷ bỏ hoặc không hề tồn tại[3]. Đến năm 2008, trong số 191 nước được khảo sát, 158 nước có các quy định liên quan đến cơ chế bảo hiến. Trong đó, 79 nước có quy định trực tiếp trong Hiến pháp về Tòa án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến; 60 nước quy định về cơ chế bảo hiến của tòa án thường hoặc Tòa án tối cao; một số ít nước như Trung Quốc, Việt Nam, Miến Điện quy định cơ quan lập pháp có thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến[4]. Bên cạnh hai mô hình chính trên đây, còn có mô hình hỗn hợp, mô hình Pháp với Hội đồng bảo hiến, và một số hình thức bảo hiến khác [5].
Chú dẫn
Toà án Hiến pháp
Toà án tối cao
Hội đồng bảo hiến
Các dạng khác
 Kiểu châu Âu




Kiểu Mỹ




Kiểu hỗn hợp Âu – Mỹ




Kiểu Pháp




Các hình thức khác




 Không có giám sát Hiến pháp




 Khối thịnh vượng chung mới




 Không xác định




Bài viết này điểm lại các mô hình bảo hiến tiêu biểu trên thế giới theo trục các vấn đề sau đây: thẩm quyền của cơ quan bảo hiến; cơ cấu tổ chức; bổ nhiệm thẩm phán, nhất là chánh án; các chủ thể có quyền đưa vấn đề ra cơ quan bảo hiến; đánh giá vị trí, vai trò của cơ quan bảo hiến. Bên cạnh đó, bài viết cũng đưa ra một vài nhận định ban đầu về khả năng lựa chọn của ViệtNam.
I- GIỚI THIỆU CHUNG
1- Các nước tòa án thẩm quyền chung thực hiện bảo hiến
Tại khá nhiều nước, hoạt động bảo hiến không tách khỏi hệ thống tòa án bình thường, mọi vụ việc về những vấn đề liên quan đến hiến pháp đều do các toà có thẩm quyền chung xem xét.
Đến lượt mình hình thức này lại có hai dạng: ở một số nước hoạt động bảo hiến  (hiểu theo nghĩa rộng) do tất cả các toà có thẩm quyền chung thực hiện (Mỹ, Nhật Bản, Philippins, các nước Bắc Âu). Bất kỳ toà nào cũng có thể phán quyết về tính hợp hiến của văn bản luật. Nhưng các quyết định của cấp toà cao nhất có ưu thế hơn vì chỉ những quyết định đó mới có tính bắt buộc đối với mọi toà khác. Chỉ sau khi cấp toà cao nhất phủ nhận tính hợp hiến của văn bản luật thì văn bản đó sẽ thực chất mất hiệu lực. Hình thức giám sát bảo hiến do tất cả các toà có thẩm quyền chung thực hiện được gọi là giám sát bảo hiến phi tập trung (decentralized constitutional review)[6].
Ở nhóm khác giám sát bảo hiến pháp cấp toà cao nhất thực hiện (Ghana, Namibia, Papua – New Ginea, Srilanca, Estonia). Hình thức này được gọi là giám sát hiến pháp tập trung (centralized constitutional review).
Ở một số nước liên bang, bên cạnh cấp toà cao nhất của quốc gia, cấp toà cao nhất của các chủ thể liên bang cũng có quyền giám sát bảo hiến (nhưng thông thường chỉ liên quan đến pháp luật của tiểu bang). Ví dụ như ởCanada-các toà cao nhất của các tỉnh, ở Ấn Độ – các toà án tối cao của tiểu bang. Nhưng tại những nước này toà án tối cao liên bang là cấp toà chung thẩm khi giải quyết một vấn đề về tính hợp hiến của luật. Tuy nhiên có thể nói ở đó có mức độ phi tập trung hoá nhất định.
Nhưng dù cho đó là sự giám sát tập trung hay phi tập trung thì vai trò quyết định ở các nước nói trên đều thuộc về cấp toà cao nhất (gọi chung là toà án tối cao) với cơ cấu tổ chức do hiến pháp quy định.
2 – Các nước có cơ quan bảo hiến chuyên trách
Những nước thuộc nhóm này có các toà chuyên trách về hoạt động bảo hiến gồm các toà án hiến pháp và những cơ quan bán tư pháp (hội đồng bảo hiến, ban hiến pháp của toà án cấp cao có thẩm quyền chung). Đây cũng được coi là giám sát bảo hiến tập trung.
a) Toà án hiến pháp: Tòa án hiến pháp hoạt động với những trình tự tố tụng gần giống với các toà có thẩm quyền chung. Hiến pháp nhiều nước quy định về những toà này tại chương về quyền lực tư pháp (Bồ Đào Nha, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, CH Séc, Slovakia, Armenia, Uzbekistan…). Như Garlicki nhận định, qua điều này “nhà sáng lập hiến pháp muốn nhấn mạnh mối quan hệ giữa hoạt động bảo hiến với hệ thống tư pháp truyền thống và công nhận toà án hiến pháp là một trong số các toà, nhưng có thẩm quyền đặc biệt”[7].
Cũng theo lời Garlicki, trong hoạt động của toà án hiến pháp “bộc lộ xu hướng tiến gần với các toà án nói chung”[8] như trình tự xét xử dựa trên các nguyên tắc tranh tụng và công khai (mặc dầu ở một số nước những nguyên tắc này được giới hạn trong những vụ việc nhất định). Các nguyên tắc chung trong xét xử được áp dụng một cách đầy đủ nhất ở Toà án Hiến pháp LB Nga gồm tính độc lập, tính tập thể, tính công khai, tính tranh tụng và sự bình đẳng giữa các bên (Điều 5, Hiến pháp LB Nga).
b) Các cơ quan bảo hiến khác
Các cơ quan bảo hiến chuyên trách còn bao gồm Hội đồng bảo hiến (Pháp, Mozambic, Marocco, Kazakhstan), Ban hiến pháp thuộc Toà án tối cao (Costa- Rica, Burkina – Faso, Estonia), Hội đồng điều tra bảo hiến (Ethiopia). Những cơ quan này không khác với toà án hiến pháp về trình tự thành lập và thành phần. Trong giới lý luận có hai quan điểm về bản chất của chúng. Một số cho rằng đó là những cơ quan bán tư pháp, chủ yếu dựa trên lý lẽ về các thủ tục tố tụng – sự thiếu vắng tính tranh luận và tính công khai. Nhưng trong các công trình nghiên cứu của mình họ đặt những cơ quan này cùng với các toà án hiến pháp. Các tác giả khác không phân biệt sự khác nhau giữa hội đồng bảo hiến và toà án hiến pháp. Ví dụ như Favoreu khi nói về Hội đồng Bảo hiến Pháp đã nhấn mạnh rằng Hội đồng “không khác với những toà án hiến pháp về thành phần, về thẩm quyền lẫn hoạt động của mình” (ông cho rằng những khác biệt về thủ tục tố tụng nói trên không có ý nghĩa)[9].
3. Tóm tắt tình hình chung
Chế định bảo hiến hiện nay có nhiều hình thức thể hiện, bởi vậy ngày càng khó có thể đưa chúng vào một trong hai mô hình – mô hình Mỹ và mô hình châu Âu. Ngày càng rõ nét hơn xu hướng xuất hiện các mô hình hỗn hợp, trong đó với những mức độ khác nhau kết hợp những nét đặc trưng của mỗi mô hình cổ điển. Vẫn giữ những khác biệt có tính nguyên tắc về mặt tổ chức (toà có thẩm quyền chung và toà chuyên trách), ở nhiều nước trên mọi phương diện còn lại có thể thấy tính chất “pha trộn” trong chế định này (về thẩm quyền, về hình thức và thể loại giám sát bảo hiến…). Bên cạnh đó, tại một số nước đã thiết lập “mô hình hỗn hợp thực sự” với đặc điểm là trong đó kết hợp cả những hình thức và thể loại giám sát bảo hiến khác nhau và các toà án khác nhau thực hiện sự giám sát đó như ở Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Nam Phi.
Xét đến tính tương đối của khái niệm, có thể nói trong giai đoạn hiện nay mô hình châu Âu đang chiếm ưu thế so với mô hình Mỹ vì những nguyên nhân lịch sử, chính trị, pháp lý khác nhau. Ví dụ như nhiều nước châu Âu từ bỏ mô hình Mỹ do những đặc điểm của hệ thống luật pháp châu Âu lục địa, vì sự “tôn thờ” luật của các luật gia châu Âu như một nguồn của luật pháp[10]. Ngoài ra, những nhược điểm của mô hình Mỹ trở nên rõ ràng, như sự ràng buộc của toà án với các tình huống trong các vụ việc dân sự và hình sự trong khi giải quyết các vấn đề hiến định, thời gian xét xử kéo dài, các phán quyết chỉ có tính chất bắt buộc đối với các bên tham gia vào vụ việc cụ thể, quyền nghi ngờ tính hợp hiến của các văn bản pháp luật và các hành vi chỉ được trao cho các cá nhân. Những nhược điểm trên đây đều được mô hình châu Âu khắc phục.
Bảng: So sánh mô hình bảo hiến Mỹ và châu Âu[11]
Các yếu tố
Mô hình Mỹ
Mô hình châu Âu
Về mặt thể chế (Ai có thẩm quyền)
Phi tập trung: Các tòa án bình thường có quyền giám sát bảo hiến – có thể tuyên một văn bản pháp luật vi hiến.
Tập trung: Chỉ có Tòa án hiến pháp có quyền giám sát bảo hiến; các tòa khác chuyển các vấn đề bảo hiến đến Tòa án Hiến pháp.
Về mặt thời điểm (Diễn ra lúc nào?)
Giám sát sau (Posteriori hoặc Ex Post): Tòa án thực hiện bảo hiến chỉ sau khi văn bản được ban hành hoặc có hiệu lực.
Cả giám sát trước (Priori hoặc Ex Ante) và giám sát sau: Một số tòa án hiến pháp giám sát bảo hiến trước khi văn bản được thông qua hoặc có hiệu lực; một số thực hiện giám sát cả trước và sau.
Cụ thể hay trừu tượng?
Cụ thể: Tòa án thực hiện bảo hiến trong các vụ việc cụ thể.
Cả trừu tượng và cụ thể: Hầu hết các tòa án hiến pháp thực hiện bảo hiến mà không cần có vụ việc cụ thể; một số thực hiện bảo hiến đối với cả vụ việc cụ thể.
Ai có quyền khởi kiện?
Các bên có tranh chấp trong vụ án bình thường có thể nêu vấn đề bảo hiến.
Các chủ thể khác nhau có thể khởi kiện bảo hiến, từ các thiết chế hành pháp, nghị sỹ, cho đến cá nhân công dân.
Hoạt động của các cơ quan bảo hiến trong việc bảo vệ hiến pháp ở mỗi nước có những đặc điểm riêng. L. Favoreu khi phân tích thực tiễn của các toà hiến pháp châu Âu có nhận xét là mỗi nước đều đi theo phương hướng nhất định. Ví dụ như ở Đức và Tây Ban Nha việc xem xét các đơn khiếu nại về những vấn đề quyền con người chiếm khối lượng chính trong hoạt động của các toà án hiến pháp, cho thấy vai trò của các toà này trong việc bảo vệ các quyền và tự do chính yếu của con người. Ở Áo khối lượng công việc chính của Toà án Hiến pháp bao gồm những vụ việc về tính hợp hiến trong các văn bản hành chính, có nghĩa là trọng tâm dồn vào giám sát các văn bản của hành pháp v.v…
II- THÀNH PHẦN, CÁCH THỨC THÀNH LẬP
Như đã nói, ở các nước hiện nay hoạt động bảo hiến được thực hiện bởi các cơ quan khác nhau có thể xếp vào hai nhóm: các toà có thẩm quyền chung và các toà chuyên trách. Hai dạng các cơ quan bảo hiến này khác nhau về trình tự thành lập cũng như về thành phần.
1. Tòa án Tối cao
Thành phần của Toà án tối cao ở các nước có số lượng không lớn và dao động từ 7 – 20 thẩm phán. Thành viên của toà án tối cao là những thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng được những yêu cầu đối với cấp bậc của họ. Yêu cầu chính là có thâm niên làm việc cao trong các cơ quan toà án hoặc trong ngành luật sư. Ví dụ như ở Ấn Độ thẩm phán của Toà án Tối cao là công dân Ấn Độ, được biết đến như một luật gia xuất chúng, có ít nhất 10 năm làm luật sư, thẩm phán ở toà phúc thẩm hoặc ở hai toà bình thường trở lên (Khoản 3, Điều 124 Hiến pháp Ấn Độ).
Trừ những ngoại lệ hiếm hoi, thẩm phán của Toà án tối cao do nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm. Ở một số nước đòi hỏi phải có sự đồng ý của nghị viện về việc bổ nhiệm đó; ở các nước khác nguyên thủ quốc gia hành động theo suy xét của mình, nhưng trước khi bổ nhiệm ông ta tham khảo ý kiến với các cơ quan nhà nước khác.Tuy vậy, nói chung có thể nói vai trò quyết định trong việc thành lập Toà án tối cao ở những nước này đều thuộc về nguyên thủ quốc gia.
Ở phần lớn các nước, thẩm phán Toà án tối cao có nhiệm kỳ cho đến độ tuổi theo luật định (thường là từ 65- 70 tuổi), nhưng ở Mỹ thẩm phán Toà án Tối cao được bổ nhiệm suốt đời – được coi là một trong những yếu tố củng cố sự độc lập của thẩm phán[12].
Thẩm phán Toà án tối cao chỉ bị bãi nhiệm trong những trường hợp theo luật định. Cơ sở cho sự phế truất thường là hành vi không chính đáng hoặc vì nguyên nhân “sự bất lực về trí tuệ hoặc thể chất”. Hiến pháp các nước thường quy định trình tự phế truất phức tạp đối với Thẩm phán toà án tối cao – ở một số nước theo thủ tục luận tội (impeachment), ở nước khác theo quyết định của đa số tuyệt đối trong nghị viện, ở nước thứ ba một uỷ ban điều tra đặc biệt được thành lập và trên cơ sở kết luận của uỷ ban, nguyên thủ quốc gia sẽ đưa ra quyết định.
Hiến pháp một số nước quy định khả năng bổ nhiệm các thẩm phán tạm thời vào Toà án tối cao. Ví dụ ởNamibiatrong những vụ việc về bảo vệ quyền công dân, theo đề nghị của Chánh án, Tổng thống có thể bổ nhiệm tạm thời luật gia “có kiến thức chuyên sâu hoặc kinh nghiệm về lĩnh vực đó” làm quyền thẩm phán.
2- Nhóm các nước có toà chuyên trách

2.1. Cơ cấu tổ chức và thành phần

Các cơ quan bảo hiến ở phần lớn các nước đều có tổ chức đơn giản: ngoài bộ máy hành chính, những cơ quan đó không có thêm một bộ phận tổ chức nào khác. Tòa án hiến pháp có bộ máy hành chính giúp việc phụ trách những việc như tiếp nhận, rà soát đơn kiện, giữ mối liên hệ với công chúng, báo chí; quản lý kinh phí hoạt động của Tòa; quản lý trang thiết bị, thư tín v.v… Tòa cũng có các chuyên gia pháp lý phục vụ chung, ví dụ đề xuất phân công thẩm phán xét xử vụ kiện. Bên cạnh đó, mỗi thẩm phán của Tòa án hiến pháp có một “thư ký”- thường là luật gia đã có nhiều kinh nghiệm, uy tín. Đứng đầu bộ máy này là một quan chức hành chính có trách nhiệm báo cáo với Chánh án[13].
Những vụ việc thuộc thẩm quyền của chúng thường được toàn bộ thành viên xem xét trong phiên họp chung (chỉ cần có số lượng thành viên hợp lệ). Nhưng ở một số nước luật pháp quy định những dạng vụ việc nhất định do một hội đồng hẹp hơn xét xử. Ví dụ ở Áo có thực tiễn không được quy định trong luật là việc tiến hành các phiên xét xử của “phòng nhỏ” ngày càng có ý nghĩa…Các phiên xét xử công khai, toàn thể được dành cho những vụ việc có ý nghĩa chính trị đặc biệt”[14].
Ở một số nước các cơ quan bảo hiến chuyên trách có cơ cấu tổ chức phức tạp hơn (Tây Ban Nha, Đức, Nga, CH Séc…). Tại những nước này toà hiến pháp xem xét và giải quyết vụ việc cả trong các phiên toàn thể cũng như trong các phiên của hai phòng – là những bộ phận tổ chức thường trực của toà hiến pháp. Ở Tây Ban Nha và Đức mỗi phòng có số lượng thẩm phán ngang nhau (ở Tây Ban Nha – 6 người, ở Đức – 8 người). Ở Nga một phòng có 9, phòng khác có 10 thẩm phán với trình tự xác định thành phần do Quy chế của Toà án Hiến pháp thiết lập. Luật pháp những nước này quy định thẩm quyền cho từng phòng cũng như cho đoàn chủ tịch của toà.

2.2. Vị trí pháp lý của các thành viên

Vị trí pháp lý của các thành viên cơ quan bảo hiến chuyên trách không khác với của các thẩm phán toà bình thường. a) Trước hết, đối với họ cũng có yêu cầu về sự không kiêm nhiệm. Thành viên cơ quan bảo hiến không được là nghị sỹ cũng như của bất cứ cơ quan đại diện nào, không được là thành viên chính phủ, công chức nhà nước, không được hoạt động kinh doanh hay hoạt động chuyên nghiệp khác(trừ hoạt động sáng tạo hoặc giảng dạy), không được giữ ghế lãnh đạo trong các đảng phái chính trị (hoặc nói chung không phải là thành viên của đảng).[15]
b) Thứ hai, thành viên của cơ quan bảo hiến chuyên trách, cũng giống như thẩm phán bình thường không bị bãi nhiệm trong suốt thời gian họ được bổ nhiệm, trừ một số trường hợp luật định.
Luật pháp các nước quy định những trình tự, thủ tục khác nhau về việc chấm dứt trước thời hạn quyền hạn của các thành viên cơ quan bảo hiến chuyên trách[16]. Ở đây có thể nhận thấy hai điểm. Một, ở nhiều nước áp dụng các trình tự khác nhau tuỳ theo cơ sở chấm dứt thẩm quyền – trình tự đơn giản hơn (ví dụ khi từ chức tự nguyện) cho đến phức tạp hơn trong trường hợp mất năng lực hành vi, có những hành vi vi phạm kỷ luật hoặc làm mất danh dự, phẩm giá quan toà. Hai, trừ một số ngoại lệ, ở phần lớn các nước, quyết định về việc chấm dứt thẩm quyền của thành viên cơ quan bảo hiến do chính cơ quan đó đưa ra hoặc với sự tham gia của cơ quan đó. Điều này cũng có tác dụng tăng cường tính độc lập của cơ quan bảo hiến chuyên trách.
c) Thứ ba, vị trí pháp lý của thành viên các cơ quan nói trên cũng đảm bảo quyền miễn trừ (trình tự đặc biệt để quy trách nhiệm pháp lý). Trên phương diện này vị trí pháp lý của họ cơ bản giống với vị trí pháp lý của nghị sĩ. Ví dụ ởHungary, thành viên Toà án Hiến pháp có “quyền miễn trừ giống như quyền của nghị sĩ”. Còn Luật về Toà án Hiến pháp Bungary quy định thẩm pháp Toà án Hiến pháp “có vị trí pháp lý như Chủ tịch Quốc hội” (Điều 10).
Số lượng thành viên của các cơ quan bảo hiến chuyên trách không lớn, dao động từ 6 – 19 người tuỳ từng nước ( Pháp – 9, Ý- 15, Nga- 19…). Hiến pháp phần lớn các nước đều quy định số lượng thành viên của những cơ quan đó. Điều này có ý nghĩa chính trị quan trọng, bởi lẽ “trong trường hợp đó sẽ không thể đưa vào thành phần của toà những người ủng hộ cho một đường lối chính trị nào đó bằng cách tăng số lượng quan toà lên”[17]. Để thay đổi số lượng thì cần phải sửa đổi hiến pháp – điều không hề đơn giản.
3. Những điểm khác biệt
Các cơ quan bảo hiến chuyên trách khác biệt một cách căn bản so với các toà án thẩm quyền chung về trình tự thành lập và thành phần. Có thể nói đến một số điểm khác nhau chủ yếu sau đây:
a) Thứ nhất, thông thường có một vài nhánh quyền lực tham gia vào việc hình thành các cơ quan bảo hiến chuyên trách. Ví dụ ở những nước như Áo, Nga, Pháp… các cơ quan này được hình thành với sự tham gia của nhánh lập pháp và hành pháp. Ở nhiều nước các cơ quan nói trên được hình thành với sự tham gia của ba nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp, tư pháp như ở Tây Ban Nha, Ý, Bungary, Hàn Quốc…
Việc phân chia quyền hạn giữa các nhánh quyền lực khi thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách có mục đích nhằm bảo đảm sự độc lập của cơ quan này và tránh khả năng phải phục tùng một nhánh[18]. Nếu có nhiều cơ quan tham gia vào việc bổ nhiệm thẩm phán, thẩm phán không bị phụ thuộc vào một cơ quan, tăng cơ hội độc lập của thẩm phán. Ngoài ra, trên một mức độ nào đó, nó mang lại cho cơ quan bảo hiến tính chất đại diện chính trị, nhất là với sự tham gia của nghị viện có thành phần chủ yếu theo các đảng phái chính trị. Chẳng hạn, quy trình bổ nhiệm thẩm phán Tòa án hiến pháp ở nhiều nước như Hungary được thiết kế nhằm dung hòa tương quan lực lượng giữa các chính đảng[19]. “Ưu thế của nghị viện và gắn liền với nó là chính phủ đảng phái trong quá trình hình thành toà hiến pháp đã phản ánh quan điểm cho rằng thành phần của toà phải là kết quả của sự thương lượng giữa các thế lực chính trị”[20]. Sự thể hiện trên thực tế quan điểm này là việc phân chia các ghế thẩm phán giữa các đảng phái chính trị chủ chốt theo thoả thuận trước.
Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ là ở một số nước cơ quan bảo hiến pháp do nghị viện thành lập (như ở Đức một nửa thành viên Toà án Hiến pháp Liên bang do Thượng viện bầu chọn, một nửa – do Hạ viện).
b) Thứ hai, khác với các thẩm phán của toà có thẩm quyền chung, thành viên của các cơ quan bảo hiến chuyên trách được bổ nhiệm và bầu ra trong một nhiệm kỳ nhất định, tương đối ngắn (nhiều nhất là ở Nga – 12 năm). Chỉ ở một số nước, thời gian giữ chức của họ kéo dài suốt đời đến độ tuổi nhất định (Áo, Thổ Nhĩ Kỳ, LB Nga hiện nay). Trong đó, ở một số nước thành phần của các cơ quan này không thay đổi trong suốt nhiệm kỳ (Bungary, Ý, Nga), ở một số nước khác – luật pháp quy định sự thay đổi thành phần (Tây Ban Nha, Pháp, Ba Lan). Ở phần lớn các nước, thành viên của các cơ quan bảo hiến chuyên trách được bổ nhiệm hoặc bầu chỉ trong một nhiệm kỳ. Chỉ ở một số ít các nước cho phép bổ nhiệm thêm một nhiệm kỳ nữa (Hungary, Hàn Quốc).
Nguyên tắc bổ nhiệm suốt đời (cho đến độ tuổi nào đó) và thành phần không đổi trong thời hạn nhất định dĩ nhiên tăng cường tính độc lập của các cơ quan bảo hiến, nhưng nó cũng cản trở sự thích ứng của các cơ quan đó đối với những diễn biến trong đời sống chính trị, có thể là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn hiến pháp sâu sắc và khó giải quyết giữa chúng và các cơ quan quyền lực nhà nước khác.
Ngược lại, những mâu thuẫn như vậy sẽ được giảm thiểu đáng kể khi các thành viên của các cơ quan dạng này được bổ nhiệm trong thời gian nhất định, nhất là khi thành phần của chúng được thay đổi. Ngoài ra, như Garlicki nhận định, “sự thay đổi thành phần theo định kỳ đã làm cho các toà án hiến pháp thích ứng dễ dàng hơn với tương quan thay đổi giữa các lực lượng chính trị trong nước”[21] Tuy nhiên, trong phương thức hình thành như vậy tiềm ẩn khả năng mất sự độc lập của các cơ quan bảo hiến, nguy cơ lôi kéo cơ quan này vào các cuộc đối đầu giữa các lực lượng chính trị, mà tương quan thay đổi giữa các lực lượng đó tất yếu được phản ánh trong thành phần và do vậy – trong hoạt động của các cơ quan bảo hiến. Sự lựa chọn nguyên tắc nào là phụ thuộc nhiều vào những điều kiện cụ thể của mỗi nước.
c) Thứ ba, khác với thẩm phán của các tòa có thẩm quyền chung thường được bổ nhiệm và thăng tiến từ thấp lên cao nhờ thâm niên và đóng góp trong ngành tòa án, các thẩm phán Tòa án hiến pháp thường được bổ nhiệm từ bên ngoài, nhiều nhất là từ giới học thuật[22]. Ví dụ, cho đến thời điểm 2006, tất cả các thẩm phán Tòa án hiến pháp LB Nga đều là giáo sư luật trước khi được bổ nhiệm.
Không những thế, các cơ quan bảo hiến chuyên trách được thành lập trên cơ sở rộng hơn về “nhân sự”: thành viên của những cơ quan này có thể là giảng viên luật có tiếng, công chức nhà nước, chính trị gia và thậm chí những người không có học vấn pháp lý. Tuy nhiên, hiện nay có xu hướng hình thành các cơ quan này từ các nhân vật có học vấn đại học luật, có thời gian hoạt động chuyên nghiệp lâu năm. Ví dụ như Hiến pháp của Áo quy định mọi thành viên của Toà án Hiến pháp đều phải có “học vấn đại học trong lĩnh vực các khoa học về nhà nước – pháp luật và ít nhất có 10 năm giữ chức vụ theo chuyên nghành nói trên” (Khoản 3, Điều 147).
Thứ tư, bổ nhiệm chánh án
Một trong những vấn đề chính trong tổ chức của các cơ quan bảo hiến chuyên trách là trình tự, thủ tục bổ nhiệm chánh án – nhân vật giữ một trong những vị trí cao nhất trong bảng thứ bậc các chức vụ nhà nước. Quy trình bổ nhiệm Chánh án Tòa án hiến pháp cũng khác với bổ nhiệm Chánh án Tòa án Tối cao.
Có thể nói đến hai phương thức chính: (1) tại nhiều nước chánh án do các thành viên của cơ quan này bầu ra từ các thành viên, điều này bảo đảm đáng kể sự độc lập của cơ quan bảo hiến; (2) ở một số nước nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm chánh án mà không cần tham khảo ý kiến hay sự thoả thuận với một cơ quan quyền lực nhà nước nào khác, kể cả với cơ quan bảo hiến chuyên trách. Trong trường hợp này nguyên thủ quốc gia có khả năng bổ nhiệm người của mình. Tổng thống Pháp, người có “quyền lực vô hạn” trong việc bổ nhiệm thành viên Hội đồng Bảo hiến, có thể “bổ nhiệm những nhân vật đồng quan điểm hoặc thậm chí cùng một đảng với ông ta”[23].
Sự luân phiên các nhân vật đứng đầu cơ quan bảo hiến chuyên trách được quy định trong luật pháp nhiều nước. Ở nhiều nước có Tòa án hiến pháp, các thẩm phán của Tòa này bầu Chánh án và Phó Chánh án, với nhiệm kỳ ngắn hơn khá nhiều so với nhiệm kỳ chung của thẩm phán Tòa án hiến pháp. Ví dụ, nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án hiến pháp LB Nga và Hungary là 3 năm. Bên cạnh đó, nếu chưa hết nhiệm kỳ, các nhân vậy này vẫn có thể phải từ nhiệm nếu các đồng nghiệp bỏ phiếu bất tín nhiệm. Do đó, Chánh án và Phó Chánh án phải giữ được uy tín để có được sự ủng hộ của các đồng nghiệp trong Tòa án hiến pháp, nhưng không chịu tác động của các lực lượng chính trị đã đưa họ vào đây[24].
Ngoài ra còn có những phương án khác: chánh án do Nghị viện bầu (Đức), do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Chính phủ (Áo), với sự đồng ý của Nghị viện (Hàn Quốc), do Nghị viện bầu theo đề nghị của Tổng thống ( Litva).
Người đứng đầu cơ quan bảo hiến chuyên trách có những quyền hạn nhất định. Ở một số nước những quyền hạn đó rất đáng kể (như lá phiếu quyết định), ở nước khác chúng lại có giới hạn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp vai trò thực sự của nhân vật này còn phụ thuộc nhiều vào các phẩm chất cá nhân của ông ta.
III. THẨM QUYỀN BẢO HIẾN VÀ CÁCH XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN
1. Các thẩm quyền của cơ quan bảo hiến [25]
Các cơ quan bảo hiến của từng nước có thẩm quyền khác nhau tùy hoàn cảnh của từng nước. Nhưng nói chung, có thể phân loại các thẩm quyền đó thành bốn nhóm.
a) Thẩm quyền liên quan tới việc bảo đảm tính tối thượng của hiến pháp trong hệ thống luật pháp quốc gia: giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật; giải thích hiến pháp. Theo thẩm quyền này, nếu cơ quan bảo hiến cho rằng một đạo luật không hợp hiến, đạo luật đó không còn hiệu lực pháp lý.
Về thẩm quyền giải thích hiến pháp, ở đây nói đến sự giảng giải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc này đưa ra, có tính chất bắt buộc cho từng vụ kiện hoặc cho tất cả các vụ tương tự, chứ không phải chỉ đơn thuần làm sáng tỏ quy phạm hiến pháp.
b) Thẩm quyền liên quan tới việc bảo đảm sự tuân thủ nguyên tắc phân công quyền lực: xem xét những tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước (giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp), giữa nhà nước và các phần lãnh thổ cấu thành (giữa liên bang và các chủ thể liên bang, giữa các chủ thể liên bang với nhau ở nhà nước liên bang, giữa các cơ quan nhà nước trung ương với các đơn vị lãnh thổ).
c) Thẩm quyền liên quan tới việc bảo vệ các quyền và tự do hiến định: Gồm các quy trình “habeas corpus”, “mandamus” (tiếng Latinh- tôi ra lệnh, có nghĩa là Toà án ra phán quyết buộc người của công quyền phải thực hiện hành vi nào đó đáp ứng quyền lợi của công dân, có hiệu lực chung); “amparo” (tương tự như quy trình “habeas corpus”, nhưng chỉ có hiệu lực trong phạm vi một vụ kiện cụ thể); khiếu kiện bảo hiến. Có thể coi giám sát tiến trình bầu cử và trưng cầu dân ý, giải quyết những tranh chấp về bầu cử thuộc nhóm này, bởi lẽ ở đây nói đến việc bảo vệ một trong những quyền chính trị quan trọng nhất của công dân – quyền bầu cử.
d) Thẩm quyền liên quan tới việc bảo vệ hiến pháp khỏi sự vi phạm của các quan chức nhà nước cao cấp. Tại nhiều nước, các cơ quan bảo hiến có thẩm quyền giải quyết những vấn đề liên quan tới việc truy tố các quan chức cao cấp (nguyên thủ quốc gia, các thành viên chính phủ, các quan tòa…), nhưng ở đây chủ yếu nói tới quy trình luận tội đối với nguyên thủ quốc gia.
Hộp: Thẩm quyền của Tòa án hiến pháp Hàn QuốcTừ khi được thành lập năm 1988 đến 2009, Tòa án hiến pháp Hàn Quốc thụ lý gần 17500 vụ, trong đó khoảng 94% vụ liên quan đến khiếu kiện về các quyền hiến định theo quy định của Điều 68, Luật về Tòa án hiến pháp; 598 vụ về tính hợp hiến của các quy định pháp luật; 61 vụ về tranh chấp thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước; và chỉ có 1 vụ về luận tội Tổng thống[26].
2. Xác định thẩm quyền
Mỗi mô hình cơ quan bảo hiến có phương thức xác định thẩm quyền của mình. Dưới đây xin trình bày thẩm quyền của cơ quan bảo hiến theo từng mô hình: mô hình Mỹ, mô hình châu Âu, mô hình hỗn hợp.
2.1. Mô hình Mỹ
Theo mô hình Mỹ cổ điển, hoạt động bảo hiến không tách rời khỏi hệ thống toà án nói chung. Tại đây không có dạng vụ việc đặc biệt về các vấn đề hiến định, chúng có thể có mặt ở bất cứ vụ việc nào, cho dù đó là vụ hình sự, dân sự,hành chính, và được phán xét ở các toà có thẩm quyền chung, theo một trình tự chung. Hiến pháp và các luật về tổ chức toà án chỉ xác định thẩm quyền chung, chứ không xác định thẩm quyền về các vụ việc hiến pháp (mặc dầu ở các nhà nước liên bang những tranh chấp giữa liên bang và các chủ thể liên bang và giữa các chủ thể liên bang với nhau được quy định riêng). Theo mô hình Mỹ, bất kỳ tòa án liên bang nào cũng có thẩm quyền xem xét, phán quyết về các vấn đề hiến pháp liên bang.
Như vậy, tại những nước này luật pháp không xác định cụ thể phạm vi thẩm quyền của các toà có thẩm quyền chung trong lĩnh vực hiến pháp. Phạm vi đó phụ thuộc vào tính chất của vụ việc được xem xét và trong nhiều trường hợp – vào sự suy xét của toà. Toà án có thể né tránh không xem xét các vấn đề hiến pháp do những nguyên nhân khác nhau. Ví dụ như Toà án tối cao Hoa Kỳ lập nên một số nguyên tắc hạn chế thẩm quyền của Toà trong lĩnh vực hiến pháp. Một trong những nguyên tắc đó là từ chối xem xét những vấn đề “có tính chất chính trị”. Đó là những vấn đề đả động đến chính sách ngoại giao, chiến tranh, vị trí pháp lý của các bộ lạc da đỏ. Như thực tiễn cho thấy nguyên tắc này được Toà án tối cao sử dụng để “tránh né việc xem xét những xung đột về hiến pháp mà Toà không muốn bị lôi kéo vào đó vì những lý lẽ khác nhau”.[27]
Tại những nước theo mẫu của Mỹ nhưng được cải biên, trong các quy định của pháp luật có những điều khoản về thẩm quyền giải quyết một số vấn đề của hiến pháp: giải thích hiến pháp; bảo vệ các quyền và tự do hiến định; giám sát bầu cử; tư vấn về các vấn đề pháp lý…Tại các nhà nước liên bang còn bổ sung thêm tranh chấp giữa liên bang và các chủ thể của liên bang. Việc quy định trong hiến pháp về thẩm quyền bảo hiến của các toà có thẩm quyền chung tại những nước đó đã mang lại cho các toà này tính rõ ràng hơn so với mô hình Mỹ cổ điển. Điều này cũng một phần nào đó xích gần mô hình cải biên với mô hình châu Âu.
2.2. Mô hình châu Âu
Thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến chuyên trách theo mô hình châu Âu giới hạn trong việc chỉ xem xét những vụ việc liên quan đến hiến pháp. Ở các nước có tòa án hiến pháp, chỉ có tòa này mới có thẩm quyền phán xét về các vấn đề hiến pháp. Trên thực tế, ví dụ ở Đức, Áo, Nga, không hiếm khi tòa có thẩm quyền chung tạm dừng và chuyển vụ việc mà tòa đang xét xử đến Tòa án hiến pháp để Tòa án Hiến pháp xem xét vấn đề hiến pháp; sau khi Tòa án Hiến pháp có phán quyết về vấn đề hiến pháp, tòa có thẩm quyền chung mới tiếp tục xét xử vụ việc[28].
Tòa án hiến pháp cũng chỉ xem xét các vấn đề hiến pháp, mà không xem xét các vấn đề thuộc các lĩnh vực pháp luật khác[29]. Phán quyết của Tòa án hiến pháp có tính chất chung thẩm chỉ đối với vấn đề hiến pháp. Do tính chất này, mô hình Tòa án hiến pháp chuyên trách không có ảnh hưởng lớn đối với các ngành khác của hệ thống pháp luật như Tòa án Tối cao ở Mỹ hay Úc, Canada[30]. Mặt khác, đây là một trong những ưu thế của mô hình châu Âu so với mô hình Mỹ, bởi lẽ nhờ đó mà cơ quan bảo hiến chuyên trách không phải đồng thời giải quyết những vấn đề chuyên môn hẹp nhiều lúc rất phức tạp về dân sự, hình sự… và chỉ tập trung vào khía cạnh hiến pháp trong những vụ việc được xem xét.
Ở các nước theo mô hình này, trong việc pháp luật quy định thẩm quyền của cơ quan bảo hiến có hai cách tiếp cận:
i) Ở phần lớn các nước, hiến pháp liệt kê đầy đủ, cụ thể những quyền hạn của cơ quan bảo hiến và danh mục đó được lặp lại trong luật tương ứng về cơ quan bảo hiến. Như vậy, không một đạo luật nào, kể cả luật nói trên không thể thay đổi thẩm quyền của cơ quan bảo hiến bằng cách mở rộng hay thu hẹp danh mục về những quyền hạn đã được hiến pháp thiết lập. Nói cách khác, việc thay đổi thẩm quyền của cơ quan bảo hiến ở những nước này chỉ có thể bằng cách thay đổi những điều khoản thích hợp trong hiến pháp. Một số nhà lý luận cho rằng điều đó bảo đảm tính ổn định cho vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiến, bởi lẽ nhà lập pháp không thể thay đổi cốt lõi của vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiến bằng thủ tục thông thường. Tác giả Favoreu L. còn phát biểu một cách triệt để hơn: “Bất cứ một định chế nào mà sự tồn tại, hoạt động hay các thẩm quyền của nó có nguy cơ bị thay đổi bởi nhà lập pháp hay chính phủ đều không thể được xem xét như toà án hiến pháp, còn với bình diện rộng hơn như hoạt động bảo hiến”[31].
Tuy nhiên, một số nước thuộc nhóm này không phải mọi lúc đều theo đuổi nguyên tắc nói trên một cách triệt để. Ví dụ, CH Pháp, nơi mà thẩm quyền của Hội đồng bảo hiến được mở rộng bằng các đạo luật, thậm chí bằng các sắc lệnh và bởi bản thân Hội đồng[32].
ii) Ở một số nước, hiến pháp không liệt kê danh mục các thẩm quyền của cơ quan bảo hiến, chúng có thể được bổ sung hoặc thu hẹp bằng đạo luật (Tây Ban Nha, Séc, Đức). Ví dụ như ở Tây Ban Nha Toà án hiến pháp có thể đưa ra các phán quyết về những vấn đề không chỉ được quy định trong Hiến pháp, mà còn trong các đạo luật. Hay Đạo luật cơ bản của CHLB Đức quy định Toà án Hiến pháp hành động “trong những trường hợp do luật pháp liên bang chỉ ra” (Điều 93, Phần 2). Ngược lại, ở CH Séc luật có thể quy định những trường hợp mà theo đó Toà án Hành chính tối cao có thể thay Toà án Hiến pháp giải quyết một số vấn đề thuộc hiến pháp.
2.3. Mô hình hỗn hợp
Mô hình hỗn hợp kết hợp cả hai phương thức xác định thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến. Tại các toà án bình thường, hoạt động bảo hiến không tách rời khỏi hoạt động xét xử truyền thống, còn các cơ quan bảo hiến chuyên trách theo hình mẫu châu Âu có thẩm quyền xét xử về những vấn đề hiến pháp riêng biệt đã được quy định trong hiến pháp và các luật ( Bồ Đào Nha, Nam Phi, Hy Lạp). Một vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phân định thẩm quyền giữa toà hiến pháp và các toà bình thường về các vấn đề hiến pháp. Ví dụ điển hình là các quy định của Hiến pháp Nam Phi 1994 về thẩm quyền của Toà án hiến pháp, Toà án Tối cao và các bộ phận của Toà này ở các tỉnh, các toà cấp dưới khác.

IV- GIÁM SÁT TÍNH HỢP HIẾN CỦA VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1- Đối tượng giám sát
Đối tượng của giám sát bảo hiến là những văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến. Tùy thuộc vào phạm vi hiến định của cơ quan bảo hiến được xem xét những văn bản nào mà người ta phân biệt giám sát tổng thể và giám sát có giới hạn. Đối với loại thứ nhất không hề có sự giới hạn đối tượng, mọi dạng văn bản pháp luật đều thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến (luật, văn bản của nguyên thủ quốc gia, của nhánh hành pháp, của chính quyền địa phương). Đối với loại thứ hai luật pháp quy định cụ thể những dạng văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến.
Thông thường người ta cho rằng giám sát tổng thể tiêu biểu cho mô hình Mỹ, còn giám sát có giới hạn – cho mô hình Châu Âu. Nhưng hiện nay sự phân biệt đó không còn rõ ràng như vậy nữa: ngày càng rõ nét xu hướng mở rộng đối tượng giám sát ở các nước theo mô hình Châu Âu, ngày càng có nhiều hơn các dạng văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến, trong đó đặc biệt có ý nghĩa là các văn bản trong lĩnh vực lập pháp uỷ quyền. Trên phương diện này, có thể nói đã có sự xích lại gần hơn giữa hai mô hình.

2. Các dạng giám sát tính hợp hiến

Để phân loại các dạng giám sát tính hợp hiến, có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau: thời điểm tiến hành giám sát, tính chất giám sát, giám sát hình thức hay nội dung…Trong bài viết này xin tập trung vào hai dạng giám sát.
2.1. Theo thời điểm tiến hành giám sát
Người ta phân biệt hai hình thức giám sát tính hợp hiến theo thời điểm giám sát: giám sát trước và giám sát sau. Hình thức thứ nhất là kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật trước khi thông qua, công bố hoặc có hiệu lực, hình thức thứ hai – kiểm tra tính hợp hiến của những văn bản pháp luật đang có hiệu lực.

Giám sát trước

Trước hết, hình thức giám sát này hạn chế việc thông qua những văn bản không hợp hiến. Ngoài ra, bằng hình thức này có thể tránh được việc huỷ bỏ những văn bản liên quan đã được ban hành trên cơ sở văn bản không hợp hiến và như vậy bảo đảm sự ổn định của lập pháp, hạn chế lãng phí về thời gian, tiền của, công sức.
Chố yếu lớn nhất của hình thức giám sát trước là nó tạo điều kiện cho cơ quan bảo hiến can thiệp vào công việc lập pháp của Nghị viện, mà điều này lại chứa nguy cơ tiềm ẩn chính trị hoá cơ quan bảo hiến. Ngoài ra, nếu ở một nước chỉ có giám sát trước, trong quá trình áp dụng pháp luật phát hiện thấy tính không hợp hiến thì văn bản đó vẫn không bị huỷ bỏ vì không có quy trình để huỷ bỏ và vẫn được coi là hợp hiến.

Giám sát sau

Nhược điểm của giám sát trước lại là ưu điểm của giám sát sau và ngược lại. Không can thiệp vào quá trình lập pháp, khả năng kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật có tính đến thực tế áp dụng của toà án và các cơ quan hành chính (mà điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ các quyền và tự do hiến định) – những đặc điểm này tạo nên ưu thế chính của giám sát sau.

Việc áp dụng hai hình thức này ở các nước

Tại những nước theo mô Mỹ cổ điển không có hình thức giám sát trước. Ở những nước theo mô hình Mỹ cải biên hình thức này được áp dụng có giới hạn và phần lớn mang tính chất tư vấn, theo yêu cầu của nguyên thủ quốc gia.
Các nước theo mô hình châu Âu chủ yếu dùng hình thức giám sát sau. Giám sát trước được áp dụng rất hạn chế, chỉ trong những trường hợp như: đối với những điều ước quốc tế chưa có hiệu lực nhằm tranh xung đột pháp luật giữa luật quốc tế và nội luật; khi có tranh chấp về thẩm quyền lập pháp mà đối tượng tranh chấp là các văn bản luật…
Tại Pháp và một số nước nói tiếng Pháp lại chỉ áp dụng hình thức giám sát trước và chủ yếu trước khi Tổng thống ký công bố.
Bên cạnh đó có xu hướng áp dụng cả hai hình thức. Ví dụ ở Bồ Đào Nha các toà thẩm quyền chung thực hiện giám sát sau, còn Toà án Hiến pháp áp dụng cả hai hình thức.
2.2. Giám sát trừu tượng và giám sát cụ thể

Khái niệm chung

Giám sát trừu tượng – cơ quan bảo hiến xem xét tính hợp hiến của văn bản pháp luật không liên quan đến vụ việc cụ thể hay quyền lợi cụ thể. Lý do để tiến hành sự kiểm tra như vậy là bất kỳ sự nghi ngờ nào về tính hợp hiến của văn bản pháp luật[33]. Những chủ thể nào có quyền đề nghị giám sát trừu tượng ? Thông thường đó là các cơ quan nhà nước và các quan chức, nghị sỹ. Nhưng ở một số nước công dân và hiệp hội của họ cũng có quyền đề nghị cơ quan bảo hiến giám sát trừu tượng. Ở hầu hết các nước có hệ thống này, Hiến pháp quy định chỉ một số chủ thể như Tổng thống, Chủ tịch hai viện của nghị viện, hoặc một số lượng nghị sỹ nhất định mới có quyền đề nghị Tòa án hiến pháp xem xét tính hợp hiến của văn bản pháp luật (Ví dụ như Hiến pháp LB Nga, điều 125(2). Nhưng cũng có số ít nước như Hungary, Hiến pháp trao cho cá nhân công dân quyền này (Hiến pháp Hungary, điều 32A(3). Nếu cho rằng luật, điều luật trái Hiến pháp, Tòa án hiến pháp sẽ tuyên hủy bỏ luật, điều luật đó; hoặc buộc nghị viện hoặc chính phủ chỉnh lý trong một thời gian nhất định. Như vậy, các phán quyết của Tòa án hiến pháp hướng đến chính phủ, chứ không chỉ đơn thuần các bên kiện tụng.
Giám sát cụ thể – cơ quan bảo hiến kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật liên quan đến một vụ việc cụ thể bảo vệ lợi ích cụ thể. Chủ thể có quyền đề nghị tiến hành giám sát bảo hiến ở đây chủ yếu là các pháp nhân và thể nhân.
Áp dụng các dạng giám sát
Việc áp dụng hai dạng giám sát này khác nhau ở các nước. Mô hình Mỹ cổ điển chỉ áp dụng giám sát cụ thể, do các toà có thẩm quyền chung thực hiện trong quá trình xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Các nước mô hình Mỹ cải biên áp dụng có giới hạn giám sát trừu tượng (chủ yếu cùng với việc ra đời chế định thanh tra Quốc hội).
Đối với các nước mô hình châu Âu và mô hình hỗn hợp (ngoài Pháp và một số nước châu Phi nói tiếng Pháp chỉ áp dụng giám sát trừu tượng), hai dạng giám sát nói trên được kết hợp với nhau. Trong đó giám sát cụ thể có hai trường hợp:
i) Toà án thẩm quyền chung dừng xét xử vụ án khi cho rằng quy phạm cần áp dụng không hợp hiến và chuyển kiến nghị lên cơ quan bảo hiến về việc kiểm tra tính hợp hiến của quy phạm đó[34]. Toà có thể chủ động làm điều này hoặc theo yêu cầu của một bên tranh chấp. Trường hợp này phổ biến hơn trường hợp thứ hai;
ii) Cơ quan bảo hiến kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật trong quá trình xem xét đơn khiếu kiện về quyền con người. Một mặt, có thể coi đây không phải là giám sát cụ thể, bởi lẽ tính hợp hiến của văn bản pháp luật  là vấn đề phát sinh ra khiếu kiện bảo hiến, chứ không phải phái sinh từ khiếu kiện bảo hiến. Nhưng mặt khác, ở đây nói đến việc bảo vệ những quyền lợi cụ thể – những quyền chủ quan của công dân. Và như vậy, trên bình diện này đó lại là giám sát cụ thể.

Lợi thế của việc kết hợp: Kết hợp cả hai dạng giám sát nói trên là giải pháp tối ưu, bởi lẽ cho phép cơ quan bảo hiến “dung hoà giữa bảo vệ các quyền của công dân và bảo vệ tính thống nhất của hệ thống pháp luật, trong đó có cả tính tối cao của Hiến pháp”[35]. Như vậy nó nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chính của tư pháp bảo hiến.

Thực tiễn hoạt động của toà án hiến pháp nhiều nước châu Âu cho thấy giám sát cụ thể chiếm khối lượng chính trong công việc của những toà này, đặc biệt ở Đức, Áo, Italia. Ví dụ như Toà án Hiến pháp Liên bang Đức từ năm 1953 đến 1984 chỉ có 82 phán quyết theo trình tự giám sát trừu tượng, nhưng có tới 2200 – theo trình tự giám sát cụ thể, còn Toà án Hiến pháp Italia từ 1948-1976 là 406 và 5761[36].

3. Hệ quả pháp lý của giám sát tính hợp hiến

3.1. Tính chất bắt buộc của phán quyết

Trừ một số trường hợp[37], phán quyết của cơ quan bảo hiến về tính hợp hiến của văn bản pháp luật có tính chất bắt buộc. Và ở đây có sự khác biệt giữa các mô hình:

Theo mô hình Mỹ

Phán quyết của toà có thẩm quyền chung chỉ bắt buộc đối với các bên tham gia một vụ việc cụ thể liên quan đến kiểm tra tính hợp hiến. Bên cạnh đó, ở các nước thông luật, phán quyết của toà án tối cao có tính bắt buộc đối với các toà cấp dưới (nhưng không nhất thiết bắt buộc đối với các phán quyết của chính toà án tối cao và toà có thể huỷ bỏ phán quyết trước đó của mình. “Toà án Tối cao – Hiến pháp Ấn Độ quy định trong Điều 137- có quyền xem xét lại bất kỳ phán quyết hoặc lệnh của Toà đưa ra trước đó”. Trong một phán quyết của mình, Toà án Tối cao Ấn Độ cũng bày tỏ quan điểm: “Hiến pháp Ấn Độ không cấm Toà huỷ bỏ phán quyết trước đó nếu Toà tin chắc rằng phán quyết sai trái và sẽ gây ra những hậu quả tai hại cho các quyền lợi xã hội”.

Mô hình châu Âu và mô hình hỗn hợp

Theo mô hình này, phán quyết của cơ quan bảo hiến về tính hợp hiến của văn bản pháp luật có tính chất bắt buộc chung đối với mọi đối tượng, có tính chung thẩm, không được khiếu kiện. Những văn bản được coi là không hợp hiến sẽ bị huỷ bỏ và điều này được quy định rõ ràng trong luật pháp.
Tuy nhiên, trên thực tế, khác biệt nói trên giữa hai mô hình không đến nỗi lớn lắm, nhất là ở những nước có truyền thống lâu đời và vững chắc trong lĩnh vực này. Nếu toà án tối cao ở những nước như Mỹ, Canada, Na Uy cho rằng một đạo luật không hợp hiến, về hình thức đạo luật đó vẫn tiếp tục có hiệu lực, nhưng không một toà nào sẽ áp dụng nó nữa. Như vậy, đạo luật không còn được toà án bảo vệ, sẽ không còn hiệu lực pháp lý thực tế. Do đó, mặc dầu về lý thuyết phán quyết của toà án tối cao không bắt buộc chung cho mọi đối tượng, nhưng không một cơ quan hành chính nào sẽ áp dụng nó, bởi lẽ sẽ vô ích: quyết định hành chính có thể bị khiếu kiện lên toà, mà đối với toà, đạo luật mà cơ quan hành chính dựa vào đã không còn tồn tại. Và thông thường Nghị viện sẽ nhanh chóng huỷ bỏ đạo luật đó.
V- LỰA CHỌN CHO VIỆT NAM: MỘT VÀI BĂN KHOĂN
Dường như ở Việt Nam không còn tranh luận về sự cần thiết thành lập cơ chế bảo hiến nữa, nhất là khi đã có những tuyên bố, quy định của Hiến pháp và pháp luật về nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của Hiến pháp v.v…Từ cấp cao nhất là văn kiện của Đảng Cộng sản ViệtNamđã có chủ trương nghiên cứu thành lập cơ chế này. Ý nghĩa, tầm quan trọng của nó đã được thừa nhận. Như vậy, có thể nói, ViệtNamđã có sự lựa chọn giữa không và có trong việc thành lập cơ chế bảo hiến.
Vấn đề cần phải bàn nhiều hiện nay là lựa chọn mô hình bảo hiến nào ở ViệtNam. Tác giả bài viết này chưa đề xuất một mô hình cụ thể đối với Việt Nam, vì không đủ tự tin, nhận thấy thiết lập cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay quá khó. Trước khi lựa chọn mô hình thích hợp cho ViệtNam, cần phải giải đáp sáng rõ vài băn khoăn liên quan đến việc áp dụng cơ chế bảo hiến vào ViệtNam.
Trước hết, cần làm rõ sự tương thích của cơ chế bảo hiến với nguyên tắc thống nhất quyền lực ở Việt Nam[38]. Có tác giả đề xuất cần nhìn nhận vấn đề một cách linh hoạt hơn: khi Hiến pháp đã được đặt ở hệ cấp tối thượng thì tất cả các định chế quyền lực đều dưới Hiến pháp, kể cả Quốc hội. Vấn đề thống nhất quyền lực chỉ còn là vấn đề không tạo ra một cơ chế mâu thuẫn, đối trọng giữa Quốc hội và Chính phủ như: Chính phủ không được yêu cầu giải tán Quốc hội, và Quốc hội cũng không được lật đổ Chính phủ, Chính phủ không được từ chức tập thể[39]. Trong bối cảnh nhận thức như vậy về thống nhất quyền lực, tài phán hiến pháp không mâu thuẫn với nguyên tắc căn bản này của việc tổ chức quyền lực nhà nước ở ViệtNam. Ngược lại, cũng không ít ý kiến cho rằng, cơ chế bảo hiến không phù hợp với nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước.
Hơn nữa, nếu không mâu thuẫn với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, vậy vị thế của cơ quan bảo hiến ở đâu? Chẳng hạn, đối với mô hình tòa án bảo hiến chuyên trách, một số nhà nghiên cứu giải thích tại sao mô hình này lan truyền rộng rãi như vậy trên thế giới, nhất là sau khi có thay đổi đột biến về chính trị-xã hội. Theo họ, bối cảnh lúc ra đời mô hình này thôi thúc các nước phải thành lập một thiết chế kiểm soát quyền lực đứng ngoài lập pháp, hành pháp và đặc biệt là đứng ngoài tư pháp[40]. Thực tế này đặt ra một số câu hỏi đối với ViệtNam như: liệu bối cảnh hiện nay đã đến độ phải có một thiết chế kiểm soát quyền lực như vậy hay chưa? Nếu có, thiết chế đó đứng ngoài như thế nào để hoạt động được? v.v…
Băn khoăn thứ hai liên quan đến năng lực để thực hiện cơ chế bảo hiến. Như đã thấy, thẩm phán cơ quan bảo hiến ở các nước phải là những người có uy tín rất cao về chuyên môn luật và đạo đức; đó là những chuyên gia hàng đầu trong giới luật. Không những thế, năng lực của cơ quan bảo hiến còn phải được bảo đảm bằng những yếu tố hỗ trợ như bộ máy, con người, thư ký, thông tin v.v…Ở Việt Nam, dường như tiêu chí chuyên môn nhiều khi nhường chỗ cho yếu tố chính trị, có thể ảnh hưởng đến yếu tố chuyên môn của công tác bảo hiến. Mặc dù cơ chế bảo hiến ở các nước không phải không liên quan đến chính trị, nhưng cơ bản nó mang tính chuyên môn pháp lý rất cao. Hơn nữa, đây lại là cơ chế rất mới ở ViệtNam, vì vậy yếu tố năng lực càng cần được chú trọng.
Băn khoăn thứ ba về tính độc lập của cơ chế bảo hiến, dù đó là Tòa án bảo hiến, Tòa án tối cao, hay là một mô hình khác. Qua các phần trình bày trên, có thể thấy cần có những yếu tố để bảo đảm sự độc lập này như: cách thức thành lập, bổ nhiệm thẩm phán, nhất là chánh án, nguồn lực v.v…Một nghiên cứu về hai chánh án nổi tiếng của Tòa án hiến pháp LB Nga và Hungary đầu những năm 1990 cho thấy, hai chánh án này luôn giữ được sự độc lập trước các sức ép khác nhau trong bối cảnh chính trị phức tạp[41]. Đó là nhờ các yếu tố nói trên, cộng với phẩm chất cá nhân của hai thẩm phán. Mà các phẩm chất đó là của những cá nhân được chọn lựa một cách đúng đắn nhờ một quy trình minh bạch.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam, liên quan đến tính độc lập, một trong những yếu tố hết sức quan trọng là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với các thiết chế nhà nước như cơ quan bảo hiến. Đã có khá nhiều ý kiến, trong đó có những ý kiến của các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản qua các thời kỳ về việc không nên để xảy ra tình trạng Đảng bao biện làm thay công việc của Quốc hội, của Chính phủ, không đặt Quốc hội trước sự đã rồi[42]. Cũng như vậy, đối với hoạt động của cơ quan bảo hiến sau này, đây là yếu tố hàng đầu bảo đảm sự độc lập của cơ quan này.
Băn khoăn thứ tư liên quan đến nhu cầu sử dụng cơ chế bảo hiến. Như đã nói, mặc dù trong những năm gần đây, sự cần thiết thành lập cơ chế bảo hiến không còn là vấn đề tranh luận nhiều, nhưng khi đã thành lập, nhu cầu sử dụng cơ chế bảo hiến sẽ ở mức độ nào? Có cao không? Hay là thành lập ra nhưng chỉ xét xử mỗi năm vài vụ? Tâm lý chung của xã hội, người dân và các chủ thể công ở ViệtNamđều ngại ra tòa nói chung, chứ chưa nói đến một thiết chế hoàn toàn mới lạ như cơ quan bảo hiến.
Băn khoăn thứ năm liên quan đến sự phân định giữa cơ quan bảo hiến và những thiết chế hiện có ở Việt Namđể thực hiện kiểm soát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật như thẩm định, thẩm tra. Khi tìm hiểu các sự lựa chọn đối với các nước về mô hình bảo hiện, một số nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến những thiết chế có tính chất tư vấn như các cơ quan quốc gia phụ trách quyền con người, Thanh tra nghị viện, các Ủy ban thông tin, Ủy ban bầu cử, Ủy ban về hiến pháp của nghị viện v.v…[43] Đây là thông tin đáng chú ý đối với Việt Nam, khi mà những băn khoăn như đã nói vẫn còn nhiều.
Cuối cùng, dù theo mô hình nào thì mục đích cuối cùng của những cơ quan này là bảo vệ hiến pháp – đạo luật tối cao của đất nước; bảo đảm nhà nước pháp quyền. Tính tối thượng của hiến pháp không chỉ bao hàm sự tuân thủ của những nguồn luật pháp khác, mà còn của tất cả các nhánh khác của quyền lực nhà nước, trong đó có quyền lập pháp. Hoạt động bảo hiến dù với hình thức hiến định nào chăng nữa đều thực hiện những nhiệm vụ chung về bảo vệ hiến pháp: bảo đảm sự ổn định và tối cao của hiến pháp, sự tuân thủ những mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, bảo vệ những quyền và tự do hiến định của con người.

[1] Marbury v. Madison, 5 U.S. 137, 177–78 (1803); xem thêm: John E. Ferejohn, Constituional Review in the Global Context, Legislation and Public Policy, Vol. 6:49, p. 50, Richard C. Schroeder (ed.), An Ouline of American Government, 1990, P. 95.
[2] John E. Ferejohn, tlđd; xem thêm về mô hình bảo hiến của Áo trong bài viết: Bùi Huy Tùng, Mô hình Tòa án Hiến pháp ở Cộng hòa Áo, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 173, thang 6/2010.
[3] Tom Ginsburg, The Global Spread of Constitutional Review, in OXFORD HANDBOOK OFLAW AND POLITICS, Keith Whittington and Daniel Keleman, eds., 2008; John E. Ferejohn, tlđd.
[4] Dữ liệu của University of Illinois Comparative Constitutions Project, có tại địa chỉ: netfiles.uiuc.edu/zelkins/constitutions
[5] A. Mavčič, The Constitutional Review, 2001.
[6] Xem thêm về giám sát bảo hiến tập trung giám sát bảo hiến phi tập trung trong Aurel Croissant, Provisions, Practices and Performances of Constitutional Review in Democratizing East Asia, paper presented at the Conference: Whatever Happened to North-South? Section: Transitional Justice, Reconciliation and the Quality of Democracies, Panel: Constitutional Courts – Advocates or notaries of democracy?Sao Paulo, February 19th, 2011.
[7] Garlicki L., Chế độ hiến pháp một số nước châu Âu, Moskva, 1987, tr. 61.
[8] Như trên.
[9] Favoreu L., Toà án hiến pháp, sách dịch từ tiếng Pháp, Moskva, 1992, tr. 22.
[10] Bobotov S.V, Hoạt động bảo hiến, Moskva, 1994, tr. 54-57; Favoreu L. tlđd, tr. 6-16.
[11] Lee Epstein; Jack Knight; Olga Shvetsova, The Role of Constitutional Courts in the Establishment and Maintenance of Democratic Systems of Government, Law & Society Review, Vol. 35, No. 1. (2001), pp. 117-164, p. 121; Wojciech Sadurski, Constitutional Review in Europe and in theUnited States: Influences, Paradoxes, and Convergence,SydneyLawSchool Legal Studies Research Paper No 11/15, 2011.
[12] Erik S. Herron; Kirk A. Randazzo, The Relationship between Independence and Judicial Review in Post-Communist Courts, The Journal of Politics, Vol. 65, No. 2 (May, 2003), pp. 425-426.
[13] Kim Lane Scheppele, Guardians of the Constitution: Constitutional Court Presidents and the Struggle for the Rule of Law in Post-Soviet Europe, University ofPennsylvania Law Review [Vol. 154: 1757], p.
[14] Favoreu L., Tlđd, Tr. 36.
[15] Tuy nhiên, ở Đức cho phép thẩm phán Toà án Hiến pháp là thành viên của đảng chính trị.
[16] Aurel Croissant, tlđd.
[17] Luật hiến pháp các nước trên thế giới, Chủ biên Strashun, Moskva, 1996, tr. 73.
[18] Erik S. Herron; Kirk A. Randazzo, The Relationship between Independence and Judicial Review in Post-Communist Courts, The Journal of Politics, Vol. 65, No. 2. (May, 2003), pp. 425-426.
[19] Kim Lane Scheppele, Guardians of the Constitution: Constitutional Court Presidents and the Struggle for the Rule of Law in Post-Soviet Europe,University ofPennsylvania Law Review [Vol. 154: 1757], p.1767.
[20] Garlicki L., Tlđd, tr. 94.
[21] Garlicki L, tlđd, tr. 85.
[22] Kim Lane Scheppele, tlđd, tr.1768.
[23] Favoreu L. Tlđd, tr. 17.
[24] Kim Lane Scheppele, tlđd, tr.1768.
[25] Xem cụ thể hơn về các thẩm quyền này trong các bài viết: “Thẩm quyền của cơ quan bảo hiến các nước”, Nguyễn Đức Lam, NCLP số 7/2001; “Pháp luật các nước về kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật”, Nguyễn Đức Lam, NN&PL, số 12/2002.
[26] Aurel Croissant, tlđd.
[27] Jidkov O. A. Toà án tối cao Hoa Kỳ: pháp luật và chính trị, Moskva, 1985, tr. 122.
[28] Kim Lane Scheppele, tlđd, tr.1762.
[29] Kim Lane Scheppele, tlđd, tr.1761, 1762.
[30] Kim Lane Scheppele, tlđd, pp.1761, 1762.
[31]  Favoreu L. Toà án hiến pháp, Moskva, 1992. Tr. 17.
[32]  Favoreu L., Philip L. Hội đồng bảo hiến, Moskva, 1991, tr. 159.
[33] Kim Lane Scheppele, xem chú thích số, p.1762.
[34] Kim Lane Scheppele, tlđd, tr.
[35] Garliski L., tldd, tr.234.
[36]  Như trên, tr.318.
[37] Nếu cơ quan bảo hiến đưa ra phán quyết về tính hợp hiến của văn bản pháp luật khi thực hiện chức năng tư vấn, theo đề nghị của Chính phủ, phán quyết đó không có tính chất bắt buộc, chỉ mang ý nghĩa như một ý kiến có uy tín về đạo luật mà Chính phủ muốn thăm dò trước khi đưa ra thông qua.
[38] Xem thêm Bùi Ngọc Sơn, Tài phán hiến pháp và viễn cảnh chủ nghĩa hợp hiến ở Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp số 4 (141) tháng 2/2009; Võ Trí Hảo – Hà Thu Thủy, Những vấn đề lý luận của việc thành lập tài phán hiến pháp ở Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp số 121, tháng 4 năm 2008.
[39] Bùi Ngọc Sơn, như trên.
[40] John E. Ferejohn, tlđd. Tr.56.
[41] Kim Lane Scheppele, tlđd.
[42] Ví dụ như: Nguyễn Như Du, “Đồng chí Nguyễn Văn Linh với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội”, Nghiên cứu Lập pháp, số 9,2002; Nguyễn Như Du, “Đồng chí Võ Chí Công với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội”, Nghiên cứu Lập pháp, số 11, 2002; Vietnamnet ngày 20/4/2006, “Đảng đổi mới lãnh đạo bằng dân chủ và pháp quyền”, http://vietnamnet.vn/ ; Tuổi Trẻ ngày 26/4/2006, “Tổng bí thư Nông Đức Mạnh: Đẩy lùi, chặn đứng tham nhũng, tiêu cực” http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=134681&ChannelID=3
[43] Christopher S.Elmendorf, Advisory Counterparts to Constiutional Courts, Duke Law Journal, Vol 56, N.4, 2/2007.

Nguồn: Văn phòng Quốc hội