Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Chứng cứ và vài trò của chứng cứ trong vụ án hình sự

1. Khái niệm chứng cứ:
Một vụ án hình sự xảy ra bao giờ cũng để lại dấu vết và những dấu vết đó được thể hiện dưới những hình thức khác nhau, mà những dấu xết này có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào những dấu vết đã thu thập được để khởi tố, truy tố hay xét xử một người đã có hành vi phạm tội. Nhưng dấu vết đó được gọi là chứng cứ.
Chứng cứ trong tố tụng hình sự là những gì có thật, có liên quan đến vụ án, được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Chứng cứ được xác định bằng: 
- Vật chứng;
- Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
- Kết luận giám định;
- Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.

2. Đặc điểm chứng cứ: Có 3 đặc điểm:
- Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra.
- Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này.
- Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ. 
Trong thực tế, tính hợp pháp của chứng cứ được xác định thông qua hoạt động chứng minh được toà án và tất cả người tham gia tố tụng thực hiện và tuân thủ.

* MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ:
Điều 11 BLTTHS có quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Như vậy, khi luật sư- người bào chữa được khách hàng mời bào chữa cho họ, tức là luật sư được tham gia vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử, được đọc các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án đó. Và để tham gia vào vụ án hình sự, luật sư được trao một số quyền, trong đó có những quyền liên quan đến chứng cứ, như:
- Phát hiện và thu thập chứng cứ.
- Đánh giá chứng cứ.
- Sử dụng chứng cứ. 
Cụ thể, tại Điều 58 BLTTHS quy định “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa”:
- Thu thập, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bị mất nhà nước, bị mất công tác;
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu:
Khi làm công việc trên, luật sư phải tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật, như “Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án”.
Tuy nhiên, Mục đích của luật sư trong quyền đưa ra chứng cứ khác với những cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi luật sự, trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khác nhau về vụ án. Trong thực tế, cũng có trường hợp, luật sư không được sử dụng chứng cứ thu thập được, bởi nếu sử dụng chứng cứ đó sẽ làm xấu đi tình trạng của thân chủ. Đó là trong trường hợp, bị can không thừa nhận tội lỗi, nhưng trong quá trình tìm hiểu vụ việc, luật sư phát hiện ra những chứng cứ buộc tội bị can, vì vậy, luật sư không có quyền đưa ra chứng cứ đó, bởi như vậy sẽ vi phạm đức đức nghề nghiệp, khi đó luật sư chỉ có thể từ chối bào chữa mà thôi.
Trong trường hợp, những chứng cứ mà luật sư thu thập được về cơ bản là xác định giá trị buộc tội của các chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng dùng để chứng minh bị can, bị cáo phạm tội. Để bào chữa có hiệu quả, luật sư phải có ý kiện để phản biện (một phần hoặc toàn bộ) chứng cứ buộc tội đó, có những kiến nghị, đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định khác nhau như điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút cáo trạng, thay đổi tội danh nhẹ hơn, áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị nêu trong bản luận tội, để hội đồng xét xử cân nhắc khi định tội danh, quyết định hình phạt cho bị cáo.
Nói chung, tuỳ theo khách hàng là ai, bị can, bị cáo hay đương sự, luật sư sẽ có định hướng cho việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ khác nhau, nhưng bao giờ, khi đưa ra chứng cứ, luật sư cũng phải đảm bảo hướng có lợi nhất cho thân chủ- khách hàng của mình.
Theo quy định của pháp luật tố tụng Luật sư được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Khi tham gia tố tụng Luật sư được tham gia với hai mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo lợi ích hợp pháp của thân chủ và góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án bảo đảm cho công tác xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Khi tham gia trong tố tụng dù với vai trò là người bào chữa cho của bị can, bị cáo hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo lợi ích hợp pháp của đương sự… thì Luật sư cùng với thân chủ của mình luôn trở thành một bên trong tố tụng. Do đó khi đã trở thành một bên trong tố tụng thì Luật sư phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức của mình trong đó có kiến thức về chứng cứ nhằm bác lại quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì vậy, có thể nói, sự hiểu biết về lý luận chứng cứ và khả năng sử dụng chứng cứ trong tố tụng là những điều kiện quan trọng bảo đảm sự thành công của Luật sư trong tranh tụng.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải được tôn trọng và bảo vệ. Bằng hoạt động của mình, Luật sư giúp bị can, bị cáo giúp bị can, bị cáo thực hiện tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nghĩa vụ của họ theo quy định pháp luật, đồng thời giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết và xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Quá trình điều tra vụ án hình sự có những đặc thù riêng so với các hoạt động tố tụng khác, những đặc thù của giai đoạn này có ảnh hưởng, tác động nhất định đến hoạt động bào chữa. So với giai đoạn khác hoạt động bào chữa trong giai đọan này có những đặc điểm riêng, đó không phải là sự cọ sát chứng cứ trực tiếp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội như ở giai đoạn xét xử . Những thông tin, tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho việc xác định sự thật của vụ án đối với Luật sư không nhiều nhưng những thông tin tài liệu, chứng cứ đó lại rất quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi cho bị can. Do vậy Luật sư cần phải biết tập trung thời gian, công sức trí tuệ để nghiên cứu, đánh giá tính hợp pháp của những thông tin, tài liệu, chứng cứ đó.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự (BLTTHS) nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan và những người tiến hành tố tụng, điều này có nghĩa rằng những người nói trên có nghĩa vụ phải đi thu thập chứng cứ. Điều 19 BLTTHS quy định kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại,… đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu tranh luận trước toà án.
Bộ luật TTHS năm 1998 chỉ quy định quyền đưa ra chứng cứ của Luật sư mà không quy định quyền thu thập chứng cứ của luật sư. Kế thừa và phát triển những quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước đây, Bộ luật TTHS năm 2003 đã có quy định Luật sư có quyền đưa ra các tài liệu đồ vật yêu cầu mà trong giai đoạn điều tra Cơ quan điều tra chưa phát hiện được. Trong trường hợp này Luật sư có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra xem xét nhưng chỉ khi chứng cứ có có lợi cho bị can và không làm xấu đi tình trạng của bị can như chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can nếu bị can thực sự vô tội; chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can không đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ sơ thể hiện ; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà Cơ quan điều tra chưa thể hiện trong hồ sơ. Giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự là phạm vi các tình tiết, các dấu hiệu cần và đủ phải chứng minh để khẳng định một người phạm tội hay không phạm tội; giới hạn chứng minh một người phạm tội cụ thể nào đó bao giờ cũng rộng hơn giới hạn chứng minh người đó không phạm tội. Để chứng minh một người phạm tội cơ quan tiến hành tố tụng, người bị hại và luật sư của người bị hại cần phải có đủ các chứng cứ để chứng minh là hành vi phạm tội của người phạm tội phải có đủ 4 yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm, còn để chứng minh người đó không phạm tội, bị can, bị cáo, người bào chữa cho bị can, bị cáo chỉ cần chứng minh là không có một trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm đó. Nói một cách khác, để buộc tội cần phải có nhiều chứng cứ, còn để gỡ tội có khi chỉ cần một chứng cứ
Ví dụ như: Bằng chứng ngoại phạm; theo giấy khai sinh, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; theo bệnh án, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Sử dụng chứng cứ để phục vụ cho công việc là một trong những nhiệm vụ của Luật sư, nếu như đánh giá được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng thì việc sử dụng chứng cứ cũng vậy. Trước hết Luật sư sử dụng chứng cứ để làm căn cứ để đề xuất, kiến nghị với Cơ quan điều tra , Viện kiểm sát, Toà án, thực hiện một công việc nào đó hứng tới mục đích làm lợi cho thân chủ..Trong phiên toà, luật sư sử dụngchứng cứ để phản bác một phần hay toàn bộ quan điểm của bên đối lập, khẳng định quan điểm của mình, đề nghị Viện kiểm sát rút một phần hay toàn bộ truy tố, đề nghị Toà án áp dụng điều luật hoặc những biện pháp có tính chất tố tụng khác có lợi cho thân chủ của mình.
Để làm tốt nhiệm vụ bào chữa của mình, Luật sư cần nắm vững các quy định của pháp luật có liên quan đến địa vị pháp lý của mình, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người mà họ bào chữa cũng như nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Không những thế, Luật sư còn phải nắm vững diễn biến của quá trình tố tụng để đảm bảo quá trình điều tra phải có căn cứ khách quan.
Trong quá trình hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan, luật sư có quyền gặp gỡ trao đổi, đề xuất với cơ quan Toà án, Viện kiểm sát nhằm:

- Khắc phục những thiếu sót trong điều tra, truy tố;
- Đảm bảo tính khách quan của hoạt động tố tụng;
- Bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của thân chủ. 

Luật sư trao đổi với Toà án và Viện kiểm sát những vấn đề vè thủ tục tố tụng và chứng cứ của vụ án:

- Về tố tụng: hồ sơ vụ án cần phải xem xét xem có đảm bảo đúng thủ tục tố tụng hình sự hay không; có việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không; có cần đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn ; nhập hoặc tách vụ án hay không.
- Về chứng cứ: Đã có đủ chứng cứ để xét xử bị cáo chưa; nếu còn thiếu chứng cứ thì đó là chứng cứ quạn trọng hay không quan trọng đối với vụ án, có thể bổ sung tai phiên Tòa hay không; có đúng là bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội đã bị truy tố hay phạm một tội khác hoặc có người khác cùng phạm tội với bị cáo.
Khi thấy có vi phạm về thủ tục tố tụng, không đảm bảo về chứng cứ xét xử bị cáo thì Luật sư có thể gặp thẩm phán hoặc kiểm sát viên tại phòng làm việc của họ để trao đổi. Trong tường hợp cần cung cấp thêm chứng cứ thì Luật sư chủ động cung cấp thêm chứng cứ của vụ án và trao đổi với Toà án và Viện kiểm sát.
Những vấn đề cần trao đổi, đề xuất vớiToà án và Viện kiểm sát:

a- Trả hồ sơ điều tra bổ sung: 
Trong trường hợp sau đây thì yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung:
- Khi thấy hồ sơ thiếu những chứng cứ quan trọng, nếu cứ xét xử thì dẫn đến oan hoặc làm cho bị cáo phạm tội nặng hơn.
- Nếu bảo vệ cho người bị hại thì khi thấy có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội nặng hơn tội đã bị truy tố thì đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung thay đổi tội danh.
- Khi thấy có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho việc điều tra không chính xác ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của thân chủ.

b- Cần phải nhập, tách vụ án :
Khi thấy vụ án mà mình có trách nhiệm bảo vệ cho thân chủ nếu được nhập vào trong một vụ án khác hoặc cần tách ra để xét xử sau là phù hợp với quy địnhcủa pháp luật thì đề nghị với Viện Kiểm sát hoặc Toà án giải quyết.

c-Đề nghị triệu tập người làm chứng quan trọng đến phiên toà:
Qua nghiên cứu thấy người làm chứng quan trọng có lời khai buộc tội bị cáo, nhưng lời khai này có nhiều điểm chưa rõ hoặc có mâu thuân với chứng cứ khác trong vụ án. nếu người làm chứng này không có mặt trong phiên toà thì sự công bố lời khai của họ có thể ảnh hưởng đến sự thật của vụ án , không có lợi cho thân chủ. Vì vậy Luật sư phải đề nghị Toà án cho triệu tập người làm chứng này đến để xét hổi làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

d-Cần thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo (nếu bảo chữa cho bị can, bị cáo )
Trong trường hợp nếu thấy việc tạm giam bị can bị cáo là khong có căn cứ như tạm giam bị can, bị cáo 15 tuôỉ phạm tội nghiêm trọng, tạm giam bị can, bị cáo 17 tuổi phạm tội nhgiêm trọng do vô ý hoặc bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, khai báo thành khẩn, mắc bện nặng cần phải được chữa bệnh, việc tạm giam bị can, bị cáo không cần thiết nữa thì phải đề nghị với Toà án viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam trả tự do cho bị can, bị cáo. Nếu xét thấy cần thì đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay cho biện pháp tạm giam.

e- Trưng cầu giám định khi có nghi ngờ về năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (nếu bảo chữa cho bị can, bị cáo ):
Trong trường hợp nghi ngờ bị can, bị cáo đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bện khác làm mát khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của họ thì đề nghị Viện kiểm sát hoặc Toà án ra quyết định trưng cầu giám định pháp y về năng lực chịu trách nhiệm hình sự của họ.
Như vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng vai trò của Luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo lợi ích hợp pháp cho khách hàng trong vụ án hình sự là nói tới những tác động , ảnh hưởng của Luật sư trong tiến trình tố tụngthông qua chức năng nghề nghiệp, góp phần vào quá trình dân chủ hoá hoạt động tư pháp, tạo lập công bằng xã hội.
Thông qua hoạt động Luật sư trong tố tụng, luật sư không chỉ thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng mà còn bảo vệ pháp luật, công lý phản ánh niềm tin của người dân vào những quyền cơ bản nhân phẩm và giá trị của con người.
Theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự về người bào chữa và theo qui định của Luật Luật sư thì luật sư có thể tham gia làm người bào chữa cho bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý cho những người tham gia tố tụng khác. Tuỳ theo khách hàng nhờ cậy ở giai đoạn tố tụng nào thì người luật sư được tham gia từ giai đoạn đó. 
Ví dụ: Sau khi khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, gia đình bị can hoặc bị can có mời luật sư là người bào chữa cho mình, thì luật sư có quyền được tham gia vào vụ án hình sự đó từ giai đoạn điều tra.
Khởi tố và điều tra vụ án hình là những giai đoạn đầu tiên, trong đó có quan điều tra thực hiện các biện pháp khác nhau nhằm thu thập tài liệu, vật chứng để làm chứng cứ chứng minh vụ án hình sự. Hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, mà cụ thể là của điều tra viên có thể liên quan tới hầu hết những người tham gia tố tụng như bị can, người bị thạm giữ, người bị hại..., nhưng nếu hoạt động đièu tra được tiến hành khách quan, đúng các quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng được bảo đảm, không bị xâm hại, thì không có gì đáng nói, nhưng nếu vì một lý do nào đó, do trình độ nghiệp vụ của điều tra viên còn non yếu hoặc điều tra viên cố tình làm trái pháp luật, để ngăn ngừa những vi phạm đó, sự tham gia của luật sư nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho thân chủ, góp phần hạn chế các vi phạm pháp luật, góp phần đảm bảo cho hoạt động điều tra được tiến hành khách quan toàn diện. 
Điều 57 BLTTHS có qui định: “Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ...” Và Điều 58 BLTTHS có qui định: “ Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo qui định tại điều 81 và điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Được mời tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra, yêu cầu đối với người luật sư:Tích cực thu thập các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét