Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Mở rộng vai trò của luật sư trong giải quyết khiếu nại

Mới đây, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) thuộc phạm vi chức năng quản lý của Thanh tra Chính phủ (TTCP).

* Công dân không nhất thiết phải viết đơn KN,TC

* Tổ chức hành nghề công chứng cũng có thể xác nhận Giấy ủy quyền KN


Nghị quyết nêu rõ, trong quá trình triển khai thực hiện, TTCP chủ động phát hiện và kịp thời sửa đổi, bổ sung thay thế hoặc bãi bỏ, hủy bỏ các quy định có liên quan theo thẩm quyền hoặc đề nghị bằng văn bản, gửi Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ về các luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ có quy định về TTHC cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ, hủy bỏ để thực hiện phương án đơn giản hóa TTHC được Chính phủ thông qua.


Đối với những TTHC được quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo (KN,TC) năm 1998 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KN,TC, giao TTCP chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan khác khẩn trương hoàn thiện các dự án Luật KN, Luật TC theo nội dung đã được Chính phủ thông qua để trình Quốc hội xem xét, quyết định.


Đối với những TTHC được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ theo phương án đơn giản hóa, giao TTCP áp dụng hình thức 1 văn bản sửa đổi nhiều văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành. Trường hợp cần áp dụng 1 văn bản để sửa đổi 1 văn bản, giao Tổng Thanh tra xem xét, quyết định.


Báo Thanh tra giới thiệu cùng bạn đọc nội dung phương án đơn giản hóa TTHC đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 58/NQ-CP.


1- Nhóm thủ tục tiếp công dân (TCD) và xử lý đơn gồm: Thủ tục TCD tại cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Thủ tục xử lý đơn tại cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.


a- Sáp nhập thủ tục TCD và thủ tục xử lý đơn thành thủ tục TCD và xử lý đơn.


b- Sửa đổi quy định


“Giấy ủy quyền có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi người ủy quyền cư trú” thành “giấy ủy quyền có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền”.


“Trường hợp công dân trình bày bằng miệng các KN,TC, kiến nghị nếu thấy cần thiết thì yêu cầu viết thành văn bản và ký tên xác nhận” thành “trường hợp công dân trình bày bằng miệng các KN,TC, kiến nghị thì người TCD phải ghi lại thành văn bản và có chữ ký xác nhận hoặc điểm chỉ của công dân”.


c- Đối với mẫu Đơn KN, Đơn TC


Pháp lý hóa mẫu Đơn KN, Đơn TC


Sửa đổi từ “địa chỉ” thành cụm từ “địa chỉ liên lạc”


Bổ sung nội dung về số điện thoại liên lạc, emai (nếu có), số chứng minh nhân dân, ngày cấp, nơi cấp (hoặc số hộ chiếu đối với người nước ngoài) của người KN, người TC.


Bổ sung quy định: Chữ ký hoặc điểm chỉ của người KN, người TC.


Bãi bỏ nội dung mã số hồ sơ trong đơn KN.


2- Nhóm thủ tục giải quyết KN lần đầu gồm: Thủ tục giải quyết KN lần đầu tại cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã


a- Sửa đổi trình tự thực hiện thủ tục như sau:


Khi có căn cứ cho rằng, quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người KN KN lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính.


Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được KN, người có thẩm quyền giải quyết KN lần đầu phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn bản cho người KN biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do.


Quy định thời hạn giải quyết KN lần đầu không quá 10 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý.

Ở vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết KN có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý.


Trong thời hạn giải quyết KN, người có thẩm quyền giải quyết lần đầu có trách nhiệm: Kiểm tra lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, nếu KN của người KN là đúng thì ra quyết định giải quyết ngay. Tổ chức xác minh, kết luận nội dung KN khi thấy cần thiết và ra quyết định giải quyết KN.


Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết KN, người giải quyết KN lần đầu có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết KN cho người KN, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết KN, người có quyền, lợi ích liên quan, người đã chuyển đơn KN đến.


b- Về mẫu Đơn KN, Giấy ủy quyền KN


Về Đơn KN: Sửa đổi từ “địa chỉ” thành cụm từ “địa chỉ liên lạc”; quy định bổ sung số điện thoại liên lạc, emai (nếu có), số chứng minh nhân dân, ngày cấp, nơi cấp (hoặc số hộ chiếu đối với người nước ngoài) của người KN; bãi bỏ nội dung mã số hồ sơ; bổ sung quy định chữ ký hoặc điểm chỉ của người KN.


Về Giấy ủy quyền KN: Sửa đổi từ “địa chỉ” thành cụm từ “địa chỉ liên lạc”; sửa đổi quy định “xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi người được ủy quyền cư trú” thành quy định “xác nhận của cơ quan thẩm quyền” (UBND cấp xã nơi người ủy quyền cư trú hoặc tổ chức hành nghề công chứng); bổ sung quy định chữ ký hoặc điểm chỉ của người ủy quyền KN.

Thực thi bảo hộ quyền tác giả: hành lang pháp lý mới chỉ là điều kiện cần

Hành lang pháp lý về bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan Việt Nam thời gian qua đã được hoàn thiện; trong thời gian ngắn, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả. Tuy nhiên, theo Phó cục trưởng (PCT) Cục Bản quyền tác giả Vũ Ngọc Hoan, hành lang pháp lý đầy đủ mới chỉ là điều kiện cần. Việc thực thi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhận thức về quyền tác giả, ý thức về thực hiện các quy định pháp luật về quyền tác giả của các đối tượng tham gia trong quá trình này…
 - Phó cục trưởng đánh giá như thế nào về thực trạng thực thi quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam hiện nay?

PCT Vũ Ngọc Hoan: Tôi cho rằng, thời gian qua, việc thực hiện quyền tác giả và các quyền liên quan tại nước ta đã được tôn trọng. Các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng quyền tác giả cũng như các quyền liên quan về cơ bản đã thực hiện đúng như xin phép, thanh toán nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu ở hầu hết các lĩnh vực như báo chí, xuất bản, sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, tạo hình, kiến trúc, phát thanh, truyền hình. Hoạt động tự bảo vệ quyền đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều chủ thể đã áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền của mình, kể cả biện pháp công nghệ. Nhiều chủ thể quyền đã nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan tại Cục Bản quyền tác giả. Một số chủ thể đã thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương và TƯ hoặc khởi kiện tại tòa án để yêu cầu được bảo vệ tài sản bị xâm hại.

Hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan với 4 tổ chức cũng đã ra đời để thực hiện việc đàm phán cấp phép sử dụng, thu tiền cho các chủ thể. Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan có nhân sự chuyên trách, đang hướng tới hoạt động chuyên nghiệp, công khai, minh bạch. Một số tổ chức hoạt động có hiệu quả, tạo niềm tin cho các văn nghệ sỹ, trí thức, nhà đầu tư ủy thác quyền. Việt Nam cũng đang từng bước thực hiện các cam kết quốc tế, tiếp tục đàm phán ký kết các Hiệp định có nội dung về sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền tác giả, quyền liên quan. Đầu năm 2010, Tổng giám đốc Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã đến Việt Nam, làm việc với các vị lãnh đạo cao cấp của nhà nước ta nhằm thúc đẩy các hoạt động phát triển sở hữu trí tuệ cũng như cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực này. Việt Nam tiếp tục tham gia đàm phán các hiệp định về đầu tư, thương mại, dịch vụ, trong đó có các nội dung liên quan đến sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng, gần đây nhất là tham gia đàm phán Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy đã đạt được một số kết quả tích cực trong bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, song kết quả thực thi vẫn chưa đạt mục tiêu, tình trạng xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan vẫn tiếp tục diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó có những vụ việc nghiêm trọng, gây ảnh hưởng không tốt tới môi trường đầu tư, hợp tác kinh tế quốc tế. Đó là tình trạng sao chép bất hợp pháp bản ghi âm, ghi hình, in lậu sách trong xuất bản, vi phạm bản quyền trong các lĩnh vực phát sóng vệ tinh, truyền hình cáp, internet, viễn thông, chương trình máy tính…

- Việc thực thi bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan tốt sẽ kích thích sự sáng tạo. Tuy nhiên, một số nước dựa vào vấn đề bản quyền này để độc quyền… Quan điểm của Phó cục trưởng về vấn đề này như thế nào?

PCT Vũ Ngọc Hoan: Bản chất của quyền tác giả là độc quyền có điều kiện và có thời hạn nên việc khai thác và sử dụng quyền này phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền và phải thực hiện nghĩa vụ về kinh tế đối với chủ sở hữu quyền. Tuy nhiên, để thực hiện quyền này phải bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các đối tượng là chủ sở hữu, người sử dụng và công chúng hưởng thụ. Vì vậy, pháp luật quốc tế và quốc gia đều có các quy định về các ngoại lệ và giới hạn quyền. Pháp luật Việt Nam quy định tại các điều 25, 26 Luật Sở hữu trí tuệ về các trường hợp sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố không phải xin phép và không phải trả nhuận bút, thù lao và tại các điều 32 và 33 về các trường hợp không phải xin phép nhưng phải trả nhuận bút, thù lao.

- Đối với các nước đang phát triển, việc kế thừa các sáng tạo đi trước là cần thiết. Theo Phó cục trưởng, cần kế thừa như thế nào?

PCT Vũ Ngọc Hoan: Kế thừa là quy luật của quá trình phát triển trong xã hội loài người. Kế thừa cũng là điều kiện và cơ sở cho sáng tạo. Kế thừa phải dựa trên các quy định của pháp luật cho phép. Sao chép trái phép không phải là kế thừa mà là ăn cắp (đúng ra phải gọi là ăn cướp). Hành vi sao chép trái phép là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, dân sự và hình sự.

- Phó cục trưởng lý giải như thế nào về việc hành lang pháp lý của chúng ta đầy đủ; trong một khoảng thời gian ngắn (khoảng 4 năm), nước ta đã tham gia 5 điều ước quốc tế về bản quyền. Vậy tại sao, tình trạng vi phạm bản quyền vẫn còn khá nhiều?

PCT Vũ Ngọc Hoan: Tôi cho rằng, hành lang pháp lý đầy đủ mới chỉ là điều kiện cần để thực thi bảo hộ quyền tác giả. Việc thực thi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhận thức về quyền tác giả, ý thức về thực hiện các quy định pháp luật về quyền tác giả của các đối tượng tham gia trong quá trình này. Ngoài ra, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa cũng tác động tới hiệu quả của công tác thực thi bảo hộ quyền tác giả.

- Trong tham luận của Cục Bản quyền tác giả trình bày tại Hội thảo về quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan có đề cập đến một nguyên nhân là do nhận thức còn hạn chế. Vậy phải chăng, luật và các văn bản dưới luật chưa đi được vào cuộc sống? Và như vậy, theo Phó cục trưởng, trách nhiệm thuộc về ai?

PCT Vũ Ngọc Hoan: Theo tôi, nhận thức còn hạn chế không có nghĩa là luật và các văn bản dưới luật chưa đi được vào cuộc sống. Hiện nay, luật về quyền tác giả và các quyền liên quan đang đi vào và phát huy tác dụng tích cực trong cuộc sống. Việc nhận thức về pháp luật nói chung, pháp luật về quyền tác giả nói riêng là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội, trong đó việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan như xuất bản tài liệu, tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên, hiệu quả chưa được như mong muốn. Thời gian tới, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan; phải có các hình thức và phương pháp hữu hiệu hơn như đưa kiến thức về pháp luật bảo hộ quyền tác giả vào chương trình giáo dục phổ thông, đại học. Trong việc khắc phục hạn chế về nhận thức này thì vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó có báo chí là rất quan trọng.

- Theo Phó cục trưởng, hướng đi lâu dài cho việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan trong thời gian tới là gì?

PCT Vũ Ngọc Hoan: Theo tôi, muốn thúc đẩy hoạt động này có bước phát triển mới, các tổ chức và cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan phải thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 36/2008/CT - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Trong đó, các bộ, ngành, địa phương thực hiện thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật và các công việc thuộc trách nhiệm được quy định tại Chỉ thị 36/2008/CT-TTg. Các cơ quan báo chí, ngoài việc gương mẫu thực hiện nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể quyền tác giả, chủ thể quyền liên quan khi khai thác sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, cần tích cực tuyên truyền giáo dục pháp luật, phản ánh hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.
Thanh Hà thực hiện—DBND

VKS tham dự phiên tòa dân sự: Chưa ngã ngũ

Hội thảo góp ý sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự (Dự thảo 4) do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội vừa tổ chức ghi nhận hai luồng ý kiến trái chiều nhau:

Các thẩm phán đều nói không cần VKS tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm trong khi các kiểm sát viên bảo có họ ở tòa thì tốt hơn.

Theo Giám đốc Công an tỉnh Đăk Nông Võ Văn Đủ, việc VKS tham gia và phát biểu tại các phiên tòa dân sự thể hiện thái độ tôn trọng luật pháp. Nó cũng giúp cho thẩm phán nắm bắt đầy đủ hơn về pháp luật. Hơn nữa, do dân còn nghèo, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, có VKS tại tòa sẽ giúp họ có thêm chỗ dựa về pháp lý.

Có vẫn hơn không

Viện trưởng VKSND TP Đà Nẵng Trần Thanh Vân kể, nhiều lần lãnh đạo tòa TP của ông nói rằng nếu có VKS tham gia xử án với tòa thì đâu có nhiều án sai đến vậy. Theo ông Vân, VKS tham gia tòa chỉ tốt hơn chứ không hề xấu đi. Do vậy, trừ những vụ nào đã quá rõ ràng thì thôi, còn lại viện nên tham gia phiên tòa.

Ông Lê Văn Lành - Viện trưởng VKSND tỉnh Tây Ninh nói thêm trong luật phải bổ sung yếu tố VKS tham gia phiên tòa thì phải phát biểu quan điểm.

Phó Viện trưởng VKSND Tối cao Lê Hữu Thể lập luận, nguyên tắc tối thượng của án dân sự là quyền tự định đoạt thuộc đương sự nhưng không nên hiểu cứng nhắc. Bởi pháp luật còn phải dựa theo điều kiện kinh tế, khả năng nhận thức pháp luật của người dân, tính hoàn thiện của nền hành chính quốc gia và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Ở nhiều nước, các điều kiện trên của họ hơn hẳn chúng ta nhưng họ vẫn tăng cường tối đa vai trò của VKS trong tố tụng. Hơn nữa, theo luật pháp hiện hành, VKS vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật vừa là cơ quan tiến hành tố tụng. Nghĩa là việc tham gia phiên tòa cũng thuộc thẩm quyền của viện.

Theo ông Thể, nguyên tắc thỏa thuận trong dân sự là cốt lõi nhưng lật ngược lại, nếu hai bên đương sự đã thỏa thuận với nhau thì cần gì phải ra tòa nữa. Cạnh đó, tại tòa, VKS phát biểu là làm nhiệm vụ chứ không hề cản trở quyền định đoạt của đương sự, tòa cũng toàn quyền đưa ra phán quyết của mình…

Việc dân sự cốt ở đôi bên

Chánh án TAND tỉnh Đồng Tháp Hà Văn Thượng và Quyền Chánh án TAND TP Hải Phòng Nguyễn Khắc Hạnh đều phản đối khi dự thảo đưa quy định này vào. Ông Thượng phân tích, nếu lấy tư cách nhà nước để đại diện VKS phát biểu quan điểm trong phiên tòa thì không cần vì bản thân tòa là đại diện cho nhà nước rồi. Viện đọc hồ sơ thấy tòa áp dụng pháp luật sai thì vẫn kháng nghị bình thường chứ không cần trực tiếp ở tòa mới làm được. Còn không thì đến giai đoạn xử phúc thẩm, viện có mặt cũng chưa muộn.

“Đã dự tòa thì viện phải có quan điểm. Tuy nhiên, viện phát biểu thì vi phạm đến quyền tự định đoạt của các đương sự vì lúc đó tòa chưa tuyên án. Đằng nào đi nữa viện cũng không nên tham gia” - ông Thượng nói.

Chánh án Nguyễn Khắc Hạnh cũng bảo trong phiên tòa dân sự không cần sự can thiệp của VKS. Ngoài ra, VKS phát biểu về vụ án chưa chắc đã chính xác, có khi lại gây hoang mang cho HĐXX làm ảnh hưởng đến kết quả xử án.

Ông Nguyễn Văn Cơ - Chánh án TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phân tích thêm, việc VKS thường tự thu thập chứng cứ, lấy lời khai độc lập vô tình tạo nên cơ chế có hai cơ quan tiến hành tố tụng đang giải quyết vụ án. Điều này làm ảnh hưởng đến tâm lý và niềm tin của đương sự vào công lý.

Ở khía cạnh khác, Phó Chánh án TAND TP.HCM Hà Thúy Yến cho rằng nếu tham gia tất cả thì chắc chắn một điều viện sẽ không đáp ứng đủ số lượng. Ví dụ như TP.HCM có ngày xử sơ thẩm đến vài chục vụ. Việc tăng cường biên chế ngành kiểm sát để bổ sung cho xử dân sự vừa tốn kém lại thêm cồng kềnh bộ máy của cơ quan tố tụng.

Không nên “tẩy chay” VKS

Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình cho biết qua nhiều lần lấy ý kiến ở nhiều nơi, đa phần người trong ngành tòa án không đồng tình với hướng sửa đổi trong dự thảo nhưng ngành kiểm sát và chuyên gia ở các lĩnh vực khác thì lại đồng ý cao.

Theo ông Bình, tinh thần của hiến pháp và chủ trương của Đảng luôn đề cao vai trò giám sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Thế nên trong các vụ án dân sự, nếu có VKS tại tòa thì chắc chắn thẩm phán sẽ phải thận trọng hơn. Cạnh đó, theo thống kê hằng năm, tỉ lệ kháng nghị của VKS được chấp nhận là hơn 80%. Điều đó nói lên rằng chất lượng giám sát rất tốt. Vì thế việc dự thảo luật đưa ra hướng như trên là xuất phát từ mục đích muốn chất lượng xử án tốt hơn. Về khía cạnh xã hội, hiện dân ta còn nghèo, ít hiểu biết pháp luật, họ cần được nhờ cậy pháp lý nhiều. Cho nên nói gì thì nói cũng không thể thiếu vai trò của VKS trong án dân sự. Còn mức độ tham gia thế nào thì phải chờ Quốc hội thông qua.

Vừa thừa vừa thiếu

Tôi nghĩ không quan trọng việc nhất thiết phải có VKS ở tất cả phiên tòa dân sự mà quan trọng là việc cụ thể hóa vai trò ấy như thế nào. Chẳng hạn tôi đã từng tham gia những vụ án liên quan đến chuyện ủy thác tư pháp rất rắc rối và phức tạp, khi làm đơn yêu cầu thì viện không tham gia. Trong khi có những vụ án khác viện rất nhiệt tình nhảy vào, đôi khi chỉ để kháng nghị chuyện rất nhỏ là tòa tính sai án phí. Như vậy có thể nói bất hợp lý lớn chính là ở chỗ này.

Luật sư PHAN TRUNG HOÀI, Đoàn Luật sư TP.HCM

Có VKS hay không thì vụ án vẫn rõ

Nếu cho rằng phải có VKS tham gia ở tất cả phiên xử sơ thẩm dân sự vì đạo đức, trình độ thẩm phán kém và để tránh tạo cơ chế khép kín của tòa thì không chính xác. Bởi hiện nay trong tố tụng dân sự, vai trò nhiệm vụ của viện vẫn đang làm tốt. Viện có dự tòa hay không dự thì nội dung bản chất vụ án cũng rất rõ không có gì là khép kín. Cho nên theo tôi, không nhất thiết phải có VKS ở tất cả phiên tòa…

Phó Chánh Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM
LƯƠNG NGỌC TRÂM

Tham gia là bước lùi

Nếu đặt nguyên tắc thỏa thuận lên hàng đầu thì ngay cả tòa án cũng chỉ làm vai trò trung gian cho các bên chứ không áp đặt ý chí hướng giải quyết. Chúng ta nên bỏ hẳn vai trò của VKS ra khỏi án dân sự vì đó là việc của cá nhân với nhau, không cần quyền lực nhà nước can thiệp. Mặt khác, VKS phát biểu quan điểm trong các phiên tòa, phiên họp là trái với nguyên tắc đảm bảo quyền tranh luận và quyền tự định đoạt của đương sự. Cho phép VKS tham gia tất cả phiên tòa dân sự là chúng ta đang bước lùi trong tố tụng.

Luật sư TRƯƠNG XUÂN TÁM, Ủy viên BCH Liên đoàn Luật sư Việt Nam

SỬA ĐỔI BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ:Bỏ hẳn quy định về thời hiệu khởi kiện?

Những quy định về thời hiệu, chứng cứ trong dự thảo sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự đã được những người làm công việc chuyên môn thực tế phân tích, mổ xẻ khá kỹ ở hội thảo do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội vừa tổ chức.

Dự thảo sửa đổi theo hướng bỏ hẳn quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu theo Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành. Về chuyện này, có người phản đối vì sợ ảnh hưởng lớn tới việc giải quyết án mà xưa nay các tòa vẫn quen áp dụng nhưng nhiều ý kiến khác lại bảo bỏ là đúng.

Tòa không có quyền từ chối giải quyết?

Quyền Chánh án TAND TP Hải Phòng Lê Khắc Hạnh dẫn chứng trường hợp yêu cầu tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích để phân tích rằng không thể tính thời hiệu được. Theo ông, có những trường hợp đương sự vì lý do nào đó mà gián đoạn thông tin với thân nhân một vài năm. Nếu tòa căn cứ vào yêu cầu của một bên rồi tuyên bố họ mất tích sau một năm tìm kiếm thì rất dễ bị “hố”.

Thực tế đã có nhiều người sau khi tòa tuyên bố mất tích lại trở về sinh sống bình thường. Khi ấy, không chỉ tòa khó “gỡ” về mặt tố tụng mà xét về tình cảm, đạo đức xã hội cũng khó ăn khó nói vì gia đình người bị tuyên bố mất tích luôn có tâm lý ngóng chờ tin tức người thân. Chưa kể, quyền lợi của các bên liên quan đều có thể bị ảnh hưởng.

Trưởng phòng Pháp luật dân sự Vụ Pháp luật dân sự-kinh tế (Bộ Tư pháp) Nguyễn Hồng Hải nhận xét quy định thời hiệu trong luật hiện hành mang nặng tính chất từ chối giải quyết vụ việc. Hậu quả của việc tòa không nhận đơn kiện của người dân có thể thúc đẩy hoạt động đòi nợ thuê trong xã hội tăng nhanh. Vì thế, việc bỏ tất cả các quy định về thời hiệu như dự thảo là hợp lý.

Để rút ngắn quá trình giải quyết án thì cần thiết phải cho thẩm phán quyền chủ động hơn nữa trong thu thập chứng cứ. Ảnh minh họa: HTD

“Chúng ta phải thừa nhận nguyên tắc tòa án không có quyền từ chối giải quyết vụ việc dân sự với lý do hết thời hiệu yêu cầu. Ở nước ngoài quy định thời hiệu là để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự chứ không phải để tòa từ chối giải quyết như ở ta” - ông Hải nhấn mạnh.

Giúp dân thu thập, xác minh chứng cứ

Theo Phó Chánh án TAND Tối cao Từ Văn Nhũ, khi đương sự đề nghị cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ xác nhận sự việc, sự kiện pháp lý thì thường bị từ chối bằng miệng. Vì thế, họ không có gì chứng minh với tòa về việc không thu thập được chứng cứ của mình. Do đó, cần phải sửa luật theo hướng là chỉ cần đương sự có yêu cầu thì tòa sẽ thu thập và xác minh chứng cứ giúp họ.

Ủng hộ quan điểm này, ông Lê Khắc Hạnh phân tích: Luật hiện hành không cho phép thẩm phán chủ động thu thập chứng cứ nên nếu thẩm phán tự tiện làm là vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Trong khi đó, việc thu thập và đánh giá chứng cứ đòi hỏi phải có thời gian mà tòa chờ cho đến khi đương sự không thể tự thu thập được mới đứng ra yêu cầu là quá chậm. Để rút ngắn quá trình giải quyết án thì cần thiết phải cho thẩm phán quyền chủ động thu thập chứng cứ hơn nữa.

Về việc cung cấp chứng cứ của đương sự, Chánh án TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Nguyễn Văn Cơ và Phó Chánh án TAND tỉnh Bình Phước Nguyễn Thị Thu Hương đều cho rằng phải quy định về thời hạn cung cấp và có chế tài cụ thể.

Theo bà Hương, trong thực tiễn xét xử, có những đương sự cố tình nộp chứng cứ theo kiểu “nhỏ giọt” trong giai đoạn tòa chuẩn bị đưa vụ án ra xử nhằm có lợi cho mình khiến tòa không kịp xác minh. Có đương sự lại cố tình ém nhẹm chứng cứ quan trọng ở phiên sơ thẩm, lên phiên phúc thẩm mới bung ra nên tòa sơ thẩm bị hủy án oan.

Còn theo ông Cơ, thậm chí có những vụ đã xử phúc thẩm xong rồi, đương sự lại trình ra các chứng cứ mới rồi gửi đơn khiếu nại yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm. Thực tế đã không ít lần TAND Tối cao hủy án của cấp dưới vì lý do này, gây thiệt hại cho các bên đương sự khác và kéo dài vụ án một cách không cần thiết.

Tòa phải chủ động giúp dân

Nếu tòa không chủ động thu thập chứng cứ thì chắc chắn quá trình thu thập sẽ kéo dài và thiếu chính xác, dẫn đến hậu quả là án bị hủy nhiều. Xét về mặt quan hệ với các cơ quan lưu giữ chứng cứ, nhiều khi chính tòa còn không thu thập được thì người dân làm sao nhờ vả? Hoặc khi phát hiện các chứng cứ có dấu hiệu bị làm giả thì thẩm phán phải xác minh chứ đương sự không thể tự làm. Cho nên, cán bộ tòa phải chủ động thu thập, xác minh giúp đương sự, đồng thời khơi gợi tính tự giác của người dân để họ cung cấp chứng cứ đầy đủ và kịp thời.

Chánh án TAND Tối cao TRƯƠNG HÒA BÌNH

Phải quy định thời gian mà các tổ chức, cơ quan phải cung cấp chứng cứ cho đương sự khi họ tự đi thu thập. Bởi lẽ thực tế việc thu thập này thường gặp rất nhiều khó khăn mà luật quy định đương sự chỉ có 15 ngày để nộp các chứng cứ tự thu thập được là bất hợp lý.

Ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn
Luật sư Việt Nam TRƯƠNG XUÂN TÁM

VKS cũng được thu thập chứng cứ

Dự thảo theo hướng cho VKS tham gia ở tất cả các phiên tòa sơ thẩm nhưng lại hạn chế chỉ cho kiểm sát viên thu thập chứng cứ để phục vụ việc kháng nghị là gây khó cho hoạt động kiểm sát xét xử của VKS. Vì thế phải sửa lại trong phần quy định về chứng cứ là kiểm sát viên được thu thập chứng cứ trong tất cả các giai đoạn tố tụng dân sự.

Viện trưởng VKSND tỉnh Tây Ninh LÊ VĂN LÀNH

Những mảng sáng tối của tài chính thế giới năm 2010

1.Khủng hoảng nợ châu Âu
Không ai nghĩ rằng, khủng hoảng nợ châu Âu trở thành vấn đề nóng hổi xuyên suốt cả năm 2010, khủng hoảng nợ xuất phát từ khủng hoảng nợ Hy Lạp vào cuối năm ngoái và bắt đầu bùng nổ ở đầu năm nay, buộc EU phải liên kết với Tổ chức tiền tệ Quốc tế (IMF) thiết lập quỹ cố định với tổng giá trị 750 tỷ Euro nhằm kiểm soát tình hình. Trung Quốc cũng ra tay “trợ giúp tư pháp” trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Tuy nhiên, khi Hy Lạp được thở phào thì Ireland cũng bắt đầu bùng nổ khủng hoảng trong quý IV rồi tiếp đến là những lo ngại thị trường về Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Khủng hoảng nợ cho thấy rõ vấn đề sâu sa của khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), tổn thương đến niềm tin của thị trường đối với đồng Euro. Làm thế nào để hóa giải những mâu thuẫn trong chính sách tiền tệ thống nhất và chính sách tài chính độc lập đã trở thành lo ngại lớn nhất mà khu vực Eurozone vấp phải kể từ khi thành lập.
2. Cải cách của Ngân hàng Thế giới và IMF
Tháng 4, trong tiến trình cải cách Ngân hàng Thế giới, các nước phát triển đã chuyển 3,13% quyền cổ phiếu sang các nước đang phát triển, Trung Quốc trở thành nước cổ đông lớn thứ 3 trên Thế giới chỉ sau Mỹ và Nhật Bản.
Tháng 10, IMF quyết định chuyển dịch hơn 6% phân ngạch sang các nước chưa đủ khả năng đại diện trong đó bao gồm các quốc gia mới nổi. Phân ngạch của Trung Quốc vượt qua các nước Đức, Anh, Pháp; chỉ đứng sau Mỹ và Nhật Bản.
Do các nền kinh tế mới nổi phát triển mạnh, trở thành kiến trúc thượng tầng trong cơ cấu quản lý kinh tế toàn cầu, Ngân hàng Thế giới và IMF đã không thể phản ánh chính xác nền tảng kinh tế Toàn cầu mang giá trị căn bản của nó. Do đó, việc cải cách của hai cơ quan này là đương nhiên và tất phải tiến hành. Nhưng đối với Trung Quốc mà nói, không thể đánh đồng một cách đơn giản giữa quyền bỏ phiếu, quyền lên tiếng và tầm ảnh hưởng. Làm thế nào để sử dụng quyền bỏ phiếu, nâng cao tiếng nói và phát huy tầm ảnh hưởng không chỉ dựa vào kỹ năng cứng mà càng phải dựa vào kỹ năng mềm.
3. Tổng lượng kinh tế Trung Quốc nâng lên vị trí thứ II toàn cầu
GDP của Trung Quốc trong quý II bắt đầu vượt qua Nhật Bản. Năm 1968, sau 23 năm phát triển sau chiến tranh, Nhật Bản đã vượt qua Đức trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Đến năm 2010, sau 32 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc lại vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.
Chỉ trong hơn 30 năm ngắn ngủi, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc. Tuy nhiên vẫn cần cảnh giác đó là sức cạnh tranh nền kinh tế của Trung Quốc không thể khách quan giống như trong danh sách xếp hạng GDP, bởi GDP thống kê của Trung Quốc vẫn còn những điểm yếu, không thể phản ánh chân thực sức cạnh tranh của nền kinh tế tổng thể, trong đó gồm sự đổi mới khoa học kỹ thuật, trật tự thị trường, khả năng sản xuất của các doanh nghiệp, môi trường pháp lý. Hơn nữa, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc vẫn chưa bằng 1/5 của Nhật Bản.
Việc trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 toàn cầu càng cho thấy rõ tính bức thiết và tất yếu trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Trung Quốc.
4. Giám sát tài chính
Là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng lần này. Mỹ đã đi trước trong việc thực hiện giám sát tài chính. Tháng 3 vừa qua, Tổng thống Obama đã ký dự án luật cải cách giám sát tài chính. Tháng 9, EU đã đạt được dự án luật cải cách tài chính khắp châu Âu.
Thành quả nỗ lực tiến hành tăng cường an ninh tài chính trên toàn thế giới là việc ra đời của “hiệp định Basel III” vào tháng 9, tỷ lệ bổ sung vốn tư bản cấp I tối thiểu của các ngân hàng thương mại toàn cầu sẽ tăng từ 4% lên đến 6%.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, việc giám sát tài chính năm nay chỉ là khuôn khổ, chưa có nội dung cốt. Đồng thời, cùng với phục hồi ổn định của hệ thống tài chính, phản ứng ngược trở lại của thị trường đối với việc giám sát ngày càng tăng, nhóm vận động hành lang đang cơ đồ làm giảm mật độ giám sát. Việc giám sát của chính phủ và đổi mới thị trường là cặp song sinh, bất kỳ bên nào mạnh quá cũng đều gây bất lợi nền kinh tế chung, do đó, “cuộc chơi cân bằng”vẫn sẽ tiếp tục.
5. Cuộc chiến tỷ giá
Bộ trưởng Tài chính Brazil tháng 9 vừa qua đã đưa ra một từ “chiến tranh tỷ giá”. Mặc dù cụm từ này có sức ảnh hưởng trên truyền thông nhưng lại không nhận được sự công nhận của lãnh đạo các nền kinh tế chủ yếu, nhưng lại phác họa ra hiện thực chính sách vĩ mô của các nước thời kỳ hậu khủng hoảng đã ảnh hưởng đến toàn cầu.
Đồng tiền đô la Mỹ suy giảm khiến tiền tệ các quốc gia như Nhật Bản, Brazil và Hàn Quốc cứ liên tiếp tăng giá, xuất khẩu vấp phải nhiều tác động mạnh, và thu hút “đồng tiền nóng quốc tế” chảy vào. Những quốc gia này đã buộc phải cho ra nhiều chính sách can thiệp tỷ giá trong thời gian ngắn. Đồng thời, những tác động đối với chính sách tỷ giá của Trung Quốc cũng cấu thành nên bộ phận của “chiến tranh tỷ giá”.
Thực chất, trong bối cảnh phục hồi kinh tế toàn cầu chưa cân bằng, xuất hiện những cạnh tranh, tranh chấp tỷ giá khó tránh khỏi. Thật may mắn, các bên đều nhận thấy nền kinh tế toàn cầu không phải là một trò chơi có tổng bằng không, từng bước thúc đẩu phục hồi kinh tế Toàn cầu có lẽ sẽ là biện pháp tốt nhất để xóa bỏ những rủi ro “chiến tranh tỷ giá”.
6. Chính sách tiền tệ nới lỏng định lượng lần hai của Mỹ
6 tháng đầu năm nay, kinh tế Mỹ vẫn duy trì xu hướng phục hồi mạnh, nhưng giữa cuối năm tốc độ phục hồi bỗng nhiên chậm lại, cộng thêm tỷ lệ thất nghiệp không ngừng tăng cao, rủi ro giảm phát ngày càng lờ mờ, tháng 11 vừa qua, FED đã đưa ra chính sách tiền tệ nới lỏng định lượng lần 2.
Khách quan cho thấy, định vị chức năng của FED là phải có trách nhiệm đối với kinh tế Mỹ. Do tình hình kinh tế trong nước nhiều biến động như tỷ lệ thất nghiệp cao, phục hồi yếu kém, lạm phát thấp, nên chính sách nới lỏng định lượng có tính hợp lý của nó. Tuy nhiên, biện pháp lần này có tác dụng phụ rất lớn đối với toàn cầu: có thể làm xoay chuyển thị trường tài chính Toàn cầu, tăng thêm dự báo giảm tỷ giá của đồng đô la Mỹ, dẫn tới những đồng tiền nóng chảy vào các nền kinh tế mới nổi.
Căn nguyên xuất hiện mâu thuẫn như vậy là do đồng đô la Mỹ vừa là tiền tệ của Mỹ, vừa là tiền tệ của thế giới khi hai thân phận này xảy ra va chạm, thì có lẽ điều cần được phản ảnh nhiều hơn nên là những thiếu sót trong hệ thống tiền tệ quốc tệ hiện hành.
7. Lạm phát của nền kinh tế mới nổi ngày càng nguy cấp
Tình trạng kinh tế toàn cầu năm nay quá nóng quá lạnh cùng tồn tại song song. Đối với các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu, mặc dù không thể nói là sự nguy hiểm của tình trạng giảm phát, nhưng chỉ còn một ranh giới rất nhỏ là dẫn tới mối đe dọa của lạm phát. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế mới nổi, mối đe dọa của lạm phát thì lại giảm xuống.
Tỷ lệ lạm phát năm nay của Trung Quốc, Hàn Quốc, Brazil, Ấn Độ đều vượt qua mức tối thiểu mà chính phủ các nước đặt ra. Chuyển hướng chính sách tiền tệ đã trở thành sự lựa chọn chung của các quốc gia này.
Không ngoại lệ, hiện nay các quốc gia xuất hiện nguy cơ lạm phát đều cho rằng lạm phát sang năm có thể được khống chế. Tuy nhiên, các biện pháp điều chính vĩ mô để đối phó với lạm phát thì lại mang đến những nhân tố mới không xác định: nếu thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng không đủ để khống chế xu hướng lạm phát, nếu cường độ thắt chặt quá lớn thì có thể dẫn đến rủi ro suy thoái lần hai.
8. Giá cả các mặt hàng tăng trở lại
Trong năm nay, giá cả các mặt hàng tăng trở lại, đặc biệt là kể từ tháng 8 trở đi cùng với giá cả tài sản rủi ro tăng, xu hướng tăng của các mặt hàng cũng lạc quan hơn. Biên độ tăng giá dầu toàn cầu vượt mức 20%, giá vàng vượt mức 25%, mặt hàng bông vải sợi thì tăng một cách chóng mặt vượt mức 100%, giá lương thực thế giới theo dự báo cũng sẽ vượt mức kỷ lục ở cuối năm 2010.
Dự báo đi xuống của đồng đô la Mỹ, tính thanh khoản tràn lan, nhu cầu tăng mạnh, giá thành tăng cao và yêu cầu ứng phó với lạm phát đều trở thành nguyên nhân khiến giá cả các mặt hàng tăng cao.
Tốc độ tăng nhanh chóng của giá cả các mặt hàng rất dễ khiến chúng ta liên tưởng đến tình hình trước khủng hoảng nợ thứ cấp năm 2007, năm 2008, khiến chúng ta lo lắng liệu thị trường hàng hóa cao cấp mới đã quá cảnh, điều này đối với việc phục hồi kinh tế Toàn cầu yếu kém tuyệt đối không phải là một thông tin tốt.
Nguồn: DDDN

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2010

CÁC CHẾ TÀI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI BẰNG TIỀN – THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ

I. CÁC CHẾ TÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Bộ Luật dân sự
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần (Điều 310)
a) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất
- Bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền:
. Tổn thất về tài sản
. Chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
. Thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút
b) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần
Do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín…, thì phải:
- Xin lỗi
- Cải chính công khai
- Bồi thường một khoản tiền

2. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế

Chương IV Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế Điều 29: “… Bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm:
a) Tiền phạt vi phạm hợp đồng: Từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm:
- Vi phạm chất lượng: Phạt từ 3% đến 12%
- Vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng:
. Phạt 2% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm thời hạn thực hiện cho 10 ngày lịch đầu tiên;
. Phạt thêm từ 0,5% đến 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo cho đến mức tổng số các lần phạt không quá 8% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên;
. Nếu hoàn toàn không thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký thì bị phạt đến mức 12% giá trị hợp đồng.
- Vi phạm nghĩa vụ không hoàn thành sản phẩm, hàng hóa, công việc một cách đồng bộ: Phạt từ 6% đến 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm.
- Vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm hàng hóa, công việc đã hoàn thành theo đúng hợp đồng: phạt 4% giá trị phần hợp đồng kinh tế đã hoàn thành mà không tiếp nhận cho 10 ngày lịch đầu tiên và phạt thêm 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo cho đến mức tổng số các lần phạt không quá 12% giá trị phần hợp đồng đã hoàn thành và không được tiếp nhận ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên.
- Phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán áp dụng mức lãi suất tín dụng quá hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
b) Bồi thường thiệt hại:
- Giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng;
- Số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra;
- Tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thưòng thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải trả cho bên thứ ba là hậu quả trực tiếp của sự vi phạm này gây ra.
3. Luật thương mại
Điều 222. Các loại chế tài trong thương mại gồm:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
- Phạt vi phạm;
- Bồi thường thiệt hại;
- Hủy hợp đồng.
a) Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
- Giao hàng thiếu: phải giao đủ hàng
- Giao hàng kém chất lượng: Giao hàng khác thay thế
- Có quyền mua hàng khác để thay thế. Bên vi phạm phải bù chênh lệch nếu có.
b) Phạt vi phạm
- Một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
- Mức phạt không quá 8% (tám phần trăm) giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm.
c) Bồi thường thiệt hại;
- Số tiền bồi thường thiệt hại gồm:
. Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp
. Khoản lợi đáng lẽ được hưởng
- Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc buộc bồi thường thiệt hại đối với cùng một vi phạm.
d) Hủy hợp đồng
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG
1) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất trong quan hệ dân sự (Điều 310 BLDS)
- Bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền:
. Tổn thất về tài sản
. Chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
. Thu nhập thực tế (đã? sẽ?) bị mất, bị giảm sút
2) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần trong quan hệ dân sự
Do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín…, thì phải:
- Xin lỗi
- Cải chính công khai
- Bồi thường một khoản tiền (Cở sở tính toán? Tượng trưng?)
3) Bồi thường thiệt hại trong quan hệ hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại
a) Khó khăn trong sự phân biệt quan hệ hợp đồng – sự khác biệt trong áp dụng
PHÁP LỆNH HỢP ĐỒNG KINH TẾ
LUẬT THƯƠNG MẠI
Quan hệ hợp đồng:
- Mua bán hàng hoá và dịch vụ ……………
Hợp đồng về 14 hành vi thương mại
- Hợp đồng trong xây dựng cơ bản ………
- ?
- Hợp đồng vận chuyển ……………………………
- ?
- Hợp đồng trong tín dụng ngân hàng …
- ?
- Hợp đồng bảo hiểm …………………………………
- ?
Chế tài bồi thường:
- Giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng ……
Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp
- Số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra ……………………
- (Tổn thất thực tế, trực tiếp?)
- Tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thưòng thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải trả cho bên thứ ba ………………………
- (Tổn thất thực tế, trực tiếp?)
- (Giá trị số tài sản coi như bị mất?) ……
Khoản lợi đáng lẽ được hưởng
b) Khó khăn trong cách tính toán để xem xét yêu cầu của nguyên đơn
- Giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng:
. Giá trị ban đầu?
. Giá trị vào thời điểm xảy ra sự kiện?
. Giá trị vào thời điểm khởi kiện?
. Giá trị vào thời điểm xét xử sở thẩm? Phúc thẩm?
. Giá trị vào thời điểm thi hành án?
Ví dụ: Vụ American Coffee Cooperation-Agrimexco:
Do bên bán hàng không có coffee giao, thiếu 14.090 bao so với hợp đồng đã ký, bên mua yêu cầu bồi thường thiệt hại:
. 65.797. USD là khoản chênh lệch do phải mua lại trên thị trường hàng khác thay thế số lượng giao thiếu (có hợp đồng mua bán và chứng từ)
. Phạt vi phạm hợp đồng 12% tính trên tổng trị giá của hợp đồng.
. Các chi phí phát sinh liên quan đến vụ kiện, bao gồm cả chi phí luật sư.
- Số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra:
. Chi phí hợp lý?
. Chi phí cần thiết?
Ví dụ: Vụ kiện Công ty Vật tư CN – Công ty KDPL:
Hợp đồng mua bán sắt phế liệu, bên bán chỉ giao được 300/1.000 tấn theo cam kết đã ký, bên mua đòi bồi thường thiệt hại gồm các khoản:
. Chi phí đưa 600 công nhân từ Bắc vào Nam
. Lương 600 công nhân chờ việc trong 2 tháng
. Chi phí phòng ở của 200 công nhân trong 2 tháng.
- Tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thưòng thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải trả cho bên thứ ba:
. Tình nguyện, tự thỏa thuận với bên thứ 3?
. Thỏa thuận cao hơn quy định của pháp luật? Cao hơn thực tế?
. Đã trả rồi? Đã có cam kết sẽ trả?
. Có quyết định của cơ quan có thẩm quyền (Tòa án, Trọng tài?)
Ví dụ: Vụ kiện Công ty Shija – Công ty R&D:
Do không thuê được mặt bằng để tổ chức triển lãm, Công ty tổ chức triển lãm R&D phải huỷ bỏ hợp đồng đăng ký gian hàng triển lãm của công ty Shija. Công ty Shija đòi bồi thường thiệt hại tổng số tiền 46.500.000 đồng, gồm:
. Bồi thường cho bên thứ 3 (thiết kế, lắp đặt và cho thuê gian hàng) 43.500.000 đồng /giá trị hợp đồng 55.000.000 đồng. Thỏa thuận đã được một Tòa án công nhận, nhưng chưa thi hành án.
. Tiền bồi thường in lịch dự kiến để tặng khách tham quan 3.000.000 đồng /hợp đồng in lịch 7.050.000 đồng. Đã thỏa thuận với Nhà in nhưng chưa thanh toán.
- Khoản lợi đáng lẽ được hưởng:
. Cơ sở tính toán (bình quân lợi nhuận? Thời gian tính bình quân: Mấy tháng/năm liền kề?)
Ví dụ: Vụ Công ty TNHH QT-Công ty Điện tử H:
Hợp đồng đại lý được thực hiện 7/12 tháng. Do chấm dứt trước thời hạn, Công ty QT đòi bồi thường thu nhập bị bỏ lỡ trong 5 tháng còn lại trên cơ sở tính bình quân của các tháng trước đó.
- Chi phí đi lại tham gia kiện tụng? Chi phí lập hồ sơ kiện tụng? Chi phí luật sư được bồi thường? Giá biểu tính phí luật sư theo hợp đồng LS?, theo giá dịch vụ?
Ví dụ: Vụ Công ty Lương thực T – Công ty Giám định Quốc tế S
Do cấp chứng thư giám định sai, Công ty Lương thực đòi bồi thường thiệt hại:
- Tiền lãi vay Ngân hàng cho việc chuẩn bị hàng hoá 200.000 USD
- Lợi nhuận bỏ lỡ do không giao được hàng 15 USD/tấn x 15.000 tấn = 225.000 USD
- Phí luật sư 75.000.000 đồng
Công ty Giám định S chỉ chấp nhận 105.000 USD
c) Một số vụ kiện về SHTT
Vụ Nhạc sĩ TT – Công ty S Audio
Do Công ty S Audio sản xuất băng nhạc có sử dụng các bài hát của Nhạc sĩ TT nhưng không xin phép, sai nhạc, sai một số lời, Nhạc sĩ TT khởi kiện yêu cầu bồi thường 100.000.000 đồng, gồm lợi nhuận giảm sút của việc phát hành băng nhạc với Công ty khác, bồi thường danh dự, uy tín. Ngoài ra Nguyên đơn yêu cầu Côngy S Audio phải công khai xin lỗi trên phương tiện thông tin đại chúng:
Tòa án xét xử, chỉ chấp nhận bồi thường về lợi nhuận theo giá quy định của Nhà nước, thành tiền 13.000.000 đồng và buộc xin lỗi.
Vụ tranh chấp nhãn hiệu hàng hoá “Tân Tân”
Cơ sở ông Châu CV sản xuất bánh trung thu, đăng ký nhãn hiệu “Tân Tân” từ 14/9/1990 (GCN Cục SHCN).
Cơ sở ông Trần QT sản xuất đậu phộng chiên, đăng ký nhãn hiệu “Tân Tân” từ 15/12/1990 (GCN Cục SHCN).
Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn căn cứ khoản 2 Điều 710 Bộ luật dân sự xác định quyền ưu tiên đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của Cơ sở ông Châu CV, tuyên huỷ Quyết định cấp GCN của Cục SHCN.
Aùn phúc thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn, căn cứ Điều 785 Bộ Luật dân sự quy định về “nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau”, “… có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc”
Aùn phúc thẩm nhận định: Tuy cùng có chữ “Tân Tân” nhưng sản phẩm hoàn toàn khác nhau, hình ảnh nhãn hiệu cũng khác nhau (có thêm hình con tôm, 2 chữ Hán).
Nói chung, việc khởi kiện liên quan đến SHTT không nhiều do thủ tục Tòa án phức tạp, việc xử lý hồ sơ chậm, không có chế tài mạnh để điều tra, buộc chấm dứt ngay lập tức vi phạm, yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại vật chất khó tính toán. Người bị vi phạm thường chọn đường xử lý hành chính (Cục SHCN, CSKT).
III. KIẾN NGHỊ
1. Thông tư liên tịch hướng dẫn chi tiết cách tính toán bồi thường thiệt hại bằng tiền.
2. Thường xuyên tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng của Thẩm phán và những người làm công tác pháp luật.

ĐIỀU KHOẢN GIÁ CẢ VÀ VẤN ĐỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

I. NỘI DUNG ĐIỀU 14 VÀ ĐIỀU 55 CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN
1. Nội dung Điều 14
Điều 14 Công ước Viên quy định (1):
(1) Một đề nghị giao kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều bên xác định được xem là một chào hàng nếu nó đầy đủ và thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của người đề nghị trong trường hợp chào hàng được chấp nhận. Một đề nghị được coi là đầy đủ nếu có nêu rõ hàng hóa và – ngầm định hoặc rõ ràng – xác định hoặc quy định cách thức xác định giá cả và số lượng hàng hóa của hợp đồng.
(2) Một đề nghị không gửi tới một hoặc nhiều bên xác định thì chỉ được xem là lời mời chào hàng, trừ trường hợp bên đưa ra đề nghị đó tuyên bố rõ ràng sẽ chịu ràng buộc trách nhiệm.
Như vậy khoản 1 Điều 14 điều chỉnh một vấn đề hết sức cơ bản trong hợp đồng mua bán – đó là vấn đề chào hàng. Trước hết có thể khẳng định Công ước Viên, thông qua quy định tại khoản 1 Điều 14, đã chọn sử dụng phương thức truyền thống của việc kết lập hợp đồng thông qua mô thức chào hàng – chấp nhận chào hàng. Theo đó, bên chào hàng – thông qua đề nghị giao kết hợp đồng – thể hiện ý định giao kết hợp đồng, đưa ra các điều kiện của giao dịch cho bên được chào hàng. Dựa trên các điều kiện này, bằng quyết định chấp nhận chào hàng, bên được chào hàng kết lập nên hợp đồng với các điều khoản đưa ra trong chào hàng. Trong mô thức này, việc thể hiện ý định giao kết hợp đồng của bên chào hàng trước hết được xác định thông qua các điều kiện đưa ra trong chào hàng. Trong trường hợp được chấp thuận thì các điều kiện trong chào hàng trở thành những điều khoản cốt lõi của hợp đồng. Khoản 1 Điều 14 đã đưa ra các tiêu chí để xác định nội dung chủ yếu cần có của một chào hàng.
Xét trên phương diện thực hiện hợp đồng, chào hàng không chỉ là sự thể hiện ý định giao kết hợp đồng của người đưa ra chào hàng. Chào hàng còn thể hiện các yếu tố cơ bản cần thiết để các bên dựa vào đó thực hiện các nghĩa vụ của mình và qua đó đáp ứng quyền của bên kia2. Tùy thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể mà yêu cầu về điều kiện cơ bản của hợp đồng có thể khác nhau. Với hợp đồng mua bán, khoản 1 Điều 14 quy định nội dung chào hàng phải thể hiện tối thiểu ba điều kiện. Đó là: hàng hóa mua bán, số lượng và giá cả. Về giá cả, đó có thể là giá cả cụ thể hoặc phương thức xác định giá cả, được nêu ra rõ ràng hoặc ngầm định trong chào hàng.
Như thế, theo quy định tại khoản 1 Điều 14, bên cạnh những điều kiện khác, một chào hàng bắt buộc phải thể hiện điều kiện về giá cả thì mới được xem là đầy đủ để kết lập nên hợp đồng trong trường hợp chào hàng được chấp nhận.
Tuy nhiên, mệnh đề đảo: “Một chào hàng thiếu điều kiện về giá cả thì việc chấp nhận chào hàng sẽ không kết lập nên hợp đồng” liệu có được chấp nhận hay không? Vấn đề này sẽ được giải quyết sau khi nghiên cứu các quy định tại Điều 55 của Công ước.
2. Nội dung Điều 55 Công ước Viên
Điều 55 quy định3: “Trong trường hợp hợp đồng đã được kết lập có hiệu lực nhưng không đưa ra quy định để xác định giá cả thì, trừ khi có chỉ dẫn ngược lại, các bên trong hợp đồng được xem như đã ngầm định viện dẫn đến giá cả được tính vào thời điểm giao kết hợp đồng áp dụng đối với hàng hóa cùng loại trong điều kiện thương mại tương tự của ngành hàng liên quan”.
Việc tìm hiểu quy định tại Điều 55 không thể tách rời quy định tại Điều 14. Trong tương quan đó, có thể thấy Điều 55 giúp xác định phương thức tính giá khi hợp đồng được kết lập giữa các bên được xem là có hiệu lực nhưng bỏ qua không quy định điều kiện về giá cả. Giá cả được tính vào thời điểm giao kết hợp đồng, áp dụng đối với hàng hóa cùng loại trong điều kiện thương mại tương tự của ngành hàng liên quan được xem là ngầm định giữa các bên. Tuy nhiên hiệu lực của hợp đồng được xác định dựa trên quy định của luật của quốc gia điều chỉnh vấn đề này trong hợp đồng4.
Quan điểm phổ biến xem Điều 55 của Công ước Viên là quy định để “lấp lỗ hổng” (gap-filling) khi thỏa thuận trong hợp đồng không đề cập đến vấn đề giá cả của hàng hóa5. Quan điểm này tiếp cận quy định tại Điều 55 độc lập với quy định về chào hàng6, xem Điều 55 là quy định nhằm thực hiện hợp đồng (cụ thể là giải quyết vấn đề xác định giá cả khi việc giao kết hợp đồng đã được xem là hợp lệ). Trên phương diện khác, nếu xem sự hiện diện của điều kiện về giá cả trong nội dung của chào hàng (cùng với các điều kiện về hàng hóa và số lượng, theo khoản 1 Điều 14) là một trong những cơ sở quyết định hiệu lực của hợp đồng, thì tương quan giữa quy định của Điều 55 với khoản 1 Điều 14 sẽ không đơn giản như vậy.
3. Mối quan hệ giữa Điều 14 và Điều 55 Công ước Viên
Theo logic của quy định tại Điều 55 Công ước Viên, một hợp đồng có thể được kết lập có hiệu lực mà không cần có thỏa thuận về giá cả. Tuy nhiên, quy định tại Điều 14 có thể dẫn đến suy luận: điều luật này ngầm định rằng một đề nghị giao kết hợp đồng tuy có đầy đủ những điều kiện khác nhưng thiếu điều kiện về giá cả thì sẽ không được xem là một chào hàng hợp lệ7. Vấn đề ở đây là khi một chào hàng như thế (thiếu điều kiện về giá cả) được chấp nhận thì sự chấp nhận đó có làm nên một hợp đồng hay không? Nói cách khác là có sự mâu thuẫn giữa quy định của Điều 14 và Điều 55 hay không? Tùy thuộc vào lập trường của các hệ thống pháp luật khác nhau, vai trò của điều khoản giá cả đối với hiệu lực của hợp đồng được nhìn nhận khác nhau.
Ở những hệ thống pháp luật mà điều kiện về giá cả không bắt buộc đối với hiệu lực của hợp đồng, thì hợp đồng có thể được xem là giao kết hợp lệ dù trong đó các bên không có thỏa thuận nào về giá cả8. Với quan điểm này, quy định tại Điều 55 có chức năng “lấp lỗ hổng”, giúp các bên xác định giá cả để thực hiện hợp đồng trong trường hợp hợp đồng được kết lập không có thỏa thuận về điều này.
Vấn đề chỉ trở nên rắc rối khi câu trả lời đến từ các hệ thống pháp luật xem điều khoản giá cả là một trong những điều khoản bắt buộc đối với hiệu lực của hợp đồng9. Theo quan điểm của các hệ thống pháp luật này, cùng với các điều kiện khác, hợp đồng có những điều khoản cơ bản phải được các bên thỏa thuận thì mới được xem là có hiệu lực pháp luật. Thông thường, điều khoản giá cả là một trong những điều khoản đó. Chào hàng thiếu điều kiện về giá cả, vì thế, sẽ không làm nên một hợp đồng có hiệu lực dù cho người nhận được chào hàng có chấp nhận toàn bộ chào hàng. Các hệ thống pháp luật có cách tiếp cận theo hướng này cho rằng quy định của Điều 55 mâu thuẫn với quy định tại Điều 14 và cần được loại bỏ10.
Điều 14 và Điều 55 thuộc vào số những điều luật gây tranh cãi nhiều nhất trong các phiên họp của ban soạn thảo; và ngay cả đến khi tương quan lực lượng trong hội nghị dẫn đến kết quả là điều luật này được thông qua, vẫn còn những lá phiếu bất đồng11.
Sự khác biệt trong cách hiểu về mối quan hệ giữa các quy định của khoản 1 Điều 14 và Điều 55 Công ước Viên có nguồn gốc sâu xa từ sự khác biệt trong quan điểm của các hệ thống pháp luật khác nhau về vấn đề giao kết hợp đồng12. Cụ thể trong trường hợp này là quy định của pháp luật quốc gia về vai trò của điều kiện giá cả đối với hiệu lực của hợp đồng. Nếu một hợp đồng được xem là kết lập hợp pháp mà không cần có sự hiện diện của điều khoản giá cả, thì sẽ không có mâu thuẫn giữa hai điều luật và ngược lại. Đấy cũng là lời đáp cho câu hỏi: “Một chào hàng thiếu điều kiện về giá cả thì việc chấp nhận chào hàng sẽ không kết lập nên hợp đồng” liệu có được chấp nhận hay không?
Xoay quanh vấn đề mối quan hệ giữa quy định của khoản 1 Điều 14 và quy định của Điều 55 Công ước Viên, quan điểm trong giới nghiên cứu cũng chưa thống nhất. Tựu trung có 2 nhóm quan điểm: nhóm thứ nhất cho rằng có sự mâu thuẫn giữa quy định tại hai điều luật; nhóm thứ hai cho rằng quy định tại Điều 55 không mâu thuẫn, mà có tính bổ sung cho quy định tại khoản 1 Điều 14. Cụ thể, nhóm quan điểm thứ nhất, tiêu biểu là Giáo sư Allan Farnsworth, cho rằng hợp đồng không thể được xem là kết lập có hiệu lực (validly concluded) nếu không dựa trên một chào hàng hợp lệ13. Vì thế việc áp dụng quy định tại Điều 55 tạo ra mâu thuẫn với quy tắc được xác lập tại Điều 14. Nhóm quan điểm thứ hai, tiêu biểu là Giáo sư John O. Honnold, cho rằng theo Điều 55 một hợp đồng có thể có hiệu lực mặc dù không có quy định nào về giá cả, và rằng hai điều luật này không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau14. Theo Giáo sư John O. Honnold, ý định giao kết hợp đồng còn có thể được thể hiện qua nhiều yếu tố khác chứ không chỉ giới hạn trong những những điều kiện thể hiện trong chào hàng. Công ước Viên thông qua các quy định tại Điều 14, khoản 3 Điều 8 và khoản 3 Điều 18 đã điều chỉnh vấn đề kết lập hợp đồng trên cả hai khả năng: (i) hợp đồng được kết lập thông qua trao đổi chào hàng và chấp nhận chào hàng (Điều 14); (ii) hợp đồng được kết lập thông qua các diễn tiến khó tách biệt giữa chào hàng và chấp nhận chào hàng. Các diễn tiến này thể hiện thông qua hành vi của các bên hoặc các tập quán, các cách thức quen thuộc mà các bên đã thiết lập trong các giao dịch giữa họ. Nối tiếp và bổ sung nhau, các diễn tiến này dần dần phát triển quan hệ hợp đồng giữa các bên. Điều này được điều chỉnh bởi quy định tại khoản 3 Điều 8 và khoản 3 Điều 18 của Công ước15.
Cách tiếp cận mang tính chính thức hiện nay là của Ủy ban về luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL), tổ chức đã cho ra đời điều ước này. Theo tóm tắt mang tính hướng dẫn của UNCITRAL, quy định tại Điều 55 được hiểu trong tương quan với Điều 14 (1) như sau:16
Điều 55 Hợp đồng với điều khoản giá cả để ngỏ 55A Giá trị ràng buộc của hợp đồng để ngỏ quy định về giá cả;các quan điểm không thống nhất:
55A1 Điều 14 không chấp nhận giá trị ràng buộc đối với chào hàng không hợp lệ
55A2 khẳng định của mục 55A1 chỉ áp dụng khi sự vắng mặt của quy định về giá cả cho thấy rằng các bên không có ý định giao kết hợp đồng
55A3 Khi các bên có ý định giao kết hợp đồng, Điều 55 bổ sung cho hợp đồng
55A31 Thỏa thuận ngầm định về mức giá thông thường đối với hàng hóa của hợp đồng
55A32 Vấn đề: Nếu không có mức giá nói chung, sử dụng quy định tại Điều 9 (các tập quán, thực tiễn thực hiện hợp đồng đã hình thành giữa các bên)
55A4 thuật ngữ “Validly concluded” trong Điều 55 viện dẫn đến luật quốc gia áp dụng để giải quyết vấn đề hiệu lực của hợp đồng.
Đối chiếu với các quan điểm tiêu biểu trong giới nghiên cứu nêu ở trên, có thể nói quan điểm của John O. Honnold gần hơn với giải thích của UNCITRAL về Điều 55.
Xét về bản chất của quan hệ, yếu tố quyết định để xem một hợp đồng đã được xác lập hay chưa là sự thể hiện ý định giao kết hợp đồng của các bên. Vấn đề đặt ra là bằng cách nào xác định yếu tố đó. Khoản 1 Điều 14 đưa ra các tiêu chí để xác định một chào hàng hợp lệ, lấy đó làm một cơ sở quan trọng để xem xét ý định giao kết hợp đồng của bên đưa ra chào hàng. Nhưng cũng trong Công ước Viên, quy định tại các Điều 8, 9 và khoản 3 Điều 18 còn sử dụng các yếu tố khác để giải thích ý định của các bên tham gia vào giao dịch như: hành vi của các bên trong hợp đồng, các tập quán, thói quen mà các bên đã xác lập giữa họ với nhau. Trên góc độ thực tế, quy định trong các khoản 3 Điều 8 và khoản 3 Điều 18 mở ra khả năng giải thích linh hoạt hơn và trong nhiều trường hợp các quy định này tỏ ra hữu hiệu trong việc làm rõ thực chất ý định của các bên trong quan hệ. Ngược lại, cách giải thích ý định của các bên thông qua việc dựa trên các tiêu chí trong chào hàng giúp cụ thể hóa khái niệm chào hàng, khiến cho chào hàng trở thành công cụ định lượng cho yếu tố ý định giao kết hợp đồng của các bên. Dung hòa quan điểm của các truyền thống pháp luật khác nhau, Công ước Viên đã kết hợp cả hai cách quy định này. Trong quá trình thực hiện Công ước Viên, cách giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa Điều 14 và Điều 55 cũng đã được thể hiện phần nào qua các phán quyết giải quyết tranh chấp của trọng tài và tòa án. Thực tiễn này sẽ được khảo sát trong phần dưới đây.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 14 VÀ ĐIỀU 55 CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN
Trong phần này, chúng tôi phân tích một số tình huống tương đối điển hình, lấy từ thực tiễn của các tòa án và các trung tâm trọng tài áp dụng Công ước Viên giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giới hạn trong phạm vi các tranh chấp có liên quan đến quy định tại Điều 14 và Điều 55 của Công ước.
Tình huống thứ nhất17:
Nguyên đơn là người bán (Hà Lan), bị đơn là người mua (Thụy Sĩ). Theo hợp đồng, người bán sẽ cung cấp nguyên vật liệu để người mua sản xuất một lượng hàng theo thỏa thuận. Hợp đồng không có thỏa thuận về giá cả. Sau khi sử dụng hết 10% nguyên liệu thì giao dịch không được thực hiện nữa, người mua trả phần nguyên liệu còn lại cho người bán. Người bán khởi kiện đòi thanh toán cho toàn bộ lượng nguyên liệu đã giao.
Kết quả tòa án đã ra phán quyết buộc người mua thực hiện đúng yêu cầu của người bán. Tòa án, áp dụng quy định của khoản 3 Điều 8 Công ước Viên, giải thích ý định giao kết hợp đồng dựa trên hành vi của các bên sau khi giao kết được xác lập. Theo đó, người mua đã yêu cầu người bán gửi hóa đơn tiền hàng mà không đưa ra một sự hạn định nào, mặc dù người mua đã biết rõ là sẽ không sử dụng hết số nguyên liệu đó. Vì các bên không có thỏa thuận về giá cả, tòa án đã sử dụng quy định tại Điều 55 Công ước Viên để đưa ra mức giá buộc người mua thanh toán cho người bán.
Qua vụ việc trên, chúng ta có thể rút ra rằng: mặc dù không có thỏa thuận về giá cả, nhưng dựa trên xử sự của các bên, cơ quan giải quyết tranh chấp có thể giải thích để xác định sự thể hiện của ý định tham gia giao kết hợp đồng và lấy đó làm cơ sở để xác định sự tồn tại của hợp đồng. Trong trường hợp này, Điều 55 sẽ được áp dụng.
Tình huống thứ hai18:
Nguyên đơn là một công ty của Áo (người mua), bị đơn là một công ty của U-crai-na (người bán). Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh do bị đơn U- crai-na từ chối giao hàng. Bị đơn từ chối bồi thường, nại lý do là hợp đồng chưa được kết lập giữa hai bên.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài đã vận dụng các quy định về nội dung của chào hàng, tại khoản 1 Điều 14 Công ước Viên. Bản telex của bị đơn (người bán) trả lời nguyên đơn xác định hàng hóa và số lượng hàng mua bán theo hợp đồng, nhưng không thể hiện giá cả của hàng hóa. Thay vào đó, bản telex có đề nghị: giá cả của hàng hóa theo hợp đồng sẽ được thỏa thuận 10 ngày trước ngày đầu năm mới. Các bên sau đó đã không đạt được thỏa thuận về giá cả. Người bán báo cho người mua là không thể ký kết hợp đồng đối với lượng hàng hóa đã thỏa thuận. Người mua không đồng ý.
Giải quyết vụ việc, trọng tài căn cứ trên bản telex cho rằng khi một bên đưa ra thời điểm để thỏa thuận về giá cả thì điều đó cho thấy cần có những thỏa thuận tiếp tục trong tương lai, hay nói cách khác hai bên vẫn chưa đạt được sự thống nhất về điều kiện này. Trọng tài giải quyết vụ việc này cũng chỉ ra rằng quy định tại Điều 55 của Công ước Viên không thể được áp dụng trong trường hợp này, vì những gì thể hiện trong bản telex cho thấy các bên đã ngầm định về sự cần thiết phải đạt được thỏa thuận về giá cả trong tương lai.
Từ lập luận đó, căn cứ các quy định tại khoản 1 Điều 14, trọng tài cho rằng hợp đồng chưa được kết lập. Vì thế, trọng tài bác yêu cầu của nguyên đơn.
Qua vụ việc này chúng ta nhận thấy rằng không phải bất cứ hợp đồng nào thiếu quy định về giá cả cũng có thể được áp dụng quy định của Điều 55. Tòa án chỉ tính đến việc áp dụng Điều 55 khi có căn cứ để cho rằng các bên đã bỏ qua không thỏa thuận vấn đề giá cả. Trong trường hợp các bên cần thỏa thuận về một điều kiện nhưng vì lý do nào đó mà chưa đạt được thỏa thuận, thì chúng ta không có quyền kết luận là các bên đã ngầm định về một cách giải quyết nào cả. Thỏa thuận là nguyên tắc tối thượng trong hợp đồng19. Trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận thì, dù vì bất cứ lý do gì, cũng không thể ràng buộc nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đối với các bên được. Sự thỏa thuận rằng sẽ tiếp tục đàm phán về điều kiện giá cả, nếu sau đó các bên không thống nhất được cách giải quyết, là yếu tố loại bỏ việc áp dụng quy định tại Điều 55.
III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT
1. Nhận xét
Từ các phân tích về khoản 1 Điều 14 và Điều 55, kết hợp thực tiễn áp dụng của hai điều luật này, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Nhận thức về nội dung của hai điều luật:
Với các quy định tại khoản 1 Điều 14 và Điều 55, một cách tóm tắt, có thể nói rằng theo Điều 14, chào hàng là một trong những cơ sở để xác định ý định giao kết hợp đồng. Một chào hàng chỉ được coi là hợp lệ khi thể hiện được các điều kiện về hàng hóa, số lượng và giá cả. Một chào hàng hợp lệ khi được chấp nhận sẽ kết lập nên hợp đồng. Tuy nhiên, theo Điều 55, yêu cầu nói trên của Điều 14 chỉ áp dụng trong trường hợp sự thiếu thỏa thuận về giá cả cho thấy các bên không có ý định giao kết hợp đồng. Nói cách khác, khi có cơ sở khẳng định các bên đã thực sự có ý định giao kết hợp đồng thì Điều 55 có thể được áp dụng. Khi đó, giá cả được xem là ngầm định giữa các bên được xác định bằng cách viện dẫn đến giá cả được tính vào thời điểm giao kết hợp đồng, áp dụng đối với hàng hóa cùng loại trong điều kiện thương mại tương tự của ngành hàng liên quan. Hiệu lực của hợp đồng được xác định dựa trên quy định của luật quốc gia. Điều này dẫn đến hệ quả là tùy thuộc vào luật quốc gia áp dụng giải quyết vấn đề hiệu lực của hợp đồng, một thỏa thuận mua bán hàng hóa theo Công ước Viên có thể được coi là đã được kết lập và có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý, mặc dù trong thỏa thuận đó không có điều kiện về giá cả.
Hướng tiếp cận của cơ quan giải quyết tranh chấp:
Nghiên cứu các vụ việc trên, người viết đồng tình với quan điểm của Giáo sư Gabuardi về cách tiếp cận của tòa án và trọng tài: “Trong khi không lên tiếng trong cuộc tranh luận của giới học thuật, tòa án đã tiếp cận vấn đề điều khoản giá cả để ngỏ (open-price terms) theo hướng: Điều 14 và Điều 55 giải quyết các vấn đề khác nhau. Điều 14 giải quyết vấn đề điều khoản giá cả để mở vào thời điểm kết lập hợp đồng, trong khi Điều 55 giải quyết vấn đề này khi các bên đã đi vào thực hiện”20.
Các trường hợp áp dụng quy định tại Điều 55:
Khi có căn cứ cho thấy các bên thực sự có ý định ràng buộc khi giao kết hợp đồng nhưng đã bỏ qua không đưa điều kiện giá cả vào trong thỏa thuận giữa họ thì lúc đó Điều 55 có thể sẽ được áp dụng. Về nguyên tắc, việc áp dụng Điều 55 đòi hỏi đáp ứng đồng thời hai điều kiện: (a) Hợp đồng có hiệu lực và (b) Trong hợp đồng không có thỏa thuận về giá cả.
Các trường hợp không áp dụng quy định tại Điều 55: Về nguyên tắc, Điều 55 sẽ không được áp dụng khi hợp đồng rơi vào một trong các khả năng:
- Hợp đồng bị xem là chưa được kết lập: Trường hợp sự thiếu vắng của điều kiện giá cả cho thấy có ít nhất một bên không có ý định giao kết hợp đồng. Điều kiện giá cả không phải là đã được bỏ qua mà chỉ là chưa thống nhất được.
- Đã có phương thức xác định giá cả: Đây là trường hợp các bên trong hợp đồng đã thiết lập như một tiền lệ, một thói quen giữa họ về cách xác định giá cả. Mặc dù trong hợp đồng không có quy định về giá cả, nhưng thông qua các giao dịch trước đó các bên đã hình thành một thực tiễn thực hiện điều kiện này. Vì thế, có thể xem rằng các bên đã ngầm định áp dụng giá cả theo cách được xác định trong các giao dịch trước đó21. Có thể nói đây là biểu hiện của trường hợp “có chỉ dẫn ngược lại” trong quy định của Điều 55 Công ước.
- Hợp đồng vô hiệu: Trường hợp này hợp đồng không có thỏa thuận về giá cả và điều đó khiến hợp đồng bị xem là vô hiệu theo quy định của luật quốc gia được viện dẫn để điều chỉnh vấn đề hiệu lực của hợp đồng.
2. Một số đề xuất
Như đã phân tích ở phần trên, trong buôn bán quốc tế vẫn xảy ra những tranh chấp mà nguyên nhân là do nhận thức không đúng về quy định tại các Điều 14 và 55 của Công ước Viên. Ngày nay, khi tỷ lệ hàng hóa được sản xuất theo tiêu chuẩn ngày càng tăng, trong bối cảnh thị trường mở rộng và thông tin thông suốt trên phạm vi quốc tế, người ta ngày càng có xu hướng dựa vào các bản báo giá (price-list) của các công ty. Mặt khác, các tiện ích của phương tiện truyền thông hiện đại cũng hướng đến hỗ trợ cho việc đặt hàng không qua thỏa thuận về giá22. Tất cả những diễn biến này cho thấy rằng khả năng các bên tham gia vào giao dịch mua bán mà không thỏa thuận về điều kiện giá cả là hoàn toàn có thể xảy ra. Những tranh chấp phát sinh trong hoàn cảnh này có thể buộc các bên phải trở lại với các quy định tại Điều 55 và Điều 14 của Công ước. Một số khuyến nghị sau đây có thể là bổ ích đối với doanh nghiệp:
- Đưa điều kiện giá cả vào thỏa thuận hợp đồng: Các bên nên dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng thương vụ mà xây dựng thỏa thuận phù hợp về điều kiện giá cả. Ở mức đơn giản nhất cũng nên có quy định về cách thức xác định giá cả. Để tránh các tranh chấp có thể phát sinh từ việc bỏ qua điều khoản giá cả, tổ chức Phát triển luật quốc tế đã đưa ra điều khoản mẫu giúp các bên nhanh chóng đưa thỏa thuận về vấn đề này vào hợp đồng.
Theo đó, điều khoản này có thể rất đơn giản như sau: “Giá của hàng hóa mua bán là giá thị trường tại thời gian và địa điểm giao hàng (hoặc gửi hàng)”23. Một quy định ngắn gọn như vậy đã có thể giúp giải quyết được nhiều vấn đề. Vừa có cách thức xác định giá, vừa đáp ứng yêu cầu về sự linh hoạt theo diễn biến thị trường, hạn chế thiệt thòi quá mức cho một bên khi thị trường biến động đột ngột và như thế giúp hạn chế khả năng phát sinh tranh chấp.
- Liên lạc, trao đổi để khẳng định các điều kiện của giao dịch: trong trường hợp nghi ngờ có sự chưa rõ ràng trong ý định của người chào hàng thì nên trao đổi để làm rõ. Một cuộc điện thoại hay vài bức fax có thể giúp giải quyết nhanh chóng vấn đề này, tránh được những rủi ro tiềm tàng do hiểu lầm hoặc sự mập mờ trong các cam kết.
- Nhận thức rõ quy định của Công ước Viên về chào hàng có nhiều điểm khác so với quy định pháp luật trong nước: điều kiện của chào hàng đơn giản hơn, hợp đồng có thể được kết lập có hiệu lực mà không nhất thiết phải có điều khoản về giá cả. Đây là điều khác với quy định hiện hành trong pháp luật của ta. Trong thực tế, nhận thức này có ý nghĩa khi hợp đồng được điều chỉnh bởi Công ước Viên24.
- Ở khía cạnh lập pháp, cũng cần cân nhắc khả năng của hệ thống pháp luật khi quyết định mức độ tham gia vào Công ước Viên: Điều 92 của Công ước Viên cho phép các nước giới hạn mức độ tham gia Công ước, có thể là toàn bộ hoặc từng phần. Từ các phân tích trên, có thể nói nếu Việt Nam chọn tham gia toàn phần đối với Công ước Viên thì chắc chắn phải có những điều chỉnh trong quy định pháp luật về hợp đồng, trong đó có quy định về nội dung của chào hàng, các quy định điều chỉnh mối liên hệ giữa các điều kiện trong chào hàng với vấn đề hiệu lực của hợp đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Tạm dịch từ bản tiếng Anh của Công ước Viên.
•2 Tất nhiên chào hàng có thể và thường không thể hiện tất cả các điều kiện của giao dịch. Nhiều điều kiện của giao dịch sẽ được giải thích bởi luật áp dụng. Pháp luật có thể ràng buộc các bên thỏa thuận một số điều khoản nhất định.
•3 Xem chú thích số 2.
4 Vấn đề hiệu lực của hợp đồng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Viên (Điều 4, điểm a). Theo quy định tại Điều 7(2) của Công ước, vấn đề này sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc gia theo dẫn chiếu của các quy phạm chọn luật trong tư pháp quốc tế.
5 Xem Ronald A. Brand, Fundamentals of Interna-tional Business Transactions, Kluwer Law Interna-tional,
(2000), p.134. Xem G. Eorsi trong bi Open-price Contracts, FARNSWORTH, in BIANCA-BONELL, COMMENTARY ON THE INTERNA-TIONAL SALES LAW, pp. 406-407.
6 Điều khoản giá cả (trong chào hàng và sau đó là trong hợp đồng) theo quan điểm này không nhất thiết là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Nội dung của chào hàng chỉ được xem là một trong các yếu tố thể hiện ý định giao kết hợp đồng.
7 Thuật ngữ “chào hàng hợp lệ” ở đây được dịch từ thuật ngữ “sufficiently definite”, dùng để chỉ một chào hàng mà về nội dung thể hiện đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14(1) (hàng hóa, giá cả và số lượng).
8 Xem các ý kiến của các đại biểu Feltham (Vương quốc Anh), của Vindding Kruse (Đan Mạch), của Sevon (Phần Lan) tại hội nghị thông qua Công ước. John O. Honnold, Documentary History of the Uniform Law for International Sales, Kluwer Law and Taxation Publishers, p.584.
9 Ví dụ quy định của pháp luật các nước châu Âu lục địa như Áo, Bỉ, Hà Lan, Pháp cũng như của CH XHCN Xô-viết trước đây đều theo hướng này. Xem Petar Sarcevic and Paul Volken (Editors), International Sale of Goods-Dubrovnik Lectures, Oceana Publications, Inc. (1986), p.208. Với Việt Nam, theo quy định pháp luật hiện hành (2004), giácả cũng là điều khoản bắt buộc phải có đối với hiệu lực của hợp đồng (Điều 401 Bộ luật dân sự 1995, Điều 50 Luật thương mại 1997).
10 Xem ý kiến của các đại biểu Minami (Nhật Bản), Andruyushin (Cộng hòa Blat-xia). John O. Honnold. Sđd. tại chú thích số (9), tr.584.
11 Điều 55 (trong Dự thảo lúc đó là Điều 51) đã được thông qua với 40 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 5 phiếu trắng. Xem John Honnold, Sđd. ở chú thích số 9, tr.746.
12 Ngoài ra còn có nguyên nhân từ quy trình soạn thảo. Hai điều luật này nếu nằm trong hai văn bản độc lập thì khó có thể bị xem là mâu thuẫn. Công ước Viên hình thành từ hai dự thảo riêng biệt là Kết lập hợp đồng (Formation Draft) và Mua bán hàng hóa (Sales Draft). Các dự thảo được soạn thảo tách biệt, và quyết định kết hợp hai dự thảo vào một điều ước chỉ được đưa ra khi việc soạn thảo đã tương đối hoàn tất, thông qua phiên họp thứ 11 của Ủy ban soạn thảo. Quy định tại Điều 14 và 55 vốn thuộc về hai dự thảo tách biệt đó. Xem Yearbook, IX (1978), p.13.
13 Xem chú thích số 8.
14 Theo Paul Amato, U.N. CISG- The Open Price Term and Uniform Application: An Early Interpretation by the Hungarian Courts, 13 Journal of Law and Commerce, p.10, (1993).
15 Xem John O. Honnold, Uniform Law for International Sales under the 1980 United Nations Convention, 2nd Edition, Kluwer Law and Taxation Publishers, p.192, p.193.
16 Xem UNCITRAL Outline of the CISG [The UNCITRAL Thesaurus] (A/CN.9/SER.C/GUIDE/1 English 12 September 1995). Tạm dịch từ bản tiếng Anh: Article 55. Open-price contracts: 55A Enforceability of agreements that do not make provision for the price; conflicting views: (55A1) Article 14 denies enforcement for lack of definiteness; (55A2) Article 14 denies enforcement only when lack of provision for price indicates that parties do not intend to be bound; (55A3) When parties intend to be bound, Article 55 upholds the agreement;
(55A31) Implied agreement on price generally charged for such goods (55A312) Problem: No general price; see art. 9 (practices and usages); (55A4) “Validly concluded” in article 55 refers to applicable domestic law outlawing such agreements.
17 Case số 215. Như trên.
18 Case số 139. Như trên.
19 Nguyên tắc này cũng chi phối vấn đề hiệu lực của hợp đồng. Nếu chứng minh được các quy định trong hợp đồng được hình thành không phải qua tự nguyện tự do thỏa thuận, thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực pháp lý.
20 Xem Carlos A. Gabuardi, Open Price Term in the CISG, the UCC and Mecican Commercial Law. DistritoB-6 No. 571, Col. Leones, Monterrey, N.L. MEXICO. (2001).
21 Xem Điều 9 Công ước Viên. Trường hợp này là một ví dụ về thỏa thuận ngầm định về giá cả, được giải quyết theo Điều 14 và các điều khác có liên quan, mà không phải là Điều 55.
22 Xem Xem G. Eorsi, chú thích số 6, Sđd. tr.405.
23 International Development Law Organization, Development Lawyers Course DLC 20E- International Sale of Goods, (April 14-15, 2003), email: waltla@aol.com, Suggested Contractual Provisions/Forms Related to
Certain Articles Of CISG.
24 Tất nhiên, trên cơ sở của quy định tại Điều 6 Công ước Viên, các bên trong hợp đồng có quyền có những thỏa thuận khác với quy định của Công ước.
Nguồn: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 6/2004

TÌM HIỂU VỀ LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ (anti-dumping) CỦA MỸ

Từ khi phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại và đẩy mạnh sự hội nhập vào nền thương mại quốc tế, Việt Nam đã phải đụng chạm với nhiều vấn đề mới và làm quen với một số khái niệm và ngôn từ mới. Qua vụ tranh chấp với Mỹ về việc buôn bán cá tra, những thuật ngữ “bán phá giá”, “dumping” và “anti-dumping” đã trở thành quen thuộc trong báo chí và dư luận trong nước. Sự kiện cá tra được nhiều người coi như một thử thách quan trọng cho quan hệ thương mại giữa hai nước, qua đó có thể đánh giá ý nghĩa và giá trị thực tiễn của hiệp ước song phương Việt -Mỹ, và cũng là điển hình cho những vấn đề Việt Nam sẽ còn hay gặp và phải giải quyết trong các quan hệ kinh tế với thế giới.
Để đối phó với một vấn đề mới, đầu tiên là phải tìm hiểu các ngõ ngách, nguồn ngọn của nó, nắm bắt những yếu tố có lợi và bất lợi cho mình để tự bảo vệ. Phát triển quan hệ thương mại với thế giới, đặc biệt với Mỹ, là điều cần thiết nhưng nếu muốn đi buôn mà không mất cả chì lẫn chài thì phải nắm rõ luật chơi để khỏi bị ăn hiếp hay lép vế. Buôn bán với Mỹ thì không chóng thì chầy, lúc nào đó sẽ bị gán cho tội bán phá giá, và tội này sẽ được Mỹ phân xử theo luật lệ riêng của Mỹ, theo chính sách và truyền thống của Mỹ.
Qua sự kiện cá tra, chúng ta có thể thấy phía Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu, tìm hiểu về việc kiện tụng này và cách Mỹ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Các trang web của báo chí trong nước đã có nhiều bài báo, phỏng vấn và liên kết đến các nguồn tư liệu, kể cả bằng tiếng Anh, cho phép dư luận theo dõi đầu mối và diễn tiến của vụ tranh chấp. Tuy thế, hình như cũng chưa có bài nào phân tích sâu và toàn diện hơn về vấn đề chống bán phá giá nói chung và chính sách liên quan của Mỹ. Trong bài này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về bộ luật chống bán phá giá của Mỹ và quá trình áp dụng nó trong bối cảnh rộng hơn của hệ thống thương mại đa phương nói chung và chính sách ngoại thương của Mỹ nói riêng. Để cho gọn, chúng tôi sẽ dùng lẫn lộn các thuật ngữ “bán phá giá” hoặc “dumping”, và hai chữ “AD” (cho anti-dumping) khi cần viết tắt thuật ngữ “chống bán phá giá” .
Bán phá giá và chống bán phá giá là gì ?
Bán phá giá đi liền với cạnh tranh, và là một trong những hình thức cạnh tranh bất chính. Cạnh tranh chủ yếu là qua chất lượng hay giá cả, và giá cả thường là yếu tố có sức thuyết phục hơn cả. Có buôn bán tất có cạnh tranh nên hai khái niệm này cùng xưa như nhau, nhưng chỉ từ khi sự thương mại giữa các nước được đặt thành vấn đề phải giải quyết một cách qui củ, trong khuôn phép của luật lệ, thì mới bàn đến cạnh tranh trung thực hay bất chính. Cùng lúc với sự hình thành của luật thương mại quốc tế là một “đạo lý kinh tế” chi phối các quan hệ giữa các bạn hàng. Cạnh tranh là một trong những cơ sở của chủ nghĩa tự do kinh tế nhưng cũng phải tuân thủ những nguyên tắc đạo lý ấy. Những câu chữ thường gặp nhất trong sách vở nói rõ mối quan tâm đó: cạnh tranh phải trung thực (fair competition) trong một nền thương mại đa phương phải là sân chơi bình đẳng (level playing field), trong đó mọi hành vi làm sai lệch (distort) mối tương quan cạnh tranh để giành lấy một lợi thế bất chính (unfair advantage) đều đáng lên án, thậm chí có thể bị trừng phạt.
Bán phá giá là một trong những hành vi ấy, được định nghĩa là việc bán một món hàng trên một thị trường ngoại quốc với giá rẻ hơn giá bán trên thị trường nội địa của nơi sản xuất. Vì như thế là cạnh tranh bất chính với các nhà sản xuất của nước nhập khẩu, nên để bảo vệ họ, chính quyền nước này có thể phản công, thường là qua biện pháp đánh thuế, một loại thuế đặc biệt chỉ áp dụng cho nước xuất khẩu món hàng bị coi là bán phá giá, hầu lập lại thế quân bình trong cạnh tranh, tái lập lại sân chơi bình đẳng. Thuế ấy gọi là thuế chống bán phá giá.
Các biện pháp chống bán phá giá (AD) như thế nhằm tái lập trật tự trong cạnh tranh, đúng với tư duy của chủ nghĩa tự do kinh tế, nhưng cũng là công cụ bảo vệ ngành sản xuất nội địa đối với hàng nhập. Nhưng cản trở nhập khẩu, đánh thuế, thì lại có vẻ mâu thuẫn với một “giáo lý” cơ bản khác là tự do hoá các luồng giao lưu thương mại. Thực ra không có gì mâu thuẫn vì các biện pháp AD cũng còn là một loại van an toàn cho chính sách tự do mậu dịch. Càng mở rộng cửa cho bên ngoài vào thì càng phải nắm chắc cái quả đấm để đóng cửa ngay lại được nếu cần. Càng chủ trương hội nhập vào toàn cầu hoá thì càng phải có những biện pháp phòng thủ, trước mắt là để trấn an các nhà sản xuất nội địa và có được sự ủng hộ trong nước. Do đó không ngẫu nhiên mà các nước kinh doanh lớn nhất thế giới, hô hào mạnh nhất cho tự do mậu dịch, như Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Úc và Canada, cũng là những nước dùng đến các biện pháp AD nhiều nhất. Cũng như không ngẫu nhiên mà vấn đề chống phá giá vẫn có chỗ trong chương trình phục vụ tự do hoá thương mại của tổ chức GATT và sau này WTO.
Chống bán phá giá trong khuôn khổ GATT và WTO
Vấn đề chống bán phá giá tuy đã được Hiệp hội các quốc gia (League of Nations) nghiên cứu ngay từ năm 1922, nhưng chỉ đến năm 1947, với sự thành lập của tổ chức GATT (General Agreement of Tariffs and Trade – Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại), mới được đặt dưới sự chi phối của luật quốc tế, qua Điều VI của Hiệp ước này. Lúc ấy đề tài này chưa được tranh cãi nhiều và chỉ về sau, khi các luồng thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh đương nhiên ráo riết hơn, và các nước thành viên của GATT cũng đông hơn, mới thành một mối quan tâm chính, ngày càng lớn qua các vòng thương thảo tiếp nối nhau. Khi vòng Kennedy Round chấm dứt năm 1967 thì những qui tắc về chống bán phá giá trong Điều VI của GATT được triển khai thành cả một hiệp ước riêng: Agreement on the Implementation of Article VI , thường gọi tắt là Anti-dumping Code, hay Bộ luật AD. Ngoài việc chống phá giá, Điều VI còn qui định các biện pháp chống tài trợ (countervailing) đối với các hàng nhập khẩu được tài trợ tại nơi sản xuất. Vấn đề này cũng được triển khai thành một hiệp ước riêng : Agreement on the interpretation and application of Articles VI, XVI and XXIII, thường gọi tắt là Subsidies Code, hay Bộ luật về tài trợ.
Hai bộ luật này tiếp tục được bổ sung trong các vòng thương thảo Tokyo Round và Uruguay Round. Bộ luật AD hiện hành ngày nay là Agreement on the Implementation of Article VI of GATT 1994, gọi tắt là Anti-dumping/AD Agreement, và bộ luật về tài trợ là Agreement on Subsidies and Countervailing Measures, gọi tắt là SCM Agreement. Ngoài ra, Điều XIX của GATT cũng được triển khai thành một hiệp ước mới về các biện pháp bảo vệ ( Agreement on Safeguards, gọi tắt là SG Agreement) cho phép một nước nhập khẩu đánh thuế đặc biệt vào một mặt hàng khi số lượng nhập khẩu tăng vọt, gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại trầm trọng (material injury) cho ngành sản xuất nội địa liên can.
Trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới WTO, kế thừa GATT sau vòng Uruguay, ba hiệp ước AD, SCM và SG còn được gọi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp “cứu chữa” (trade remedies) hay “phòng vệ” (trade defences), áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập của hàng hoá nước khác. Đa số các vụ tranh chấp trước GATT và WTO xoay quanh ba hiệp ước này, và nếu trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ tìm hiểu về vấn đề chống dumping, cũng không nên quên là hai vấn đề liên kết kia cũng rất hay gặp phải trong các quan hệ ngoại thương.
Trong những lãnh vực thuộc thẩm quyền của WTO, luật quốc gia một nước thành viên phải phù hợp với các hiệp ước và qui định của WTO, những văn kiện này được coi như một bộ phận của hệ thống pháp lý quốc gia, và đặt ở vị trí cao nhất. Do đó các đạo luật khung về AD của các nước thường lập lại tất cả các nguyên tắc của Hiệp ước AD, thậm chí lấy lại nguyên văn hiệp ước trong trường hợp nhiều nước chỉ mới ban hành luật này sau khi gia nhập WTO. Để áp dụng các nguyên tắc ấy trong thực tế, mỗi nước có một hay nhiều đạo luật thi hành, dựa theo pháp chế riêng của mình. Như thế, về các nguyên tắc chung thì luật các quốc gia phải đồng nhất nhưng về mặt áp dụng thực tiễn thì có thể có những đặc tính khác nhau. Đây là hai vế song song của vấn đề cần phải nắm rõ như nhau.
Các nguyên tắc cơ bản của Hiệp ước AD
Hiệp ước AD của WTO có hiệu lực từ ngày 1.1.1995, gồm 3 phần chia thành 18 điều lệ và hai phụ đính. Những điều lệ quan trọng nhất là Điều 2 ( Xác định sự bán phá giá), Điều 3 ( Xác định sự tổn hại), Điều 4 (Định nghĩa ngành sản xuất nội địa), Điều 5 (Khởi tố và điều tra), Điều 6 (Bằng chứng), Điều 9 (Ấn định và thu thuế AD) và Điều 11 (Thời gian hiệu lực và việc xem xét lại các thuế AD và cam kết về giá cả).
Theo định nghĩa của Điều 2.1, một món hàng sẽ bị coi như bán phá giá nếu được đưa vào thị trường một nước khác với một giá thấp hơn giá trị bình thường (normal value) của nó, tức là nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá so sánh được (comparable price) của một món hàng tương tự (like product) bán trên thị trường của nước xuất khẩu. Chỉ một câu thôi mà có tới ba thuật ngữ là đầu mối cho bao nhiêu vụ tranh chấp, được đem ra mổ xẻ, bàn cãi trong cả mấy trăm trang cho từng báo cáo của WTO! Thế nào là giá trị bình thường, thế nào là bình thường ? Giá của tôi thế này mà lại so sánh được với giá của anh sao?! Thế nào là tương tự? Rượu Whisky Mỹ mà lại tương tự với rượu Shoju của Nhật à ? V.v. và v.v. Những phần còn lại của Điều 2 qui định tỉ mỉ cách tính giá cả, giá trị bình thường, cách so sánh mọi yếu tố, trong nhiều trường hợp khác nhau, để đi đến phán quyết là có hay không có dumping và biên độ bán phá giá (dumping margin) là bao nhiêu.
Quan trọng không kém là xác định ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu có bị tổn hại hay không. Đây là cơ sở “đạo lý” của biện pháp AD. Điều 3 dài 2 trang và gần như câu nào cũng kéo theo đủ thứ vấn đề rối rắm, làm tốn không biết bao giấy mực trong các vụ tranh chấp! Nhưng cũng có thể tóm gọn những điểm cơ bản nhất như sau:
1. Để xác định có sự tổn hại, cơ quan điều tra phải dựa vào các chứng từ tích cực (positive evidence), các sự kiện chứ không được vịn vào một luận cứ (allegation), phỏng đoán hay một khả năng xa vời và phải xem xét một cách khách quan a) số lượng hàng nhập bán phá giá và ảnh hưởng của nó lên giá cả của mặt hàng tương tự trên thị trường nội địa và b) ảnh hưởng của hàng nhập ấy lên các nhà sản xuất nội địa.
2. Hàng nhập phải rẻ hơn hàng nội địa một cách đáng kể, và phải là ngưyên nhân khiến giá hàng nội địa bị dìm theo và không tăng lên được.
3. Cơ quan điều tra phải xét đến tất cả các yếu tố khác, ngoài hàng nhập, liên quan đến tình trạng kinh tế của ngành sản xuất nội địa.
4. Phải có một quan hệ nhân quả (causal relationship) giữa hàng nhập bị tố cáo là bán phá giá và sự tổn hại. Cơ quan điều tra không được vu cho hàng nhập khẩu những gì do các yếu tố khác gây ra.
Điều 4 định nghĩa ngành sản xuất nội địa, tức là ai có quyền đệ đơn trước cơ quan hữu trách để khởi đầu một vụ kiện AD. Điều 5 và Điều 6 qui định chi tiết các thủ tục khởi tố và điều tra, các bằng chứng do bên nguyên và bên bị đưa ra. Theo Điều 8, cơ quan điều tra có thể đồng ý ngưng hay chấm dứt thủ tục mà không đánh thuế nếu công ty bị kiện cam kết thôi không bán phá giá. Điều 11 qui định là các thuế AD có thể được áp dụng cho đến khi không còn cần thiết để khắc phục sự bán phá giá đã gây ra tổn hại. Tuy thế, cơ quan hữu trách phải xem xét lại sự cần thiết ấy, sau một thời gian vừa phải, và bãi bỏ thuế AD nội trong vòng 5 năm trừ phi khẳng định, sau khi đã xem xét lại tình hình, là làm thế thì sự bán phá giá và tổn hại sẽ tiếp diễn hoặc tái diễn.
Hiệp ước AD còn qui định là một năm hai lần, các nước thành viên phải thông báo lên Ủy Ban AD (Committee on Anti-dumping Practices) của WTO những quyết định khởi tố hay biện pháp AD mới, tiến trình của các điều tra và biện pháp đương thời, những mặt hàng và những nước xuất khẩu bị nhắm. Ủy ban AD thường xuyên phải nhắc nhở các nước thành viên nào lơ là việc này, thông tin chậm trễ hay thiếu sót, hay thậm chí cả mấy năm không báo cáo gì cả. Do đó các thống kê chỉ phản ánh một phần của thực tế. Tuy thế mấy con số sau đây cũng cho thấy tốc độ phát triển của vấn đề: năm 1958, đợt kiểm kê đầu tiên của GATT sau 11 năm thành lập cho thấy chỉ có 37 sắc lệnh AD hiện hành trong tất cả các nước thành viên, trong đó 21 sắc lệnh là của Nam Phi. Theo tổng kết của WTO tháng 6 năm 2003, chỉ trong 8 năm, từ 1.1.1995 đến 31.12.2002, đã có tới 1 258 biện pháp AD của các thành viên được thông báo đến Ủy ban.
Một điều đáng lưu ý là tuy các nước phát triển tiếp tục dùng nhiều đến các biện pháp AD nhưng số biện pháp xuất phát từ các nước thế giới thứ ba đã tăng vọt từ sau Vòng Uruguay và hiện nay đứng đầu danh sách là Ấn Độ với 219 biện pháp, trước cả Mỹ (192) và Liên hiệp châu Âu (164). Như Ấn Độ, trong khối đang phát triển, các nước dùng đến AD nhiều nhất như Argentina (120), Nam Phi (107) hay Brazil (55) và Mexico (55) đều là những nước rất tích cực trong việc đẩy mạnh ngoại thương. Từ đó có thể rút ra hai nhận xét: một là, song song với sự hội nhập vào nền thương mại quốc tế, các nước đang phát triển cũng dùng đến bộ máy AD nhiều hơn vì phải bảo vệ nền sản xuất còn yếu ớt của chính mình và các biện pháp AD vừa là cách hữu hiệu nhất vừa phù hợp với luật lệ của WTO. Hai là đối với các nước này, các biện pháp AD vừa là công cụ của các cường quốc không cho họ thâm nhập thị trường và mở mang buôn bán, vừa là cái van an toàn cần thiết cho chính họ. Do đó, trong sự tranh cãi giữa các nước nghèo và giàu về đề tài AD, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của Hội nghị bộ trưởng WTO tại Seattle năm 1999 và còn dai dẳng cho đến nay, các nước nghèo không đặt lại vấn đề AD về nguyên tắc mà chỉ đòi hỏi sửa đổi, củng cố các điều khoản để tránh các lạm dụng và yêu cầu lập một chế độ đặc biệt để nâng đỡ họ. Nói cách khác, họ không phủ nhận sự cần thiết của khung pháp lý về AD mà phê phán cách áp dụng thực tiễn trong các đạo luật và chính sách quốc gia. Và bị chỉ trích nặng nề nhất là bộ luật và chính sách AD của Mỹ.
Chính sách AD của Mỹ trong các tranh cãi nội bộ và đa phương
Như đã nói ở trên, cho đến những năm gần đây, Mỹ là “vô địch” trong việc dùng các biện pháp AD . Cho đến 30.6.1999, chẳng hạn, trên số 1121 biện pháp đang hiện hành lúc đó được thông báo lên Ủy ban AD của WTO, 300 biện pháp là của Mỹ, tức là hơn một phần tư tổng số. Chính sách AD của Mỹ bị nhiều nước phản đối là điều dễ hiểu nhưng chính trong nội bộ nước Mỹ, đấy cũng là một đề tài tranh cãi gay gắt. Sự bất đồng này có nhiều lý do kinh tế, chính trị, lịch sử và cả tâm lý xã hội.
Trong lịch sử nước Mỹ, các vấn đề thương mại đóng vai trò then chốt hơn rất nhiều so với các nước châu Âu. Cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ bắt nguồn từ một tranh chấp thương mại với mẫu quốc là nước Anh. Chiến tranh ly khai (American Civil War) giữa thế kỷ XIX cũng xoay quanh sự đối lập giữa các bang miền Bắc muốn có chính sách bảo hộ cho các ngành kỹ nghệ đang phôi thai của họ và các bang miền Nam e ngại chính sách đó ảnh hưởng lên các xuất khẩu của họ. Lịch sử của Mỹ từ đó cho tới nay là sự luân phiên giữa hai khuynh hướng ấy, lúc thì ngả theo chủ nghĩa cách ly (isolationism), lúc thì chủ trương tham gia vào chính trường quốc tế (internationalism) thắng thế. Hoặc để dùng ngôn từ ngày nay, là sự giằng co giữa chủ trương bảo hộ – gắn liền với chủ nghĩa đơn phương-, và khuynh hướng quốc tế hay chủ nghĩa đa phương. Bộ máy AD có chức năng trấn an các thế lực bảo hộ, hướng nội (introverted) để khuynh hướng quốc tế, hướng ngoại có thể duy trì và đẩy mạnh sự tham gia của Mỹ vào các hệ thống đa phương.
Một mặt khác của vấn đề là cơ cấu chính trị của Mỹ: Quốc hội Mỹ, như đa số công chúng, thường có khuynh hướng bảo hộ, coi luật lệ Mỹ, và bộ máy AD nói riêng, như bất khả xâm phạm và chống đối lại mãnh liệt bất cứ gì, theo họ, xúc phạm đến chủ quyền của Mỹ. Các quyết định của WTO về sự bất hợp lệ của một đạo luật hay biện pháp của Mỹ, chẳng hạn. Trong khi đó, chính quyền, vì làm việc trực tiếp với thế giới bên ngoài, đương nhiên có cái nhìn mở rộng hơn. Rắc rối ở chỗ, như hiến pháp qui định, chính sách ngoại thương thuộc thẩm quyền của Quốc hội trong khi việc thực thi chính sách và thương thuyết với các nước khác là nhiệm vụ của chính quyền. Do đó chính phủ, cụ thể là Tổng thống và Đại diện của Mỹ cho các vấn đề ngoại thương (US Trade Representative – USTR), phải vừa trấn an các nước khác là Mỹ vẫn tôn trọng các bổn phận đa phương, vừa trấn an các nhà lập pháp trong nước, bản thân họ cũng chịu áp lực mạnh mẽ của các lobbies, là quyền tự chủ quốc gia của Mỹ vẫn không bị sứt mẻ. Cho nên khi các nghị sĩ Mỹ càng lớn tiếng chửi rủa và đe doạ trừng phạt, tẩy chay hàng Pháp vì Pháp ngoan cố không chịu ủng hộ cuộc chiến tranh Iraq, thì ông USTR, Robert Zoellick, lại càng phải vui vẻ, hoà nhã với đồng nghiệp Pascal Lamy, cùng nhau tuyên bố là không thể để chính trị ảnh hưởng đến thương mại. Tay này đấm thì tay kia phải xoa!
Vai trò và sức mạnh của các lobbies ai cũng biết, và đấy là một trong những đặc tính lớn của Mỹ. Ở đâu thì các đại diện dân cũng phải chiếu cố đến các quyền lợi của thành phần bầu cho mình, ít khi nào dám đi ngược lại ý trời. Nhưng ở Mỹ, điều này rất cụ thể. Các kết quả bỏ phiếu cho các dự luật hay quyết định trong Quốc hội được công bố và các lobbies thường xuyên cho đăng một loại “hit parade” xếp hạng những nghị sĩ nào đã bỏ phiếu thuận lợi và bất lợi cho họ ra sao. Cách vạch mặt chỉ tên này như một thanh gươm treo lơ lửng, rất hiệu nghiệm vì có những dân biểu cứ hai năm lại phải ra trước cử tri, áp lực do đó hầu như liên tục và càng mạnh khi gần đến mùa bầu cử.
Sự tranh cãi về các biện pháp AD gay gắt vì ở đây quyền lợi của lobby này lại đối chọi với quyền lợi của lobby kia. Ngành này ủng hộ thì ngành kia phản đối. Đánh thuế AD vào sắt thép của Nhật, của Nga thì các nhà sản xuất thép như US Steel, Bethlehem Steel, thích lắm vì loại được địch thủ, tha hồ tăng giá. Nhưng các kỹ nghệ tiêu thụ thép, như các công ty xe hơi, thì kêu trời vì phải mua đắt hơn. Mâu thuẫn giữa giới sản xuất và giới tiêu thụ nội địa xảy ra với tất cả loại hàng, từ cái tầm thường như thịt bò hay tỏi đến những sản phẩm hiện đại như các bộ nhớ và mạch bán dẫn cho máy tính. Và nếu Mỹ hầu như lúc nào cũng đang tranh chấp với các bạn hàng vể sắt thép, thì vì kỹ nghệ này là lobby hung hăng và khai thác bộ máy AD triệt để nhất: trên 239 pháp lệnh AD ban hành năm 2001 ở Mỹ, 100 cái là để bảo vệ họ. Và từ 1995 đến nay, tổng cộng có tới 14 vụ kiện trước WTO về các biện pháp của Mỹ nhằm bảo vệ sắt thép. Một tuần sau biến cố 11.9.2001, các công ty sắt thép tuyên bố là họ đóng vai trò chiến lược trong an ninh quốc gia vì phục vụ súng ống cho quân đội, do đó phải được đặc biệt bảo vệ và chiếu cố!
Nói rộng hơn, vấn đề AD còn là mối bất hoà giữa các ngành chỉ nhắm thị trường nội địa và các ngành sống về xuất khẩu, các công ty đa quốc gia hoạt động trên địa bàn thế giới và muốn chính quyền Mỹ nhượng bộ về vấn đề AD trong các thương thuyết đa phương để giành cho họ những quyền lợi to tát khác. Đối với họ, chính sách AD làm họ thiệt thòi nhiều hơn là có ích.
Cuối cùng một điểm tâm lý phổ biến trong xã hội Mỹ cũng có vai trò ở đây. Thị trường Mỹ đủ to lớn và đa dạng để đa số công chúng cảm thấy không cần biết đến thế giới bên ngoài. Bảo vệ các quyền lợi cục bộ là điều dĩ nhiên, thị trường thế giới là cái gì xa vời và thứ yếu. Suy nghĩ vị kỷ America first cũng có trong kinh tế như trong mọi lĩnh vực khác. Mặt khác, tiềm tàng trong suy nghĩ của nhiều người là Mỹ làm ăn giỏi hơn bất cứ ai khác. America is best ! Công ty Mỹ hiệu quả nhất, hàng Mỹ tốt nhất, người Mỹ “ngon” nhất, nên ai qua mặt được Mỹ chỉ có thể là vì gian dối, qua một mánh lới xấu xa nào đó. Việc một nước có thể bán món hàng rẻ hơn vì lương nhân công thấp hơn hay có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn, đối với họ là điều không tưởng. Khái niệm lợi thế tương đối (comparative advantage) họ không cần biết đến. Nhận xét này không phải từ một ông Tây, ông Ta nào ghét Mỹ mà là của Joseph Stiglitz, cựu viên chức cao cấp Ngân hàng thế giới và người được giải Nobel kinh tế năm 2001!
Thái độ tự tôn ấy dĩ nhiên là các nước khác không thể chia xẻ được. Mỹ dùng đến AD nhiều thì cũng gặp phải sự kháng cự mạnh. Mỹ là nước bị kiện nhiều nhất về AD trước GATT/WTO, với 16 vụ trên 41 vụ kiện AD ở WTO cho tới nay. Gần đây và quan trọng nhất là vụ kiện về Đạo luật bù trừ các biện pháp tài trợ và bán phá giá tiếp diễn (Continued Dumping and Subsidy Offset Act of 2000), gọi tắt là CDSOA hoặc Byrd Amendment vì xuất phát từ một dự luật của Thượng nghị sĩ Robert Byrd. Ngày 28.10.2000, Tổng thống Clinton ký sắc lệnh ban hành luật này qua đó các số tiền thu được qua thuế AD sẽ được chia lại cho các công ty Mỹ thắng kiện. Vì mức thuế AD có thể lên tới 400% nên có thể là một nguồn lợi đáng kể, ngay cả cho một anh sản xuất một mặt hàng khiêm tốn như nến: công ty Candle-lite, tại Cincinnati, nhờ thắng kiện một công ty TQ, đã được chia 15,6 triệu đô-la tiền thuế AD thu trong năm 2002 và dự kiến sẽ còn nhận thêm 39 triệu đô-la trong năm nay. Món lộc béo bở này khiến một số công ty chế tạo nến khác cũng nhảy vào, đòi được hưởng một phần của số tiền 65 triệu đô la thuế sẽ thu năm nay. Trong năm 2002, Hải quan Mỹ đã chia lại cho khoảng 1 200 công ty tổng cộng 329 triệu đô la thu vào qua thuế AD.
Các bạn hàng của Mỹ làm sao chịu được. Ngay trước khi Luật CDSOA ban hành, họ đã phản đối kịch liệt và nêu lên những điểm sau đây: điều này vi phạm luật WTO vì ưu đãi các công ty nội địa vừa được bảo hộ vừa được tài trợ trực tiếp. Vi phạm điều khoản cơ bản của WTO là đối xử bình đẳng giữa công ty nội địa và công ty một nước thành viên khác. Mặt khác, các công ty nội địa sẽ lại càng có lý do để khởi tố một cách vô tội vạ, với sự hùa theo, kích thích của các văn phòng luật sư vốn đã giỏi “đánh hơi” những vụ kiện béo bở cho họ. Thói “nước đục thả câu” (“ambulance chasing”) trong giới luật sư Mỹ sẽ trầm trọng hơn, góp phần làm căng thẳng hơn nữa các quan hệ giữa Mỹ vả các bạn hàng.
Chỉ hai tháng sau ngày Luật CDSOA ban hành, 9 thành viên WTO trong đó có Nhật, Hàn Quốc và Liên Hiệp châu Âu, đã yêu cầu Mỹ hội ý để giải quyết tranh chấp. Tháng 5.2001 đến lượt Canada và Mexico yêu cầu hội ý. Đến tháng 8.2001 thì cả 11 thành viên này đã đệ đơn lên WTO yêu cầu lập nhóm hội thẩm để xem xét vấn để. Đây là vụ kiện trước WTO với nhiều nguyên đơn nhất cho tới lúc ấy, lại vừa phức tạp về pháp lý, vừa gai góc vể chính trị, nên cả năm sau, tháng 9.2002, nhóm hội thẩm mới trình được bản báo cáo dài gần 400 trang, kết luận là Mỹ vi phạm luật WTO và phải sửa sai. Mỹ kháng cáo lên Cơ quan thượng thẩm cũng vẫn thua nên bắt buộc sẽ phải bãi bỏ luật CDSOA.
Phản ứng của Quốc hội Mỹ thật đốp chát. Thượng nghị sĩ Byrd và 67 nghị sĩ khác gửi thư đến Tổng thống Bush yêu cầu giữ nguyên Luật CDSOA, bất chấp quyết định của WTO. Ông Byrd thách Tổng thống Bush bãi bỏ luật và tuyên bố là WTO đã đi quá thẩm quyền của mình, xúc phạm đến chủ quyền pháp lý của Mỹ.
Chính vì để Quốc hội và dư luận trong nước nói chung yên tâm là các bộ phận giải quyết tranh chấp của WTO sẽ không dám “qua mặt” nhà nước Mỹ, nên trong vòng thương thảo Uruguay, các nhà thương thuyết Mỹ đã đòi cho được một điều khoản qui định là các nhóm hội thẩm sẽ không đảo ngược các kết luận của cơ quan hữu trách quốc gia nếu họ công nhận là các cơ quan này đã xem xét vấn đề một cách khách quan và đúng đắn . Điều 17.6 này của Hiệp ước AD thường được gọi là điều khoản về tiêu chuẩn cho việc xem xét (standard of review) hay về sự tôn trọng các quyết định của cơ quan quốc gia (deference provision). Đây là điều khoản đặc biệt chỉ áp dụng cho các vụ tranh chấp về AD, cho thấy tầm quan trọng và khía cạnh tâm lý đặc biệt của vấn đề AD đối với Mỹ.
Tuy thế, trong quá trình giải quyết các tranh chấp AD giữa Mỹ và các nước khác cho tới nay, WTO hay qui phần lỗi về phía Mỹ và cũng không nhất thiết áp dụng Điều 17.6 trong tinh thần mà Mỹ mong muốn. Một lý do chính là vì các nhóm hội thẩm cũng như Cơ quan thượng thẩm đều phân tích vấn đề trong quan điểm cơ bản của GATT/WTO là lấy sự tự do thương mại làm nền tảng, cho nên cái gì giới hạn lại sự tự do ấy như các biện pháp AD đều khó bào chữa.
Vấn đề AD ngày càng là nguyên nhân của các đụng chạm về quyền lợi cũng như tư duy giữa các nước, rất gay gắt trong vòng Uruguay, đã làm thất bại Hội nghị Seattle, làm căng thẳng Hội nghị Doha và tiếp tục là một trong những trở ngại lớn phải vượt qua ở Hội nghị Cancun tháng 9 năm nay. Các qui định về AD cũng phát triển qua các vòng thương thảo, ngày càng rõ ràng và được bổ sung, một phần lớn dựa theo kinh nghiệm rút ra từ các tranh cãi và cách giải quyết tranh chấp liên quan đến nhiều mặt của bộ luật và chính sách AD của Mỹ.
Bộ luật AD của Mỹ trong câu chữ và cách áp dụng
Mỹ không phải là nước đầu tiên có luật AD. Đạo luật đầu tiên về vấn đề này được ban hành tại Canada năm 1904. Thành ngữ phổ biến thời ấy thật ra không phải là bán phá giá mà là “dùng giá để chiếm đoạt” (predatory pricing), một khái niệm hơi khác vì có nghĩa là một công ty ngoại quốc bán rẻ mạt, thậm chí bù lỗ, hầu sau này chiếm hết thị trường. Dần dà thành ngữ “bán phá giá” thay thế “dùng giá để chiếm đoạt” với lý do đơn giản là dễ gán ghép cho nhiều “bị cáo” hơn vì không cần phải chứng minh là hành động của họ che dấu cả một chiến lược thao túng thị trường.
Sau Canada, những đạo luật tương đương được ban hành ở Tân Tây Lan năm 1905, Úc năm 1906 rồi Mỹ năm 1916. Các nước châu Âu cũng lần lượt theo chân trong thập niên 1920.
Luật AD đầu tiên của Mỹ nằm trong hai điều khoản 800-801 của Luật thuế (Revenue Act of 1916), và ghi rõ trong định nghĩa bán phá giá một điều kiện: “nếu là trong mưu đồ huỷ diệt hay gây tổn hại cho một ngành sản xuất của Mỹ hay để ngăn chặn sự ra đời của ngành sản xuất ấy”. Vì “mưu đồ” này rất khó chứng minh nên câu này biến mất khỏi Đạo luật Antidumping ban hành năm 1921. Bộ máy pháp lý về AD của Mỹ như thế là cả một tổng hợp nhiều văn kiện gồm Đạo Luật 1916, Đạo luật 1921 – được thay thế bởi Chương VII của Luật thuế quan (Title VII of the Tariff Act 1930 – 19 U.S.C.§§ 1673-1677n)-, điều lệ của Bộ thương mại (DOC’s Regulations – 19 C.F.R. § 351), và nhiều điều lệ sửa đổi và bổ sung, trong đó gần đây và quan trọng nhất là Đạo luật CDSOA.
Như đã nói ở trên, các nguyên tắc cơ bản của bộ luật AD của Mỹ không khác các qui tắc của WTO, vấn đề là ở cách vận hành của bộ luật qua các điều lệ thi hành, và cách các cơ quan hữu trách áp dụng những điều lệ ấy. Tức là chính sách AD của Mỹ trong thực tế. Trong các vụ tranh chấp trước WTO, các nhóm hội thẩm (panels) phải xem xét là điều lệ liên can có hợp lệ hay không cả trong câu chữ, tức là tự bản thân (on its face and as such), lẫn trong cách áp dụng (as applied). Trong nhiều trường hợp, nhóm hội thẩm quyết định là đạo luật liên can, tự bản thân, phù hợp với luật WTO, nhưng cách áp dụng thì lại trái luật của WTO, do đó họ không yêu cầu nước bị kiện phải sửa đổi luật nhưng vẫn yêu cầu các cơ quan hữu trách phải sửa đổi hay rút lại biện pháp cụ thể của mình. Và như thế là đủ để bên nguyên coi như thắng kiện.
Cách vận hành của luật và hệ thống AD tại Mỹ
Mỗi vụ kiện AD diễn ra với sự tham dự của 3 bên: các công ty nội địa đệ đơn, là nguyên đơn, các công ty ngoại quốc bị kiện, là bị đơn, và chính quyền nước nhập khẩu phải xét xử để đi đến quyết định có áp thuế AD hay không. Nếu vụ tranh chấp được đưa ra trước WTO thì vì WTO chỉ xét xử các vấn đề giữa hai quốc gia nên bên nguyên là chính quyền nước nhập khẩu, bên bị là chính quyền nước xuất khẩu, mỗi bên đại diện cho các công ty của mình, và nhóm hội thẩm của WTO đóng vai trò trọng tài. Nhưng dù là ở mức độ nội bộ một nước hay trước WTO, không phải bất cứ ai cũng có thể đệ đơn tố cáo một công ty ngoại quốc để khởi đầu thủ tục tố tụng. Điều 5.4 của Hiệp ước AD qui định là cơ quan hữu trách chỉ có thể mở thủ tục điều tra nếu đơn kiện là do ngành sản xuất nội địa đứng tên hay được đệ trình nhân danh họ. Để hội đuợc điều kiện này, đơn kiện phải được đưa ra dưới tên hay với sự ủng hộ của các công ty sản xuất ra ít nhất 25% tổng sản lượng mặt hàng tương đương trong nước. Do đó nhiệm vụ đầu tiên của cơ quan hữu trách là phải xác định tính đại diện của các công ty đệ đơn (petitioners’ standing determination).
Sau đó, phải xác định hai điều cơ bản là có dumping hay không và có sự tổn hại hay không. Tại Mỹ, hai nhiệm vụ này được giao cho hai cơ quan khác nhau: Bộ thương mại (Department of Commerce – DOC) xác định có dumping hay không và nếu có thì tới mức nào. Uỷ Ban hiệp thương quốc tế (International Trade Commission – ITC) xác định có hay không tổn hại hay nguy cơ tổn hại cho ngành sản xuất nội địa do hàng nhập bán phá giá gây ra. DOC và ITC phối hợp làm việc trong những thời hạn qui định, và cho biết kết luận trong những bản phán quyết sơ bộ và cuối cùng (preliminary and final determinations). Nếu DOC phán quyết là không có dumping, thủ tục đương nhiên chấm dứt. Nếu DOC phán quyết là có dumping, ITC sẽ xem xét vấn đề tổn hại. Nếu ITC cũng phán quyết là có tổn hại hay nguy cơ tổn hại, thì DOC sẽ ra một pháp lệnh AD (antidumping order) ấn định biên độ dumping áp dụng cho những công ty ngoại quốc tham gia vụ kiện, và một mức khác cho tất cả các công ty khác xuất khẩu cùng mặt hàng từ nước bị kiện nhưng không tham gia. Mức này không phải là mức thuế AD mà để tính số tiền mặt ký quỹ (cash deposit) công ty nhập khẩu Mỹ phải đóng cho Hải quan Mỹ để tiếp tục nhập món hàng, cho đến khi DOC ấn định mức thuế AD chính thức, thường là một năm sau khi pháp lệnh ban hành, và mỗi năm sau đó vào thời điểm ấy. Nếu thuế thấp hơn tiền ký quỹ, Hải quan sẽ trả lại số sai biệt cộng thêm lãi. Nếu thuế cao hơn, công ty nhập khẩu phải trả số sai biệt, cũng cộng thêm lãi. Do đó, có khi công ty nhập khẩu đóng ký quỹ trên cơ sở biên độ dumping là 5% chẳng hạn, để rồi bị đập thuế AD 100% một năm sau, sau khi DOC đã xem lại vấn đề. Tuỳ theo mặt hàng và số lượng nhập khẩu, số tiền sai biệt phải đóng, cộng thêm lãi, cũng đủ làm công ty điêu đứng.
Như Điều 11.3 của Hiệp ước AD qui định, các thuế AD phải chấm dứt trễ nhất là 5 năm sau khi ban hành, trừ phi cơ quan hữu trách, sau khi xem xét lại vấn đề, khẳng định rằng cần phải duy trì thuế để tránh việc bán phá giá tiếp tục hay tiếp diễn. Do đó luật AD của Mỹ cũng dự trù DOC phải xem xét lại các thuế AD 5 năm sau ngày ban hành, khi biện pháp tới lúc phải chấm dứt. Điều khoản và việc xem xét lại này do đó được gọi là “hoàng hôn” (sunset provision, sunset review).
Cho tới đây thì không có gì trái luật WTO cả, và chẳng có gì sai trái. Vậy thì các bạn hàng của Mỹ than phiền những nỗi gì ? Chính sách của Mỹ quá quắt ở chỗ nào? Cũng như trước khi đặt bút ký một hợp đồng, chúng ta nên đọc kỹ mấy hàng chữ nhỏ li ti ở cuối trang, cái “chết người” ở đây cũng nằm trong các chi tiết.
Những điểm chính gây tranh cãi trong cách áp dụng luật AD ở Mỹ
Chúng ta có thể theo tuần tự diễn tiến của một vụ kiện AD để nêu lên những điểm gây vấn đề.
Giai đoạn điều tra dẫn tới phán quyết là giai đoạn quan trọng nhất và cũng “hiểm nghèo” nhất đối với công ty bị tố cáo, tập trung đủ thứ trở ngại phải vượt qua.
* Bảng câu hỏi
Trước tiên, để phân xử cho công minh, DOC phải nghe lý lẽ của cả hai bên. Sau khi nhận được đơn của các công ty Mỹ, trong đó họ viện dẫn các lý do tố cáo, DOC gửi đến các công ty ngoại quốc bị kiện một hoặc nhiều bảng câu hỏi để cho họ cơ hội trả lời và tự bào chữa. Đây là thử thách đầu tiên và cũng là cái bẫy cho nhiều công ty, nhất là từ những nước nghèo, ít kinh nghiệm làm ăn với bên ngoài, thiếu người và thiếu của để đáp ứng các đòi hỏi của DOC. Những câu hỏi rất phức tạp, tràng giang đại hải, viết trong một thứ ngôn ngữ kỳ dị, đặt những vấn đề xa lạ đối với thế giới ngoài Mỹ (và chính ở Mỹ cũng ít người hiểu nổi!). Ngay cả khi nhân viên công ty ngoại quốc thông thạo tiếng Anh đi nữa, cũng có mấy người biết EP, CEP, POI, POR, CONNUM, FUPDOL, TOTPUDD, PCTMARG, DIFMER[2], v.v. là cái quái gì ! Không kể là phải trả lời trong thời hạn rất ngắn: thí dụ trong vụ kiện công ty điện tử Matsushita, DOC đòi hỏi họ phải dịch sang tiếng Anh 3 000 trang tài liệu về tài chính. Lệnh của DOC ban ra chiều thứ sáu và hạn nộp là sáng thứ hai tuần sau! Công ty Matsushita chịu thua và rút ngay mặt hàng của mình ra khỏi thị trường Mỹ.
* Thông tin tốt nhất có thể có
Cho nên, nếu vì không hiểu các câu hỏi hay vì coi nhẹ vấn đề, công ty nước ngoài không trả lời hay trả lời vớ vẩn, hay chỉ vấp phải một trong các “tội” như đưa các con số không thể kiểm tra được, trả lời chậm trễ, không đầy đủ, hay không đúng theo mẫu mã qui định, thì DOC sẽ coi là họ không hợp tác và quay sang các dữ kiện sẵn có (facts available) và thông tin tốt nhất có thể có (best information available). Các dữ kiện và thông tin này thường chỉ là những gì các công ty Mỹ viện dẫn trong đơn kiện, tức là những con số, dữ liệu hết sức bất lợi cho công ty nước ngoài. Tệ hơn nữa, DOC sẽ lấy lại nguyên si, không thắc mắc, biên độ dumping do các công ty Mỹ đề nghị. Và dĩ nhiên là biết trước như vậy, các công ty Mỹ đã tính mức cao nhất có thể tính được, “tốt nhất” đối với chính họ và xấu nhất cho công ty nước ngoài!
Chính vì có nhiều nước xuất khẩu than phiền điều trên mà Hiệp ước AD dành riêng một phụ đính về các thông tin tốt nhất có thể có, qui định rõ ràng hơn bổn phận của đôi bên, giới hạn lại quyền chuyên quyết của cơ quan hữu trách trong việc chấp nhận hay bác bỏ các thông tin của các công ty xuất khẩu đưa ra. Tuy thế đây vẫn là một điểm gây nhiều khó khăn cho các nước bị kiện AD ở Mỹ.
* Kiểm tra tại chỗ
Nếu công ty nước ngoài qua được cửa ải đầu, trả lời sao cho khéo, cho đúng tiêu chuẩn thì cũng chưa nên vội mừng, vì DOC sẽ gửi người tới tận nơi kiểm tra xem khai báo có thành thật, đầy đủ không, và so sánh với những gì công ty Mỹ nói. Lại là một dịp để bắt bẻ nhau, cãi lý cãi chầy, bới lông tìm vết, không kể là soi mói vào những chi tiết thầm kín nhất của công ty là điều chẳng có anh làm ăn nào thích. Và nếu công ty ngoại quốc không qua được khâu này thì DOC lại có thể dùng các “thông tin tốt nhất” do phía Mỹ đưa ra.
* Điều chỉnh giá cả (price adjustments)
DOC không bao giờ so sánh trực tiếp các giá thực tế mà dùng rất nhiều phép tính rắc rối, dựa trên đủ mọi yếu tố, để điều chỉnh các con số này rồi mới so sánh chúng với nhau. Mỗi yếu tố đều có thể làm sai lệch kết quả cuối cùng, tuỳ theo cách tính của DOC: các khoản chi tiêu cho tiếp thị, chi phí vận chuyển, chiết khấu (discounts), sự khác biệt giữa các món hàng, sự phân biệt đối xử giữa các khách hàng có và không có quan hệ hữu cơ với người bán (arm’s length test), v.v. DOC hay dùng yếu tố cuối cùng này để bóp méo các con số và đi đến kết luận là có dumping.
* Tính gộp thành số không (zeroing)
Đây là một trong những điểm tranh cãi gay gắt và dai dẳng nhất về đề tài AD tại WTO, đuợc coi là một trong những bất công lớn nhất. Thật ra không phải chỉ có Mỹ mới làm chuyện này, nhưng Mỹ là “chuyên gia” dùng cách này để tính được biên độ dumping cao nhất bất kể thực tế ra sao, thậm chí ngay cả khi không có dumping cũng biến thành có, cứ như trò ảo thuật. Vấn đề như sau: nếu sau khi cộng trừ nhân chia đủ thứ xong, kết quả là không những công ty ngoại quốc không bán phá giá mà còn bán ở Mỹ với giá cao hơn giá bán trong chính nước mình, thành thử biên độ là âm (negative margin), thì thay vì công nhận điều đó, DOC coi nó như là ngang với số không. Vì trong các tính toán để ra biên độ dumping cuối cùng, có rất nhiều biên độ khác nhau nên nếu không trừ đi các biên độ âm mà chỉ gộp thành số không thì con số cuối cùng, được coi như biên độ dumping chính thức, hoặc cao hơn thực tế hoặc là dương trong khi thật ra nó phải là âm. Từ đó có thể hiểu được tại sao tuyệt đại đa số các điều tra của DOC dẫn đến một phán quyết là có dumping (affirmative determination).
* Quy chế phi kinh tế thị trường
Đối với một số nước, vấn đề lại còn phức tạp hơn khi DOC quyết định là không thể so sánh trực tiếp các giá cả (và cách tính giá) tại các nước ấy và tại Mỹ vì họ không theo kinh tế thị trường (non-market economy – NME). DOC khẳng định giá ở Mỹ là giá thị trường còn giá trong các nước ấy là do nhà nước ấn định hay chi phối. Trong trường hợp ấy, DOC dùng các dữ liệu của một nước thay thế (surrogate country), được coi như tương đương với nước bị kiện về trình độ phát triển kinh tế, sức mạnh thương mại v.v. Tuy thế, sự so sánh qua trung gian một nước thứ ba này thường bất lợi cho bên bị kiện. Đầu tiên, việc DOC đặt ra vấn đề phi kinh tế thị trường đã là dấu hiệu không tốt lắm. Trong giai đoạn từ 1986 đến 1992, chẳng hạn, các nước NME chỉ chiếm 3% tổng số hàng hoá nhập vào Mỹ nhưng 20% số vụ kiện AD. Theo một bài phân tích, sự khác biệt ấy chứng tỏ DOC có chính sách nghi kỵ, phân biệt đối xử đối với các nước bị liệt vào thành phần này.
Sau đó việc chọn nước nào là nước thay thế dĩ nhiên cũng có thể tuỳ tiện, phản thực tế và thường là bất lợi cho nước bị kiện. Thí dụ, trong vụ kiện Trung Quốc về đường hoá học (saccharin), DOC chọn Ấn Độ là nước thay thế và dựa vào giá a-xít clo-hi-đrích của Ấn Độ là 2,80 USD một ký, trong khi giá ở Mỹ chỉ 3 cents một ký. Trong vụ kiện TQ về tôm hùm, DOC coi giá nhập của tôm hùm Portugal vào Tây Ban Nha là tương đương với giá tôm hùm bán tại TQ, bất kể sự khác biệt hiển nhiên giữa TQ và 2 nước này, rồi tính các biên độ dumping cho TQ là từ 90 đến 201%.
Phương pháp áp dụng đối với các NME do đó có nhiều khả năng làm sai lệch kết quả cuối cùng và thiệt thòi cho nước bị kiện. Điều đáng để ý là chính một cựu quan chức cao cấp của Mỹ, bà Charlene Barshefsky, nguyên USTR trong chính quyền Clinton, trước khi nhậm chức này, đã có lần chỉ trích phương pháp này trong một bài phân tích!
* Điều khoản hoàng hôn
Cuối cùng, sau khi đã thua kiện, nếu còn may là thuế AD không cao quá, không làm cho các bạn hàng là các công ty nhập khẩu Mỹ bỏ chạy cả, thì các công ty mang tội bán phá giá cũng chưa hết mệt. Không phải cứ cắn răng chịu thuế hết 5 năm là thoát nợ, vì việc xem xét lại vấn đề cũng rất gay go. Hoàng hôn này lắm khi chẳng bao giờ chịu tắt! Có những thuế AD dây dưa cả mấy chục năm vì cứ mỗi lần xét lại, các công ty Mỹ lại lên tiếng phản đối và DOC lại phán quyết là nguy cơ bán phá giá vẫn còn đấy. Thí dụ, năm 1983 DOC ra pháp lệnh AD về ba-ri clo-rua (baryum chloride) nhập từ Trung Quốc, và từ đó chỉ còn rất ít số lượng hàng nhập này từ Trung Quốc vào Mỹ . Tuy thế, năm 1999, Ủy Ban ITC quyết định giữ pháp lệnh này thêm 5 năm kể từ năm 2000, tức là cho đến 2005, hơn 20 năm sau ngày ban hành. Nói cách khác, trong nhiều trường hợp, DOC và ITC sẽ duy trì các pháp lệnh và thuế AD bao lâu mà các công ty Mỹ còn muốn chặn món hàng nhập ấy.
Nói tóm lại, vì mục đích các bộ luật AD trong các nước nhằm bảo vệ các nhà sản xuất nội địa nên không ngạc nhiên nếu, khi áp dụng chúng, các cơ quan hũu trách khai thác triệt để các yếu tố bất lợi cho các công ty nước ngoài. Và Mỹ là nước làm chuyện này một cách hiệu quả nhất. Câu hỏi đặt ra là nếu muốn và phải tiếp tục buôn bán với Mỹ, vì không thể đứng ngoài cái thị trường vừa khổng lồ vừa giàu có này, thì có cách nào đối phó để có thể sống chung với bộ máy AD này?
Vài “bí quyết” để sống còn với bộ máy AD
Bộ máy AD của Mỹ lợi hại nhưng không phải là không có cách thắng được nó, nếu không thì còn ai dám làm ăn với Mỹ. Đã có nhiều trường hợp công ty nước ngoài thắng kiện và hay ít ra giảm được tối đa các hậu quả khi thua. Để khai thác tất cả các yếu tố có lợi cho mình, công ty nước ngoài thường phải nhờ đến những chuyên gia nắm rõ luật Mỹ. Những vụ kiện AD cũng là cả một “kỹ nghệ” làm giàu cho các văn phòng luật sư ở Mỹ. Ông William Perry, một cựu nhân viên của ITC và DOC chuyển sang làm tư vấn và chuyên biện hộ cho các công ty bị kiện AD, đã có các lời khuyên như sau, dựa vào kinh nghiệm của Trung Quốc:
1. Phải tham gia
Theo ông Perry, văn phòng của ông đã bênh vực thành công các công ty xuất khẩu TQ trong tất cả 12 vụ kiện AD họ được giao phó. Trường hợp duy nhất họ thua là vụ kiện về tỏi. Tuy các công ty nhập khẩu Mỹ tham gia vụ kiện với tư cách bị đơn và yêu cầu các nhà sản xuất TQ cùng tham gia nhưng các công ty TQ từ chối với lý do: “Thị trường Mỹ không quan trọng đối với chúng tôi”. Vì phía TQ không có mặt, DOC bắt buộc phải dùng các con số của các nguyên đơn Mỹ và quyết định áp dụng cho tất cả các công ty TQ biên độ dumping 376% viện dẫn trong đơn kiện. Và vì TQ không tham gia nên ITC cũng phán quyết theo là có sự tổn hại cho ngành sản xuất tỏi ở Mỹ. Kết quả là với một biên độ như thế, không còn ai nhập tỏi TQ vào Mỹ từ năm 1994 đến nay.
Chưa hết, văn phòng luật sư Mỹ thắng kiện trong vụ tỏi cũng “phát huy thành quả” ấy để khởi tố một số mặt hàng khác nhập từ TQ như mật ong, xe đạp, nấm và cây chàm. Giá trị các mặt hàng nhập này là 300 triệu đô la. Từ củ tỏi khiêm tốn, chỉ một văn phòng luật sư thôi đã có thể ảnh hưởng lên mấy trăm triệu xuất khẩu của TQ.
Ngay cả trong nội bộ bên bị, cũng có sự khác biệt giữa các công ty tham gia thủ tục và các công ty đồng hương nhưng đứng ngoài vụ kiện. Vì thuế AD áp dụng cho cả nước xuất khẩu (country-specific), nên mọi công ty của nước ấy đều bị liên can. Do đó công ty nào không tham gia thủ tục là mất cơ hội đưa ra các chứng từ, dữ liệu thuận lợi cho mình, và sẽ phải chịu biên độ dumping và mức thuế do DOC ấn định theo các con số và đề nghị của nguyên đơn, tức là cao nhất, áp dụng chung cho một danh sách “hổ lốn” gọi là “all others“.
2. Cố gắng để cuộc điều tra sơ khởi dẫn đến kết luận tốt nhất
Để DOC quyết định áp thuế AD, các công ty nguyên đơn phải chứng minh hai điều: thuyết phục DOC là có biên độ dumping và thuyết phục ITC là có sự tổn hại hay nguy cơ tổn hại. Nếu họ đạt được hai kết quả này thì công ty ngoại quốc chỉ còn có thể cứu vãn tình thế bằng tranh thủ DOC giảm tối đa biên độ dumping khi xét lại vấn đề trong những năm sau. Do đó phải làm sao để cuộc điều tra sơ khởi dẫn đến kết luận tốt nhất. Có 3 cách: 1. Thuyết phục ITC là không có tổn hại (và thoát không bị thuế gì cả). 2. Thuyết phục DOC là biên độ dumping không đáng kể. 3. Thương lượng với chính quyền Mỹ một thoả thuận đình chỉ (suspension agreement) qua đó DOC ngưng thủ tục AD, không áp thuế, với điều kiện công ty tuân thủ một hạn ngạch (quota) và một mức giá tối thiểu do DOC ấn định. Tuy rằng cũng không dễ mà có được thoả thuận này. Trong hơn 80 vụ kiện liên quan đến TQ, chính phủ Mỹ chỉ đồng ý thỏa thuận đình chỉ trong hai vụ là mật ong và tôn thép các-bon. Trong vụ mật ong, lý do là các công ty Mỹ nhập và phân phối mật ong đã làm áp lực mạnh với DOC để khỏi mất nguồn nhập khẩu từ TQ và viện dẫn lý do bảo vệ công ăn việc làm cho lao động. Điểm này dẫn chúng ta đến yếu tố sau, là “con bài” mạnh nhất của các công ty nước ngoài.
3. Liên kết với các công ty nhập khẩu của Mỹ
Các công ty nhập khẩu ở Mỹ là đồng minh tất yếu của các công ty xuất khẩu ngoại quốc vì cùng chung một quyền lợi: người này muốn bán thì người kia cũng muốn mua. Do đó liên kết với nhau để thoát khỏi thuế dumping là đương nhiên. Trong hai vụ kiện về tôm hùm và nấm, các công ty TQ thua đậm vì đơn phương độc mã ra trận. Ngược lại, trong các vụ đường hoá học, carbue silicium, thuốc nhuộm gốc lưu huỳnh, những thuyết trình của các công ty nhập khẩu đã thuyết phục ITC quyết định là không có tổn hại. Các công ty nhập saccharin còn nói rõ là nếu họ không nhập từ TQ được vì bị thuế AD thì sẽ quay sang nhập đường của Hàn Quốc, còn rẻ hơn nữa! ITC bèn phán quyết là không có tổn hại khi thấy biện pháp AD sẽ không nâng đỡ nhà sản xuất Mỹ nào mà chỉ có lợi cho Hàn quốc.
Mặt khác, các công ty nhập khẩu cũng có thể tranh thủ sự ủng hộ của các công ty tiêu thụ (end users), như trong vụ các-bua silicon: sự tham gia của công ty General Motors, hãng chế tạo xe hơi lớn nhất nước Mỹ và khách hàng đáng kể của các-bua silicon TQ, là một trong những nguyên nhân chính khiến ITC quyết định là không có tổn hại.
4. Ứng xử với DOC
Một vấn đề không nhỏ là giữ được thái độ đúng đắn trong quan hệ với DOC. Công việc của các thanh tra của DOC là kiểm tra xem các trả lời của công ty có đúng không, tức là họ được trả lương để nghi ngờ và bắt lỗi. Tuy thế cũng không nên coi họ như địch thủ, và miễn là các điều sai không quan trọng lắm và công ty bị điều tra tỏ ra có thiện chí hợp tác, DOC cũng sẽ nhân nhượng. Ngược lại cũng không nên hồ hởi thân thiện quá. Trong vụ đường hoá học, vì một cô nhân viên TQ muốn thực tập tiếng Anh với các thanh tra của DOC nên nói nhiều thành sơ ý, vô tình tiết lộ nhiều điều bất lợi cho công ty, xém làm hỏng hết mọi sự!
Nói chung, các nguyên tắc sau đây cần phải để ý:
* Xuất hiện đúng nơi đúng lúc, biết phiên họp nào là quan trọng nhất thiết phải có mặt, như các buổi họp của ITC. Trong tất cả những vụ mà công ty bị kiện không đến dự các buổi họp, kết quả bao giờ cũng rất tệ.
* Hợp tác tích cực, trả lời tất cả các câu hỏi và cẩn thận tránh mọi hiểu lầm hay sơ ý bất lợi cho bản thân. Trong vụ kiện về cồn poly-vinyl (polyvinyl alcohol -PVA), công ty sản xuất sơ ý viết sai giá của a-xít a-xê-tích, là dung dịch chính, đưa ra con số cao hơn thực tế gấp 6 lần, khiến DOC ấn định biên độ dumping là 187 %. Sau khi phát hiện sai lầm, công ty xuất khẩu xin điều chỉnh lại và rốt cuộc kéo được biên độ xuống 0 % trong bản phán quyết cuối cùng.
* Đi tới cùng, không bỏ cuộc mặc dầu diễn tiến có vẻ bất lợi. Trong vụ đường hoá học, tuy là DOC ấn định biên độ dumping là 145% trong bản phán quyết cuối cùng, nhưng các công ty xuất khẩu TQ kiên trì đeo đuổi thủ tục trước ITC để rồi đạt được thắng lợi hoàn toàn vì ITC phán quyết là không có tổn hại.
Nói tóm lại, bộ máy AD của Mỹ cũng vẫn để cho các công ty ngoại quốc vài khả năng thắng kiện, hay ít ra cứu vãn được phần nào tình thế. Tham gia vào thủ tục thì còn có cơ may thành công, chứ không tham gia là cầm chắc cái thất bại.
Catfish và Việt Nam
Nhìn người lại nghĩ đến ta, những kinh nghiệm của TQ ở trên may ra có thể giúp Việt Nam vượt qua sự đụng độ đầu tiên với bộ máy AD của Mỹ chăng. Qua diễn tiến của vấn đề cho tới nay, có thể tìm thấy nhiều điểm đã nêu trên trong vụ kiện VN về cá da trơn, còn gọi là cá nheo (catfish).
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá da trơn sang Mỹ năm 1996, và đến năm 2001 thì số lượng cá da trơn VN vào Mỹ đã lên đến hơn 9 triệu ký lô. Tuy thế con số này vẫn chỉ bằng 1,7% tổng số loại cá này tiêu thụ tại Mỹ. Một tỷ lệ khiêm tốn nhưng cũng đủ để ngành sản xuất nội địa tại Mỹ thấy chướng tai gai mắt. Phát súng đầu tiên được bắn ra cuối tháng 12.2001, khi các thượng nghị sĩ Trent Lott và John Breaux, đáp ứng chiến dịch lobby của Hiệp hội các chủ trại cá da trơn Mỹ (Catfish Farmers of America – CFA), yêu cầu Quốc hội Mỹ thông qua một dự luật khẳng định là tên gọi catfish chỉ dành cho loại cá Ictalurus punctatus mà thôi. Cá da trơn VN thuộc vào loại Pangasius. Từ đó, để tiếp tục được xuất khẩu sang Mỹ, loại cá này phải mang tên là basa, hay cá tra. Song song với việc ép đổi tên này, các nhà sản xuất Mỹ cũng tung ra tin là cá VN nuôi trong điều kiện rất thiếu vệ sinh. Một phái đoàn của Bộ Nông nghiệp Mỹ đến tận đồng bằng sông Cửu Long để điều tra và phủ nhận nguồn tin này. Số lượng cá từ VN sang Mỹ, dưới tên basa, vẫn tiếp tục tăng.
Ngày 28.6.2002, CFA và một số các công ty chế biến cá da trơn tại Mỹ đệ đơn lên DOC yêu cầu mở điều tra AD về một số mặt hàng phi-lê cá đông lạnh từ VN, với lý do là các mặt hàng này, vì được nhập vào Mỹ dưới giá hợp lý, là mối đe doạ cho ngành sản xuất nội địa Mỹ và qua sự cạnh tranh bất chính này đã chiếm 20% thị trường của Mỹ, một thị trường trị giá 590 triệu đô la. Ngày 18.7, DOC khởi đầu thủ tục điều tra và tiến hành các giai đoạn công bố, tập hợp ý kiến các bên. Bên nguyên là CFA và bên bị là các nhà sản xuất và chế biến VN được đại diện bởi Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam – VASEP). Ngày 8.11, DOC thông báo quyết định coi VN là nước phi kinh tế thị trường (NME) , sau khi đã nghiên cứu các nhận xét và ý kiến tranh luận của đôi bên. Bên nguyên đề nghị áp dụng quy chế NME cho VN. Ngược lại, ngoài VASEP, chính phủ VN, Phòng thương mại Mỹ tại VN, và một số công ty Mỹ hoạt động tại VN như Cargill, Unilever, CitiGroup, New York Life International, ủng hộ việc công nhận VN là kinh tế thị trường.
Để quyết định áp dụng quy chế kinh tế thị trường hay phi kinh tế thị trường cho một nước, DOC xem xét các yếu tố sau đây:
- khả năng chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang các ngoại tệ,
- mức độ tự do ấn định lương bổng qua thoả thuận giữa lao động và chủ nhân,
- mức độ cho phép đầu tư và hoạt động của liên doanh nước ngoài,
- mức độ kỉểm soát hay sở hữu của chính quyền đối với các phương tiện sản xuất,
- mức độ kiểm soát của chính quyền đối với việc phân bố các tài nguyên và các quyết định về giá cả và sản xuất của xí nghiệp
- những yếu tố khác được cơ quan thẩm quyền xem là thích hợp.
DOC đi đến kết luận là tuy VN đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong một số cải cách kinh tế và để mở cửa thị trường ra bên ngoài, nhưng vẫn chưa tiến hành công việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Các chức năng thị trường vẫn chưa đủ mạnh để thay thế chính quyền trong sự vận hành của nền kinh tế, chưa đủ để DOC sử dụng các giá cả và chi phí tại VN trong việc phân tích bán phá giá.
Sau khi phản đối quyết định bất thuận lợi này, tháng 12.2002, VASEP chính thức đề nghị DOC dùng Bangladesh là nước thứ ba để tính các chi phí sản xuất. Trong 5 nước DOC đưa ra để VN chọn – Bangladesh, Ấn Độ, Guinea, Kenya và Pakistan -, Bangladesh được chọn vì gần với VN nhất về một số điểm: mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người (380 USD/người), cùng nằm ở châu thổ các giòng sông lớn thuận tiện cho việc nuôi cá ngọt, có loại cá rất giống cá basa.
Ngày 27.1.2003, DOC đưa ra phán quyết sơ bộ là các công ty VN bán phá giá cá tra tại Mỹ, và ấn định các biên độ dumping từ 37.94% đến 61,88 % cho các công ty này, tùy theo trọng lượng của mỗi công ty, và một mức chung 63,88% cho toàn VN. Ngay hôm sau, VASEP đã phản đối và nêu lên những sai sót hay điểm bất hợp lý trong phân tích của DOC. Nhờ vậy, tháng 3.2003, DOC đã quyết định sửa lại mức thuế AD sẽ áp dụng cho các công ty tham gia vụ kiện (thí dụ từ 61,88% xuống 31,45% cho Agifish, từ 53,96% xuống 38,09% cho Navisfishco) và giữ nguyên mức 63,88% cho các công ty không tham gia.
Sau đó DOC trực tiếp điều tra thực trạng nuôi trồng cá basa tại Việt Nam và đề nghị Việt Nam thảo luận về thỏa thuận đình chỉ vụ và thay bằng việc áp dụng hạn ngạch và giá đối với việc xuất khẩu mặt hàng này. Tuy thế tháng 5.2003 thì thỏa thuận về đình chỉ vụ kiện bị đổ vỡ và ngày 17.6, khi đại diện của VASEP có mặt tại phiên họp của ITC để điều trần thì DOC công bố quyết định mới, tăng trở lên lại, tuy là không nhiều lắm, các biên độ dumping cho hầu hết các công ty, tiếp tục duy trì tình trạng khẩn cấp đối với công ty Nam Việt và đưa thêm 5 công ty vào trường hợp này. Bước diễn tiến mới này rất bất lợi, và theo luật sư Lê Công Định, của văn phòng White & Case bào cãi cho VN, kết luận mới của DOC là một cú sốc đối với tất cả các thành viên trong đoàn Việt Nam tham dự phiên điều trần trước ITC và đặc biệt là các doanh nghiệp thủy sản đang làm ăn với Mỹ.
Sau phán quyết cuối cùng này của DOC, kết quả của vụ kiện chỉ còn tuỳ thuộc vào phán quyết của ITC về vấn đề tổn hại, dựa trên ý kiến của DOC và phần trình bày của hai bên (VASEP và CFA). Ngày 24.7.2003, ITC đưa ra phán quyết cuối cùng, khẳng định các doanh nghiệp VN đã bán với giá thấp hơn giá thành và gây tổn hại cho ngành sản xuất của Mỹ, và ấn định mức thuế suất bán phá giá từ 36,84 đến 63,88%.
Sự thất bại này tuy thế cũng có mặt tốt. Có thể nói là trong lần đụng độ đầu tiên này, VN đã tiếp cận vấn đề một cách tích cực và cố gắng giới hạn được phần nào sự tổn thất, dẫu chưa khai thác được đúng mức các yếu tố thuận lợi và còn non kém trong phong cách lý luận khi ra điều trần trước DOC và ITC. Nhưng đây cũng là cái giá của kinh nghiệm, như theo lời phát biểu của chủ tịch VASEP, bà Nguyễn thị Hồng Minh, tháng 2.2003: “Việt Nam thu được nhiều bài học quý từ vụ kiện cá basa”. Các công ty xuất khẩu Việt Nam đã phải trả 469 đô la một giờ cho một văn phòng luật sư tại Washington để cãi cho mình trong vụ kiện, trong khi thu nhập của một người nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long chưa tới 35 đô la một tháng. Kinh phí chi cho vụ kiện tổng cộng là nửa triệu đô-la. Bài học quý thật, và không thể tránh, nhưng cũng rất đắt. Và thực tế đã nhanh chóng tạo cơ hội để thử thách sự nhạy bén và khả năng áp dụng kinh nghiệm của VN.
Ngay sau khi ITC công bố phán quyết cuối cùng, VASEP đã dự trù là sau cá basa, sẽ đến lượt tôm có thể bị kiện. Cùng với một số nước có thể bị liên can, như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ và Trung Quốc, ngành tôm VN đã đề ra chương trình hợp tác với các nhà nhập khẩu và phân phối Mỹ để phản biện các lập luận bán phá giá và tiến hành các cuộc vận động hành lang nhằm tránh vụ kiện. Ngày 29.12.2003, một nhóm đại diện cho các nhà sản xuất tôm trong 8 tiểu bang Mỹ đệ đơn lên DOC vả ITC để kiện 6 nước Trung Quốc, Brazil, Ecuador, Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam. Đối với VN, vụ kiện mới khởi xướng này có tầm quan trọng đặc biệt vì tôm là mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu lớn nhất của VN vào thị trường Mỹ, với 466 triệu đô-la năm 2002, tức 49% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của VN. Doanh số xuất khẩu tôm sang Mỹ gấp 10 lần so với cá basa. Do đó có thể đo lường được hậu quả của vụ kiện lên hàng trăm ngàn ngư dân VN.
Những vụ kiện bán phá giá cũng cho thấy thế yếu của VN khi còn đứng ngoài Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Không là thành viên của WTO thì không kiện được Mỹ trước Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, không nhờ được WTO xét xử và can thiệp để ép Mỹ phải rút lại các biện pháp áp thuế AD. Khả năng “kêu oan” trước WTO cho phép các nước thành viên nhỏ hạn chế tình trạng bị các nước lớn bắt nạt, và thương lượng được các giải pháp ổn thoả, thuận lợi hơn. Đối với VN, tham gia WTO còn cho phép tránh được một trong những điểm bất lợi chính là quy chế phi kinh tế thị trường.
Sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tất yếu cho sự phát triển của đất nước, là con đường nhiều chông gai. Một nước nghèo và nhỏ như Việt Nam hơn ai hết cần được bảo vệ bởi những cơ chế và luật lệ qui định sự đàng hoàng trong các quan hệ thương mại, một sân chơi bình đẳng ít ra là về nguyên tắc nếu chưa hoàn toàn có trong thực tế. Khung pháp lý của hệ thống thương mại đa phương, tuy còn nhiều khuyết điểm và vẫn thường xuyên được cải tổ, ngày càng đóng vai trò ấy.
Đỗ Tuyết Khanh
Tài liệu tham khảo
Jacques H.J. Bourgeois, WTO Dispute Settlement in the Field of Anti-Dumping Law, Journal of International Economic Law, Vol. 1, No.2, Oxford University Press, 1998
Richard O. Cunningham và Troy H. Cribb, Dispute Settlement through the Lens of “Free flow of Trade” – A review of WTO Dispute Settlement of US Anti-Dumping and Countervailing Duty Measures, Journal of International Economic Law, Vol. 6, No.1, Oxford University Press, 2003
James P. Durling, Deference, but only when due: The WTO Review of Anti-Dumping Measures, Journal of International Economic Law, Vol. 6, No.2, Oxford University Press, 2003
Brink Lindsay, The U.S. Antidumping Law – Rhetoric versus Reality, Trade Policy Analysis, Cato Institute, 16.8.1999
Brink Lindsay và Dan Ikenson, Antidumping 101 – The Devilish Details of “Unfair Trade” Law, Trade Policy Analysis, Cato Institute, 21.11.2002
William E. Perry, U.S. Antidumping cases against China – Lessons learned, Garvey Schubert Barer, 2003
William E. Perry, How Indonesian Companies can win a U.S. Antidumping case, Garvey Schubert Barer, 2003
L’unilatéralisme des Etats-Unis, Annuaire Français de Relations Internationales, AFRI, vol. I, 2000
USDOC, Antidumping Duty Investigation of Certain Frozen Fish Fillets from the Socialist Republic of Vietnam – Determination of Market Economy Status, đăng trên trang Web của US-Viet Nam Trade Council, http://www.usvtc.org/ .Và bản dịch tiếng Việt toàn văn đăng trên trang Web của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, http://usembassy.state.gov/posts/vn1/
WTO, The Legal Texts – The Results of the Uruguay Round of Multilateral Trade Negotiations
WTO, Committee on Anti-Dumping Practices, semi-annual reports
Và các bản tin trên vnexpress.net

[*] hiện là nhân viên một tổ chức quốc tế tại Genève (Thuỵ Sĩ)
[1] Phiên bản đầu tiên của bài này đã được đọc tại Hội Thảo Mùa Hè, Munich 24-26 tháng 7, 2003.
[2] EP = export price, CEP = constructed export price, POI = period of investigation, POR = period of review, CONNUM = control number, FUPDOL = foreign unit price in dollar, TOTPUDD = total potentially uncollected dumping duties, PCTMARG = percentage margin, DIFMER = difference-in-merchandise.