Thứ Ba, 25 tháng 1, 2011

11 cách giúp bạn thoát khỏi áp lực tâm lý

Cuối năm bận rộn, nhiều lúc căng thẳng làm bạn muốn phát điên. Hãy thư giãn để làm việc hiệu quả hơn!
 
1. Vận dụng ngôn từ và thỏa sức tưởng tượng

Thông qua trí tưởng tượng, rèn luyện tư duy liên tưởng như tưởng tượng đển khung cảnh bạn đang nằm trong bồn tắm, nghe nhạc không lời, thả lỏng cơ thể, hồi phục năng lượng, bạn sẽ cảm thấy tinh thần thư giãn, bình yên hơn.

 2. Giải pháp hỗ trợ.

Bạn hãy liệt kê ra những áp lực của cuộc sống, Một khi viết ra, bạn sẽ kinh ngạc phát hiện ra, nếu giải tỏa từng áp lực một, thì cái gọi là áp lực có thể dần biến mất trong bạn.

3. Hãy khóc khi muốn

Chuyên gian tâm lý học cho biết, khóc có thể giải tỏa áp lực tâm lý và làm giảm căng thẳng. Kết quả từ kiểm tra huyết áp ở người trưởng thành cho thấy, sau khi phân thành 2 nhóm huyết áp bình thường và huyết áp cao, 87% trong số người có huyết áp bình thường đã từng khóc, còn số người huyết áp cao cho biết chưa từng khóc qua. Vì vậy, tình cảm con người thể hiện ra bên ngoài sẽ có lợi hơn nhiều việc giữ trong lòng.

4. Đọc sách để giải tỏa buồn bực

Khi du lịch trong thế giới các cuốn sách, mọi buồn phiền lo lắng và đau khổ sẽ theo đó quên đi. Việc đọc sách giúp bạn cởi mởi hơn, quên đi căng thẳng áp lực.

5. Ôm cây

Trong một số công viên ở Úc, vào buổi sáng bạn sẽ nhìn thấy không ít người đứng ôm các thân cây to. Đây là phương pháp giúp họ giải tỏa bớt áp lực. Theo nghiên cứu, hành vi này giúp bạn giải tỏa  hormone hạnh phúc, khiến bạn có tinh thần thoải mái, nhiệt tình. Ngoài ra, sự tương ứng của adrenaline này giúp stress biến mất.

6. Tập thể dục

Ở Pháp, mới xuất hiện các trung tâm thể thao tiêu khí. Các hướng dẫn viên trong trung tâm sẽ dạy bạn cách la hét, xoắn khăn, đánh gối, đập ghế… những vận động làm tiêu hao lượng lớn khí huyết. Trong các trung tâm này, trên dưới trái phải được che kín bằng những tấm bọt biển giúp bạn thỏa sức vùng vẫy.

7. Xem phim kinh dị

Các chuyên gian của Anh kiến nghị, áp lực công việc bắt nguồn từ ý thức trách nhiệm. Lúc này, bạn cần sự khuyến khích, cổ vũ. Thay vì thông qua các biện pháp thư giãn để khắc phục căng thẳng, hãy khích lệ bản thân đối diện với căng thẳng đó như việc xem một bộ phim kinh dị!


8. Ngửi mùi hương

Ở Châu Âu và Nhật Bản, phổ biển một liệu pháp chữa trị mang tên hương liệu. Nữ giới rất ưa chuộng liệu pháp này bởi chúng được làm từ cỏ cây, hoa lá và tinh dầu của những thực vật có mùi hương quyến rũ. Mùi hương có thể thông qua thần kinh khứu giác, kích thích xích đạo của hệ thống tế bào thần kinh, rất hiệu quả trong việc giảm áp lực tâm lý.

9. Ăn vặt

Ăn vặt mục đích không phải là thỏa mãn nhu cầu đói trong dạ dày, mà có tác dụng loại bỏ xung đột trong tim và giảm thiểu căng thẳng.

10. Mặc quần áo cũ ưa thích

Mặc bộ quần áo cũ yêu thích và mặc thêm một chiếc áo rộng rãi, áp lực của bạn vô hình chung được giảm nhẹ. Bởi khi mặc quần áo cũ khiến ta có cảm giác thời gian được quay ngược, chìm đắm trong quá khứ, cảm xúc được phục hồi và tâm lý bạn cũng dần tốt lên.

11. Quan sát vật nuôi

Một bài kiểm tra tâm lý cho thấy, khi một người đang căng thẳng quan sát vật nuôi của mình như cá đang bơi lội trong bồn khiến họ vô ý bước vào thế giới của chúng và lãng quên tâm trạng bực bội của mình.

(Theo RL)

HOÀN CHỈNH CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ NHÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TRONG GIAI ĐOẠN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN

Giao dịch chứng khoán là một giai đoạn rất quan trọng trong quá trình đầu tư của nhà đầu tư (NĐT) chứng khoán. Chính hoạt động giao dịch chứng khoán là nơi cụ thể hóa các khoản lợi nhuận, các hành vi mua, bán chứng khoán của NĐT chứng khoán. Tuy nhiên, theo nguyên tắc trung gian trên thị trường chứng khoán (TTCK), những NĐT chứng khoán không thể trực tiếp gặp gỡ trao đổi thông tin và mua, bán chứng khoán trực tiếp từ những người có nhu cầu bán, mua chứng khoán khác. Các NĐT chỉ có thể thực hiện hoạt động mua, bán chứng khoán thông qua chủ thể trung gian, công ty chứng khoán (CTCK).
Do đó, để thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán, các NĐT chứng khoán phải có tài khoản mở tại một CTCK và tiến hành mọi hoạt động mua, bán, đầu tư chứng khoán thông qua tài khoản này tại các sàn giao dịch của CTCK. Với hình thức này, các NĐT đã không trực tiếp nắm giữ tiền hoặc chứng khoán của mình sở hữu mà tất cả đều ký thác vào tài khoản tại CTCK. Vì thế, về mặt nguyên tắc, rõ ràng các NĐT cần phải được pháp luật bảo vệ trong quá trình giao dịch nhằm giúp NĐT có thể quản lý chặt chẽ tài sản của mình (gồm tiền và chứng khoán trên tài khoản) cũng như đảm bảo CTCK sẽ thực hiện các lệnh khách hàng.
Cơ chế pháp lý bảo vệ NĐT trên TTCK được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong trình NĐT mở tài khoản, sử dụng tài khoản và quản lý tài khoản chứng khoán mở tại các CTCK.
Như vậy, cơ chế pháp lý bảo vệ NĐT trong giai đoạn giao dịch trên TTCK sẽ bao gồm ba nội dung: pháp luật bảo vệ NĐT trong quan hệ mở tài khoản giữa khách hàng và CTCK; pháp luật bảo vệ NĐT trong quan hệ giữa khách hàng và CTCK trong quá trình đặt lệnh; pháp luật bảo vệ NĐT trong quan hệ giữa khách hàng và CTCK trong quá trình khách hàng quản lý tài khoản.
1. Pháp luật bảo vệ nhà đầu tư trong quan hệ mở tài khoản giữa khách hàng và công ty chứng khoán
Quan hệ mở tài khoản được xác lập thông qua hợp đồng mở tài khoản giữa khách hàng, NĐT và CTCK, chủ thể cung cấp dịch vụ. Hợp đồng mở tài khoản được coi là bằng chứng pháp lý quan trọng để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mở tài khoản. Với tính chất quan trọng đó, NĐT với tư cách là khách hàng có quyền cùng bàn bạc, thỏa thuận các nội dung trong hợp đồng mở tài khoản với CTCK.

Để bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT, trong Phụ lục số 17 ban hành kèm theo Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động CTCK (Quyết định 27), Bộ Tài chính đã phác thảo những nội dung cơ bản của hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán giữa CTCK và khách hàng. Trên cơ sở những nội dung cơ bản này, các CTCK soạn thảo những hợp đồng mẫu để ký kết với khách hàng về dịch vụ mở và quản lý tài khoản chứng khoán.
Việc làm trên của Bộ Tài chính là rất đáng ghi nhận, tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng, những quy định của pháp luật về việc mở tài khoản của khách hàng còn vài điểm bất cập và chưa thể hiện rõ trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT. Cụ thể:
Một là, trong phần thứ hai về điều khoản quy định các thoả thuận cụ thể của nội dung cơ bản trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán giữa CTCK và khách hàng ban hành kèm theo Quyết định 27 có nội dung “tỷ lệ ký quỹ đặt mua/bán chứng khoán được áp dụng”. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch ký quỹ, là cơ sở để CTCK cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ. Tuy nhiên, với quy định chung chung trong phần phụ lục về nội dung này, các CTCK sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NĐT lớn sử dụng để mua, bán trên thị trường, gây tác động đến giá cả thị trường và mang đến những yếu tố tiêu cực tiềm ẩn cho TTCK nếu không có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Vì vậy, với tầm quan trọng của giao dịch ký quỹ nên giao dịch này cần phải được điều chỉnh bằng một văn bản riêng.
Hiện nay, Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) đang gấp rút chỉnh sửa và đưa ra dự thảo lần 2 Thông tư hướng dẫn hoạt động giao dịch mua chứng khoán ký quỹ để xin ý kiến nhằm trình Bộ Tài chính thông qua. Theo đó, khách hàng nào muốn giao dịch ký quỹ sẽ phải mở một tài khoản giao dịch ký quỹ riêng không sử dụng tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường để giao dịch ký quỹ.
Do vậy, theo chúng tôi, Nhà nước cần phải nhanh chóng loại bỏ nội dung này và nội dung thứ tư trong phần điều khoản về các thoả thuận cụ thể của nội dung cơ bản trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán giữa CTCK và khách hàng ban hành kèm theo Quyết định 27 có nội dung “thời hạn, cách thức xử lý tài sản trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán đúng hạn”. Bởi vì phần quy định tại phần thứ tư chỉ để nhằm phục vụ cho việc giao dịch ký quỹ khi khách hàng vay tiền mua chứng khoán và dùng phần chứng khoán mua được để đảm bảo cho khoản vay nhưng không thanh toán được tiền khi đến hạn trả.
Hai là, để đảm bảo tính hợp lý của việc mở tài khoản của NĐT tại các CTCK, Điều 30 của Quy chế tổ chức và hoạt động CTCK ban hành kèm theo Quyết định 27 cũng cần phải sửa đổi theo hướng quy định rõ có hai loại tài khoản giao dịch chứng khoán: tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường và tài khoản giao dịch ký quỹ . Theo đó, quy chế về tổ chức và hoạt động của CTCK chỉ điều chỉnh đối với những vấn đề liên quan đến mở tài khoản và quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường, các giao dịch chứng khoán ký quỹ, mở tài khoản giao dịch ký quỹ thì sẽ dẫn chiếu đến văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về giao dịch ký quỹ. Điều này vừa đảm bảo tính chặt chẽ trong quy định, vừa đảm bảo sự hợp lý trong việc điều chỉnh đặc biệt đối với giao dịch ký quỹ nhằm đảm bảo tính ổn định, tích cực cho TTCK.
Ba là, những nội dung cơ bản của hợp đồng mở tài khoản cần được quy định thành một điều khoản trong quy chế. Với quy định như hiện nay, những nội dung cơ bản của hợp đồng mở tài khoản chỉ mang tính khuyến nghị mà không mang tính pháp lý bắt buộc. Do vậy, các CTCK có thể thiết kế hợp đồng theo nội dung đó hoặc không cũng không có chế tài đặt ra để xử lý các CTCK nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT. Vì vậy chúng tôi kiến nghị đưa những nội dung cơ bản của hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán này thành một điều hoặc một khoản cụ thể trong quy chế điều chỉnh về hoạt động của CTCK. Kiến nghị này nhằm đạt được những yêu cầu sau: (i) việc ghi nhận những nội dung cơ bản của hợp đồng mở tài khoản thành một nội dung cụ thể trong quy chế mà không phải là phần phụ lục sẽ làm nâng cao tính pháp lý của quy định. Qua đó, pháp luật khẳng định rằng đây là quy định bắt buộc, là những điều khoản không thể thiếu được hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán của CTCK với khách hàng. Nếu hợp đồng do CTCK soạn mà thiếu một trong những nội dung cơ bản này sẽ là cơ sở để khách hàng có quyền kiện đòi CTCK bồi thường thiệt hại cũng như là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt các CTCK nhằm bảo vệ cao hơn nữa quyền và lợi ích của khách hàng; (ii) việc ghi nhận này phù hợp với kỹ thuật lập pháp. Thực tế, các văn bản pháp quy luôn dành một điều khoản để ghi nhận về những nội dung cơ bản trong một loại hợp đồng nhằm điều chỉnh về một hoạt động cung cấp dịch vụ nào đó của nhà cung cấp, làm cơ sở cho nhà cung cấp cung cấp dịch vụ cho khách hàng của mình .
Do vậy, việc quy định một điều khoản về nội dung của hợp đồng mở tài khoản trong quy chế về tổ chức và hoạt động của CTCK là hoàn toàn phù hợp.
2. Pháp luật bảo vệ nhà đầu tư trong quan hệ giữa khách hàng và công ty chứng khoán trong quá trình đặt lệnh
Để đảm bảo quyền và lợi ích của khách hàng trong quá trình đặt lệnh giao dịch và các hoạt động liên quan đến quá trình sử dụng tài khoản giao dịch chứng khoán, Nhà nước đã ban hành những quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ này. Đó là những quy định trong Luật Chứng khoán, Quyết định 27 và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Hộp 1
Bà Nguyễn Kim Phượng (chủ TK số 020C009588, mở tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Quốc tế Việt Nam) đã có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán như sau:
Ngày 14/1/2010, UBCKNN nhận được bản đăng ký chào mua công khai 1,3 triệu cổ phiếu Công ty Cổ phần Vật tư và Vận tải Xi măng (Mã CK: VTV) của bà Nguyễn Kim Phượng. Ngày 22/1/2010, UBCKNN đã có Công văn số 257/UBCK-QLPH yêu cầu bà Nguyễn Kim Phượng giải trình, bổ sung và làm rõ một số nội dung liên quan đến bản đăng ký chào mua công khai. Tuy nhiên, bà Nguyễn Kim Phượng không thực hiện bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của UBCKNN. Theo quy định tại Tiết b Điểm 9.1 Khoản 9 Mục II Thông tư số 194/2009/TT-BTC hướng dẫn chào mua công khai cổ phiếu của công ty đại chúng, chứng chỉ quỹ của quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng dạng đóng, kể từ thời điểm gửi đăng ký chào mua công khai đến khi hoàn thành đợt chào mua, bà Nguyễn Kim Phượng không được bán cổ phiếu mà mình đang chào mua. Việc bà Nguyễn Kim Phượng bán ra 557.800 cổ phiếu VTV vào ngày 24/3/2010 là vi phạm quy định tại Điểm 9.1 Khoản 9 Mục II Thông tư 194/2009/TT-BTC.
Bà Nguyễn Kim Phượng là cổ đông lớn (nắm giữ 8,58% số cổ phiếu có quyền biểu quyết) của Công ty Cổ phần Vật tư và Vận tải Xi măng. Do vậy, việc bà Nguyễn Kim Phượng bán 557.800 cổ phiếu VTV nhưng không báo cáo UBCKNN, Sở GDCK Hà Nội trước khi thực hiện giao dịch là vi phạm điểm 4.2 Khoản 4 Mục IV Thông tư số 09/2010/TT-BTC hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
Trước đây, việc đặt lệnh phải do chủ tài khoản ghi vào phiếu lệnh và nộp trực tiếp tại sàn giao dịch của CTCK. Tuy nhiên, hiện nay với sự phát triển của khoa học công nghệ, các thiết bị điện tử thông minh, pháp luật đã cho phép CTCK có thể nhận lệnh của khách hàng bằng nhiều cách thức như đặt lệnh giao dịch qua internet, qua điện thoại, qua fax…
Về mặt nguyên tắc, khi khách hàng đặt lệnh mua, bán chứng khoán theo quy định của pháp luật, CTCK chỉ được nhận lệnh của khách hàng có đủ tiền và chứng khoán theo quy định của UBCKNN và phải có các biện pháp cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán của khách hàng khi lệnh giao dịch được thực hiện. Quy định này nhằm đảm bảo tránh trường hợp khách hàng mua chứng khoán nhưng không có đủ tiền (trừ trường hợp được phép giao dịch ký quỹ theo thông tư giao dịch ký quỹ mà Bộ Tài chính đang dự thảo), bán chứng khoán khi không có đủ chứng khoán gây xáo trộn lớn cho TTCK, bảo vệ quyền và lợi ích của các NĐT. Tuy vậy, trên thực tế đã có khá nhiều CTCK sẵn sàng vì lợi ích riêng nên đã bỏ qua các quy định này và bị xử lý .
Nghiên cứu các quy định của pháp luật điều chỉnh về quan hệ giữa khách hàng và CTCK trong quá trình đặt lệnh, chúng tôi thấy có một số điểm hạn chế sau:
Một là, vấn đề kiểm tra tài khoản của khách hàng trước khi nhập lệnh bán chứng khoán vào hệ thống khi khách hàng thực hiện việc chào mua công khai. Theo quy định điểm b Khoản 9.1 Mục II Thông tư số 194/2009/TT-BTC hướng dẫn chào mua công khai cổ phiếu của công ty đại chúng, chứng chỉ quỹ của quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng dạng đóng: “Kể từ thời điểm gửi đăng ký chào mua công khai đến khi hoàn thành đợt chào mua, bên chào mua không được thực hiện các hành vi: bán hoặc cam kết bán cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ mà mình đang chào mua”. Tuy nhiên, trên thực tế đã có nhiều hành vi lợi dụng việc chào mua công khai để đẩy giá chứng khoán lên cao và “lén lút” bán chứng khoán của mình đang sở hữu nhằm trục lợi bất chính. Điển hình hai vụ việc của bà Nguyễn Thị Kim Phượng (Xem hộp 1) và ông Trần Thái Hưng (Xem hộp 2) .
Hộp 2
Ngày 8/6/2010, Chủ tịch UBCKNN ban hành Quyết định số 452/QĐ-UBCK về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Trần Thái Hưng (chủ tài khoản số 023C012751, mở tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Việt), cụ thể như sau: Căn cứ Biên bản xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán số 210/BB-VPHC giữa UBCKNN và ông Trần Thái Hưng: Ngày 25/3/2010, ông Trần Thái Hưng nộp Bản đăng ký chào mua công khai 450.000 cổ phần Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng (mã chứng khoán: HCT) cho UBCKNN nhưng ngày 26/3/2010, ông Trần Thái Hưng đã thực hiện bán 27.200 cổ phiếu HCT, vi phạm điểm b Khoản 9.1 Mục II Thông tư 194/2009/TT-BTC hướng dẫn chào mua công khai cổ phiếu của công ty đại chúng, chứng chỉ quỹ của quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng dạng đóng. Xét tính chất và mức độ vi phạm, phạt tiền 50.000.000 đồng đối với ông Trần Thái Hưng theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 29 Nghị định 36/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Ở đây, nảy sinh một vấn đề là pháp luật chưa quy định rõ vai trò và trách nhiệm của CTCK trong quá trình thực hiện lệnh bán cho những đối tượng này. Do vậy, hành vi của các đối tượng trên đã gây thiệt hại đáng kể cho các NĐT trên TTCK. Đối chiếu các quy định của pháp luật, chưa có quy định cụ thể nào xác định rằng CTCK phải có trách nhiệm kiểm tra xem những khách hàng định bán chứng khoán có nằm trong diện chào bán công khai hay không? Ngoài ra, trong Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ban hành ngày 08/03/207 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK cũng không có quy định xử phạt về việc không kiểm tra của CTCK đối với khách hàng chào mua công khai chứng khoán. Cho nên, vì lợi nhuận, các CTCK có thể chấp nhận dễ dàng việc nhập lệnh bán của các chủ thể chào mua công khai mà không sợ bị pháp luật xử lý. Do đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT trên TTCK, chúng tôi kiến nghị: (i) cần có một điều khoản xác định trách nhiệm của CTCK trong việc kiểm tra xem khách hàng có là người đang thực hiện hành vi chào mua công khai không trước khi nhập lệnh bán của khách hàng vào hệ thống giao dịch; cụ thể là sửa đổi khoản 5 Điều 33 Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK ban hành kèm theo Quyết định 27 như sau: “CTCK chỉ được nhận lệnh của khách hàng có đủ tiền và chứng khoán theo quy định của UBCKNN và phải có các biện pháp cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán của khách hàng khi lệnh giao dịch được thực hiện. Cấm CTCK nhận lệnh bán trong trường hợp khách hàng là người chào mua công khai theo quy định của pháp luật về chào mua công khai trong thời gian thực hiện hoạt động chào mua công khai”; (ii) cần bổ sung vào văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK quy định về xử phạt đối với trường hợp CTCK vẫn tiến hành nhập lệnh bán chứng khoán cho khách hàng khi khách hàng là người chào mua công khai theo quy định của pháp luật về chào mua công khai trong thời gian thực hiện hoạt động chào mua công khai. Đối với hành vi này, CTCK sẽ bị xử lý trong mọi trường hợp dù cố ý hay vô ý. Vì rõ ràng, đây là hành vi có lỗi của CTCK, bởi việc chào mua công khai đã được thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng theo quy định của pháp luật về chào mua công khai .
Các quy định này nhằm ngăn chặn ngay từ đầu các ý định bất chính nhằm trục lợi riêng của những chủ thể lợi dụng việc chào mua công khai, gây bất lợi cho các NĐT khác trên TTCK.
- Hai là, vấn đề về việc ủy quyền của chủ tài khoản, NĐT cho cá nhân khác thay mặt mình đặt lệnh mua, bán chứng khoán: Về nguyên tắc, phiếu lệnh mua, phiếu lệnh bán chứng khoán là lệnh của chủ tài khoản yêu cầu CTCK mua, bán cho mình theo số lượng, giá cả đã điền trong phiếu lệnh. Tuy nhiên, không phải lúc nào chủ tài khoản cũng có thể dễ dàng thực hiện việc này vì nhiều lý do khác nhau. Do vậy, pháp luật vẫn cho phép các chủ tài khoản được phép ủy quyền cho chủ thể khác thay mặt mình ký xác nhận trong các phiếu lệnh mua, bán chứng khoán. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ tài khoản trong quá trình giao dịch chứng khoán. Mặt dù vậy, trên thực tế quy định này cũng đã gây nên không ít phiền nhiễu và bất lợi, thiệt hại cho NĐT trong một số trường hợp (Xem hộp 3)
Hộp 3
Ví dụ: Vụ việc mất hơn 6 tỷ trong tài khoản chứng khoán của bà Nguyễn Thị Kim D. Bà D. đã có đơn tố cáo Công ty Cổ phần chứng khoán Rồng Việt (Công ty Rồng Việt) đã vi phạm trong việc thực hiện chức năng quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng. Theo đơn bà D, ngày 17/7/2009, bà có mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại Công ty Rồng Việt để mua bán cổ phiếu của Công ty Cổ phần Công nghiệp cao su miền Nam (CSM). Sau đó, Công ty Rồng Việt cử ông Văn Thiên Hùng là nhân viên môi giới quản lý tài khoản của bà. Đầu tháng 3/2010, bà D. phát hiện tài khoản của mình bị Công ty Rồng Việt phong tỏa chứng khoán. Khi liên lạc với Công ty Rồng Việt, bà D. bất ngờ hơn vì công ty có trưng ra một giấy ủy quyền có chữ ký của bà cho một người tên là Nguyễn Thanh Phong được thay mặt sử dụng toàn bộ tiền, chứng khoán trong tài khoản của bà để tiến hành các giao dịch mua, bán, cầm cố, hợp tác đầu tư. Nghiêm trọng hơn, ông Phong đã thay mặt bà D. ký hai phụ lục hợp đồng hợp tác đầu tư chứng khoán với Công ty Rồng Việt. Theo hai phụ lục này thì tính đến ngày 21/4, bà D. nợ Công ty Rồng Việt hơn 4,5 tỉ đồng (tương đương số cổ phiếu CSM của bà D. bị công ty phong tỏa). Sau đó, Công ty Rồng Việt đã bán hết số cổ phiếu CSM bị phong tỏa này để thu hồi công nợ. Tuy nhiên, bà D. khẳng định bà chưa ký giấy ủy quyền cho bất kỳ ai thay mặt để chơi chứng khoán. Theo bà D. giấy ủy quyền “có vấn đề” khi số chứng minh nhân dân ghi không đúng, chỗ ghi ngày, tháng, năm thì chồng lên nhau… Theo bà D., trong khoảng thời gian từ ngày 14/9/2009 đến ngày 24/3/2010, bà nhiều lần phát hiện tài khoản bị mua bán. Mọi việc đều được báo với ông Văn Thiên Hùng. Ông Hùng trả lời là do hệ thống bị lỗi. Thậm chí lúc phát hiện tài khoản bị phong tỏa, bà gọi báo thì ông Hùng cũng nói do lỗi hệ thống. Về chữ ký trên tờ giấy ủy quyền, bà D. cho biết là chữ ký thật của mình nhưng việc ký này đã bị ông Hùng lừa. Vì khi gần tết, ông Hùng có đến nhà bà D, đưa ba phần quà, nói đây là quà tết công ty gửi tặng khách hàng và yêu cầu và D ký vào ba tờ giấy trắng để mang về báo lại cho công ty .
Như vậy, với tình huống trên, chúng tôi thấy, việc uỷ quyền này được thực hiện bằng văn bản theo mẫu của CTCK đưa ra. NĐT đôi khi vì sự tư vấn của nhân viên môi giới cho thấy những ưu điểm của việc ủy quyền mà chưa thấy được mặt hạn chế của nó nên đã ủy quyền mà không lường đến những hậu quả có thể xảy ra cho mình. Theo chúng tôi, để bảo vệ NĐT nhiều hơn nữa, pháp luật cần đưa vấn đề ủy quyền của chủ tài khoản vào quy định của pháp luật về giao dịch chứng khoán.
Tuy nhiên, việc đưa thêm quy định về ủy quyền trong giao dịch chứng khoán không đơn thuần chỉ là ghi nhận việc ủy quyền trong giao dịch chứng khoán cần phải lập thành văn bản, mà còn phải quy định rõ ràng hơn rằng, văn bản ủy quyền trong giao dịch chứng khoán cần phải được công chứng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định này sẽ (i) giúp NĐT ý thức hơn nữa tầm quan trọng của hoạt động ủy quyền trong giao dịch chứng khoán, sẽ thận trọng trong việc ủy quyền giao dịch chứng khoán; (ii) việc ủy quyền giao dịch chứng khoán bằng văn bản sẽ hạn chế được trường hợp các nhân viên của CTCK lợi dụng để lừa khách hàng ký vào bản ủy quyền để trục lợi bất chính.
3. Pháp luật bảo vệ nhà đầu tư trong quan hệ giữa khách hàng và công ty chứng khoán trong quá trình khách hàng quản lý tài khoản
Tài khoản giao dịch chứng khoán do các NĐT mở tại CTCK là tài sản quan trọng của NĐT, trong tài khoản có tiền và chứng khoán của NĐT. Các khoản thu nhập phát sinh trong quá trình giao dịch chứng khoán của NĐT sẽ được CTCK chuyển vào tài khoản này cho NĐT. Tài khoản giao dịch của NĐT được quản lý bởi CTCK. Cho nên, việc quản lý chặt chẽ tài khoản giao dịch chứng khoán chính là một trong những cách thức đơn giản mà hiệu quả để NĐT bảo vệ tiền của mình. Tuy nhiên, các NĐT ít ý thức được tầm quan trọng này của việc quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán nên đã tạo ra cơ hội cho CTCK, nhân viên CTCK trục lợi từ tiền và chứng khoán của NĐT trong tài khoản của họ.
Trên thực tế đã từng có những hành vi vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT từ CTCK trong hoạt động quản lý tài khoản của khách hàng. Vụ hàng chục tài khoản chứng khoán bỗng dưng biến mất diễn ra tại CTCK Phố Wall (WSS) là một minh chứng (Xem hộp 4).
Hộp 4
Hàng chục tài khoản của khách hàng mở tại WSS đã không thấy trên hệ thống vì đã bị CTCK Phố Wall (WSS) bằng một số thao tác che đi số tài khoản này. Lý do mà WSS đưa ra để lý giải cho hành động của mình là vì những khách hàng này đã tham gia dịch vụ mua bán chứng khoán theo hình thức ký quỹ do WSS cung cấp. Tuy nhiên, do thị trường diễn biến xấu, các NĐT này đều thua lỗ nên công ty đã thực hiện phong tỏa tài khoản để đảm bảo thu hồi nợ. Trong thời gian này, một số NĐT cũng cam kết sẽ nộp đủ số tiền để tài khản giao dịch bình thường. Tuy vậy, sau khi hoàn tất thủ tục nộp tiền, ngày 5/3/2010, một số NĐT trực tiếp đến WSS để thực hiện giao dịch thì được nhân viên nhập lệnh cho biết vẫn không nhìn thấy tài khoản trên phần mềm giao dịch. Theo ông Phạm Đức Long, Phó Tổng Giám đốc WSS, phản ánh về việc công ty đang phong tỏa một số tài khoản của khách hàng thì "Đúng là có một số tài khoản đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính với công ty nhưng do liên quan đến một số tài khoản hiện vẫn thiếu nợ nên theo yêu cầu của tổ chức tài chính, WSS sẽ tiếp tục phong tỏa những tài khoản này đến khi tất cả các khách hàng trong diện phong tỏa nộp đủ tiền". Các tài khoản đang bị phong tỏa nói trên (41 trường hợp, bao gồm cả tài khoản đã nộp đủ tiền cũng như chưa thanh toán) đều liên quan đến cựu Giám đốc kinh doanh của WSS. Theo ông Long, vị giám đốc này đã nghỉ việc vì có sai phạm trong việc cho phép khách hàng vay ký quỹ vượt quá tỷ lệ cho phép. Căn cứ được ông Long đưa ra để lý giải cho quyết định phong tỏa tài khoản của khách hàng là đề nghị được mua lại nợ của vị cựu Giám đốc kinh doanh. Số nợ này có giá trị khoảng 5 tỷ đồng và thuộc về 41 tài khoản mà vị này liên đới trách nhiệm (được ủy quyền giao dịch, mở tại đại lý riêng hoặc được vị này trực tiếp duyệt thấu chi trong thời gian làm việc tại WSS). Ông Long cho biết việc mua nợ này hiện chưa hoàn thành nên chưa thể dỡ lệnh phong tỏa cho các tài khoản.
Trong tình huống này, WSS đã thực hiện không đúng quy định ở một số vấn đề sau:
- WSS đã tiến hành cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ chứng khoán. Có thể nói đây là một hoạt động không trái luật nhưng cũng chưa hoàn toàn phù hợp theo quy định của pháp luật chứng khoán. Tới thời điểm hiện nay, thông tư điều chỉnh về hoạt động giao dịch ký quỹ vẫn còn nằm dưới dạng Dự thảo lần 2. Do vậy, đây là hoạt động chưa được pháp luật quy định một cách rõ ràng. Theo đó quyền và lợi ích của khách hàng đã bị WSS vi phạm một cách nghiêm trọng. Bởi vì, dù cho có hoạt động cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ chứng khoán thì bn chất của vấn đề là CTCK cho khách hàng vay tiền và sử dụng chứng khoán mà khách hàng mua được làm tài sản đảm bảo cho khoản vay của khách hàng. Nói cách khác, khi chưa có văn bản pháp luật cụ thể do cơ quan quản lý TTCK ban hành về giao dịch ký quỹ thì hoạt động này chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm. Theo các quy định này thì việc xử lý tài sản đảm bảo khi khách hàng, bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì CTCK, bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản theo thỏa thuận của các bên. Do vậy, tùy thuộc vào hợp đồng dịch vụ ký quỹ giữa WSS và khách hàng mà có những cách xử lý tài sản đảm bảo khác nhau. Tuy nhiên, các NĐT vẫn có thể thỏa thuận với CTCK đóng tiền để giải quyết khoản vay mà không cần phải bán chứng khoán trong tài khoản. Đây là yêu cầu rất chính đáng của các NĐT và phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch đảm bảo.
- Pháp luật về giao dịch bảo đảm áp dụng vào giao dịch ký quỹ thì chứng khoán chính là đối tượng được cầm cố. Do vậy, WSS chỉ có thể phong tỏa phần chứng khoán cầm cố chứ không thể che toàn bộ tài khoản của khách hàng được. Về nguyên tắc, các chứng khoán khác trong tài khoản của khách hàng mà không được sử dụng để giao dịch bảo đảm thì vẫn hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ tài khoản và chủ tài khoản không hề bị giới hạn về quyền của người chủ sở hữu. Cho nên, hành bi che tài khoản của WSS hoàn toàn là trái với quy định của pháp luật, cản trở quyền của chủ sở hữu trong quá trình định đoạt chứng khoán của mình.
Như vậy, pháp luật về chứng khoán hiện nay đã thiếu một chế định khá quan trọng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giao dịch chứng khoán. Đó chính là chế định pháp lý về giao dịch ký quỹ. Vì chưa có chế định pháp lý rõ ràng về giao dịch ký quỹ nên các CTCK đã “xé rào” cung cấp dịch vụ này và làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích của các NĐT.
Với những lý do trên, chúng tôi kiến nghị UBCKNN cần nhanh chóng hoàn thành các quy định trong Thông tư về giao dịch ký quỹ để trình Bộ Tài chính ký và ban hành, nhằm điều chỉnh về giao dịch ký quỹ, bảo vệ tốt hơn nữa các NĐT trong mối quan hệ giữa NĐT với CTCK.
Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Thứ Hai, 24 tháng 1, 2011

NÊN HAY KHÔNG NÊN QUY ĐỊNH THỦ TỤC “HÒA GIẢI Ở CẤP CƠ SỞ” TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

Nên hay không nên quy định  Theo Luật đất đai năm 2003,  “hòa giải ở cấp cơ sở” trong giải quyết các tranh chấp đất đai là một trong những điều kiện bắt buộc trước khi các đương sự được khởi kiện tới Tòa án?

1. Những bất cập về mặt pháp luật và vướng mắc trong thực tiễn:
Điều 135 Luật đất đai năm 2003 quy định về  hoà giải tranh chấp đất đai như sau:
“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.   
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai.
Thời hạn hoà giải là ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn.
Kết quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất. Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai.”
Tuy nhiên, Điều 136 Luật đất đai quy định “ Tòa án chỉ giải quyết các tranh chấp đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã nhưng các đương sự không nhất trí với nhau” . Như vậy, thủ tục hòa giải cơ sở do Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn tiến hành là điều kiện bắt buộc trước khi các đương sự được khởi kiện tới Tòa án chứ không phải là thủ tục mang tính tùy nghi hoặc khuyến khích.

Việc Nhà nước đề cao việc hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp đất đai và coi đó là một trong những biện pháp cơ bản để giải quyết tranh chấp đất đai nhằm mục đích khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở là một chủ trương đúng đắn. Quy định này là cần thiết nhằm tạo cơ hội để các bên thương lượng giải quyết,  giữ được tình cảm gia đình , bạn bè, làng xóm, tăng tính đoàn kết trong nhân dân. Tuy nhiên trên thực tế kết quả việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở cho thấy thủ tục này chỉ mang tính hình thức, động viên và ghi nhận hòa giải không thành để chuyển sang Tòa án giải quyết. Do tranh chấp đất đai thường  rất gay gắt, phức tạp vượt quá khả năng giải quyết của cán bộ địa phương, mặt khác trong quá trình hòa giải ở cơ sở, các bên đương sự thường không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ nên Hội đồng hòa giải cơ sở cũng khó hòa giải thành. Nhiều trường hợp mâu thuẫn đã có từ lâu và đến khi phải ra đến chính quyền giải quyết là lúc tranh chấp giữa hai bên đã rất căng thẳng. Mặt khác, ở nhiều địa phương,cán bộ tham gia hòa giải nhiều khi là họ hàng hoặc quen biết cả hai bên nên có phần e ngại va chạm, vì thế có tâm lý né tránh, gây thêm khó khăn cho đương sự trong việc giải quyết tranh chấp. Nhiều nơi cán bộ của Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc hòa giải qua quýt, không đúng thủ tục, gây mất thời gian. Kết quả là việc hòa giải đó không giải quyết được tranh chấp mà lại thêm thủ tục phiền hà cho người dân.
Về hiệu quả pháp lý của việc tiến hành hòa giải tại cơ sở, thực tế còn xảy ra trường hợp Ủy bân nhân dân cấp xã hòa giải thành nhưng sau đó một hoặc các bên tranh chấp không thực hiện nội dung hòa giải  lại tiếp tục khởi kiện dẫn đến vụ việc tranh chấp kéo dài. Chính vì vậy quy định bắt buộc các đương sự muốn khởi kiện tại Tòa án phải qua hòa giải tại địa phương là không cần thiết vì hiệu quả không cao do không có chế tài mà chỉ dựa trên sự tự nguyện của các bên.
Về thành phần tham gia hòa giải tại cơ sở, theo khoản 2 Điều 135 Luật đất đai :  “ Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai” là quá rộng . Trên thực tế khi Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành hòa giải, thành phần hòa giải thường không đầy đủ do thiếu cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc  cán bộ của các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức hội phụ nữ, tham gia hòa giải. Trong trường hợp này, khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện,  có nơi  Ủy ban nhân dân cấp xã chấp nhận tổ chức hòa giải lại, nhưng có nơi Ủy ban nhân dân cấp xã lại từ chối vì cho rằng tranh chấp đã được hòa giải, dẫn đến tình trạng việc giải quyết tranh chấp bị kéo dài, gây mất nhiều thời gian, công sức của người dân và cơ quan Tòa án.
Về thời hiệu khởi kiện, khoản 2, Điều 166 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định“ ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi “trong khi Luật đất đai quy định thời hạn tiến hành hòa giải ở cơ sở là 30 ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn.  Như vậy giai đoạn Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện hòa giải không được tính vào thời hiệu khởi kiện. Do vậy, nhiều trường hợp đương sự đợi để được hòa giải ở địa phương xong, gửi đơn đến Tòa án thì hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật, làm thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của đương sự.
2- Một số kiến nghị:
Để khắc phục bất cập về mặt pháp luật và tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn thi hành các quy định nêu trên, nên chăng chỉ quy định khuyến khích hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở trước khi khởi kiện ra tòa án mà không quy định đó là một thủ tục bắt buộc; hoặc chỉ nên quy định hòa giải cơ sở đối với các tranh chấp về đất đai trên cơ sở yêu cầu của đương sự. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không tiến hành hòa giải,  không có điều kiện hòa giải, hoặc một bên đương sự không có thiện chí nên không có mặt, hay không thể có mặt thì đương sự có quyền khởi kiện ra Tòa án. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể có thể khởi kiện thẳng đến Tòa án, không phải giải quyết tranh chấp đất đai qua nhiều cấp, tiết kiệm được thời gian, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm. Mặt khác tại Tòa án cũng có thủ tục hòa giải. Ngay cả khi cấp cơ sở đã tiến hành hòa giải cho các bên tranh chấp, khi thụ lý giải quyết tại Tòa án, Tòa án vẫn phải hòa giải, đây là một thủ tục bắt buộc trong hoạt động tố tụng.
Nếu vẫn quy định việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở là điều kiện bắt buộc thì nên quy định hiệu lực pháp luật của các vụ việc tranh chấp đã được hòa giải thành, đồng thời xem xét lại thời hiệu khởi kiện để không ảnh hưởng đến thời hiệu của người khởi kiện. Đồng thời để nâng cao chất lượng công tác hòa giải tại cơ sở, cần đầu tư nghiên cứu ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và tăng cường đào tạo, tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức quản lý Nhà nước về đất đai, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn, đội ngũ cán bộ làm công tác hòa giải tranh chấp đất đai của cấp Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cán bộ , thẩm phán Tòa án.
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

QUY ĐỊNH VỀ “ĐÌNH CHỈ” TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Đình chỉ là một phương thức xử lý đặc biệt của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Trước đây, trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế hay Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động chỉ quy định một loại đình chỉ duy nhất là đình chỉ giải quyết vụ án dưới hình thức “Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án”.[1]
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định nhiều loại đình chỉ khác nhau tương ứng với từng giai đoạn tố tụng và từng loại căn cứ khác nhau, theo đó Tòa án sẽ ra nhiều loại quyết định đình chỉ khác nhau: đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm, đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, quy định trong BLTTDS về tính chất, căn cứ, hình thức quyết định của các loại đình chỉ nêu trên cũng chưa thật sự rõ ràng, cụ thể, dẫn đến có nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự. Bài viết này phân tích về các loại đình chỉ trong tố tụng dân sự theo quy định của BLTTDS hiện hành.
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại thủ tục sơ thẩm
Tính chất của loại đình chỉ giải quyết vụ án dân sự này là chấm dứt hoạt động tố tụng. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm là một phương thức giải quyết vụ án dân sự. Bởi vì, một vụ án dân sự sẽ được giải quyết qua một trong ba phương thức là hòa giải thành công, đình chỉ giải quyết vụ án và mở phiên tòa xét xử.[2] Các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án được quy định cụ thể tại Điều 192 BLTTDS bao gồm: (i) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; (ii) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; (iii) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; (iv) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án; (v) Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án; (vi) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; (vii) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; (viii) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 192 BLTTDS còn viện dẫn các căn cứ đình chỉ được quy định tại Điều 168 BLTTDS về những trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Cụ thể, trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án mà phát hiện những căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó mà Tòa án đã thụ lý rồi mới phát hiện những căn cứ đó thì phải đình chỉ giải quyết vụ án. Những căn cứ được quy định tại Điều 168 bao gồm: (i) Thời hiệu khởi kiện đã hết; (ii) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; (iii) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện; (iv) Hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp hoặc không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng; (v) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện; (vi) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Cụ thể hóa những căn cứ nêu trên trong BLTTDS, Tòa án nhân dân tối cao đã có nghị quyết hướng dẫn cụ thể về nội dung của từng căn cứ.[3] Tuy nhiên, cần lưu ý đối với căn cứ “vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” thì không phải trong mọi trường hợp sau khi thụ lý vụ án nếu phát hiện không thuộc thẩm quyền thì Tòa án cấp sơ thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án, mà tùy từng trường hợp không thuộc thẩm quyền, Tòa án có thể chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết, vẫn tiến tục giải quyết vụ án nhưng phải ghi ký hiệu loại án cho phù hợp hoặc đình chỉ giải quyết vụ án.[4] Còn đối với căn cứ “hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp hoặc không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng” thì về mặt từ ngữ, không thể áp dụng là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án, bởi vì lúc này Tòa án chưa thụ lý vụ án. Mà căn cứ này cần phải được hiểu là, nếu đương sự không nộp tiền tạm ứng án phí mà không thuộc trường hợp không phải nộp hoặc được miễn án phí nhưng Tòa án đã thụ lý giải quyết thì sau đó phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Về thời điểm áp dụng, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng từ sau khi Tòa án thụ lý sơ thẩm giải quyết vụ án đến trước khi ra bản án, quyết định sơ thẩm. Nói cách khác, Tòa án cấp sơ thẩm có thể đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, nhận định này rút ra từ suy luận trong các Điều luật tương ứng bởi lẽ BLTTDS không có một quy định cụ thể nào về thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án. Đó là Điều 192 BLTTDS trong phần “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm” quy định về đình chỉ giải quyết vụ án là “sau khi thụ lý vụ án…”, và Điều 210 BLTTDS trong phần “Phiên tòa sơ thẩm” quy định “đình chỉ giải quyết vụ án… được thông qua tại phòng nghị án”.
Hình thức của việc đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục sơ thẩm là Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nội dung, mẫu quyết định này đã được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đó. Điều luật này không quy định rõ thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn nào của quá trình tố tụng, nhưng thực tế thẩm quyền này chỉ được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Bởi vì theo quy định tại khoản 2 Điều 210 BLTTDS thì các quyết định tại phiên tòa sơ thẩm, trong đó có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án. Như vậy thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm thuộc về Hội đồng xét xử.
Về hậu quả pháp lý, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực pháp luật và làm chấm dứt tố tụng. Hơn nữa, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không chỉ chấm dứt về mặt tố tụng mà đồng thời nội dung vụ án cũng được giải quyết nhưng bằng phương thức Tòa án từ chối phân xử tranh chấp. Khác với các vụ án phải qua xét xử thì Tòa án áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp, tuyên bố sự đúng sai, trách nhiệm của các đương sự trong vụ án… nhưng khi đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án tuyên bố tranh chấp giữa các bên đương sự không được Tòa án giải quyết, không áp dụng pháp luật nội dung để phân xử tranh chấp giữa các bên. Nói cách khác, đối tượng xét xử của Tòa án trong vụ án dân sự là yêu cầu của các đương sự đã không được Tòa án giải quyết khi đình chỉ giải quyết vụ án. Chẳng hạn, khi vụ án bị đình chỉ vì lý do đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án sẽ không xem xét đến yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ hay không, nội dung tranh chấp đó như thế nào… mà chỉ quyết định chấm dứt giải quyết vụ án. Hệ quả là vụ án bị đình chỉ sẽ làm chấm dứt tố tụng, mặc dù các quyền lợi về mặt nội dung của các đương sự chưa được giải quyết nhưng các đương sự cũng không thể khởi kiện lại để yêu cầu Tòa án giải quyết một lần nữa. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 193 BLTTDS cũng quy định một số ngoại lệ theo đó các đương sự vẫn có thể khởi kiện lại một vụ án mới mặc dù trước đó đã bị đình chỉ giải quyết vụ án: (i) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện; (ii) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; (iii) Nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; (iv) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mà vụ án đang giải quyết liên quan đến nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Đánh giá một cách khách quan, quy định của BLTTDS về các trường hợp đương sự có quyền khởi kiện lại như trên là chưa hợp lý. Cụ thể, đối với trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện thì đáng lẽ trong mọi trường hợp họ không thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự, bất kể thời điểm nào. Nếu tại thời điểm khởi kiện đó họ không có quyền khởi kiện và bị đình chỉ nhưng sau đó họ lại có quyền khởi kiện vì đã hội đủ những điều kiện nhất định thì đây là trường hợp người khởi kiện “chưa có đủ điều kiện khởi kiện” đã được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 BLTTDS. Tuy nhiên, rất tiếc, BLTTDS đã không quy định trường hợp này được quyền khởi kiện lại. Tương tự như vậy, đối với trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì BLTTDS trao quyền cho họ được khởi kiện lại, nhưng đối với trường hợp cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án thì không được BLTTDS quy định quyền khởi kiện lại của nguyên đơn. Vì vậy, BLTTDS cần phải quy định bổ sung những trường hợp này.
2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm
Khác với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm phải giải quyết hai vấn đề là đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tức là nội dung vụ việc và hoạt động tố tụng; và số phận pháp lý của bản án, quyết định sơ thẩm.
Về tính chất, đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm cũng làm chấm dứt các hoạt động tố tụng. Nhưng không chỉ vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm còn phải hủy bản án, quyết định sơ thẩm vì căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm xuất hiện cũng có nghĩa là bản án, quyết định sơ thẩm không có cơ sở. Ví dụ trường hợp một vụ tranh chấp dân sự đã hết thời hiệu khởi kiện, đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện trước khi thụ lý hoặc phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì lại đưa vụ án đó ra xét xử. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm đó và đình chỉ giải quyết vụ án.
Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm được quy định tại Điều 278 BLTTDS, đó cũng chính là những căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm được quy định tại Điều 192 BLTTDS (Điều 278 quy định viện dẫn đến Điều 192). Điểm cần lưu ý là những căn cứ này phải đã xuất hiện và tồn tại khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án. Đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm phải đình chỉ giải quyết vụ án khi có những căn cứ đó nhưng vì lý do nào đó, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, đối với căn cứ nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại thủ tục phúc thẩm (bao gồm trước và tại phiên tòa phúc thẩm) thì áp dụng những quy định riêng biệt tại Điều 269 BLTTDS. Đối với trường hợp này, Tòa án cần phải hỏi ý kiến của bị đơn có đồng ý để nguyên đơn rút đơn khởi kiện hay không. Nếu bị đơn đồng ý thì mới đình chỉ giải quyết vụ án, còn nếu bị đơn không đồng ý thì Tòa án vẫn xét xử vụ án. Quy định này không nhằm mục đích hạn chế quyền tự quyết định của nguyên đơn mà là nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị đơn trước viễn cảnh có thể bị nguyên đơn khởi kiện lại nếu chấp nhận cho nguyên đơn rút đơn khởi kiện. Bởi vì nếu bị đơn phản đối việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tức là đồng ý với phán quyết trong bản án, quyết định sơ thẩm và các đương sự phải thi hành bản án, quyết định đó; và trường hợp này nguyên đơn không thể khởi kiện lại vì đã có bản án, quyết định giải quyết vụ việc đó.
Về thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm khác với thủ tục sơ thẩm. Nếu như đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm có thể áp dụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tức là trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, thì đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm chỉ được áp dụng trong phiên tòa phúc thẩm. Quy định này xuất phát từ tính chất của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm là quyết định đến số phận pháp lý của bản án sơ thẩm, nên nó phải được quyết định ở phiên tòa phúc thẩm. Như vậy, thẩm quyền đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 269, 278 BLTTDS). Thẩm phán cấp phúc thẩm được phân công giải quyết vụ án không có thẩm quyền này.
Về hình thức văn bản, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc bản án phúc thẩm. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm và được bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 1 Điều 269 BLTTDS). Đối với những căn cứ khác, Hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 278 BLTTDS). Theo nguyên tắc chung, quyết định hay bản án phúc thẩm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng như những bản án, quyết định phúc thẩm khác sẽ có hiệu lực pháp luật ngay.
3. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Đình chỉ xét xử phúc thẩm khác biệt với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm. Tính chất của đình chỉ xét xử phúc thẩm không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về mặt nội dung mà chỉ chấm dứt thủ tục tố tụng phúc thẩm. Nói cách khác, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc thẩm nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm, theo đó những quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi hành.
Căn cứ của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 192, 260 BLTTDS, bao gồm: (i) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; (ii) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; (iii) Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị; (iv) Những trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Như vậy, theo quy định của BLTTDS thì hai căn cứ đầu (nêu trên) vừa là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án tại thủ tục phúc thẩm vừa là căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Quy định này đã gây ra một khó khăn trong thực tiễn áp dụng là khi nào Tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án và khi nào sẽ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP cũng không có quy định nào hướng dẫn về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy luận rằng nếu như sự kiện nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có người thừa kế tham gia tố tụng xuất hiện và tồn tại trước và trong khi giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm mà Tòa án cấp sơ thẩm vẫn cứ giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra bản án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nếu những sự kiện đó xuất hiện và tồn tại trong quá trình Tòa phúc thẩm giải quyết vụ án thì Tòa phúc thẩm chỉ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp này bản án, quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật vì thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định là hoàn toàn có căn cứ, cơ sở.
Thời điểm đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể trước phiên tòa tức là giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Hình thức văn bản được áp dụng chung là Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do Thẩm phán được phân công phụ trách vụ án thực hiện, còn tại phiên tòa phúc thẩm do Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định.5 Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
Như đã đề cập, đình chỉ xét xử phúc thẩm sẽ dẫn đến hậu quả là bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, BLTTDS đã không quy định thời điểm chung phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm. Trong đó, BLTTDS chỉ quy định trường hợp đình chỉ vì lý do người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (khoản 2 Điều 260 BLTTDS). Vậy những trường hợp đình chỉ xét xử phúc thẩm còn lại thì hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được xác định từ ngày nào? Từ ngày Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm hay từ ngày phát sinh sự kiện làm căn cứ cho việc đình chỉ xét xử phúc thẩm? Thiết nghĩ, BLTTDS cần quy định cụ thể trường hợp này.
4. Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự
Ngoài các loại đình chỉ trình bày ở trên, BLTTDS còn quy định một loại đình chỉ khá đặc biệt nữa là đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự. Vấn đề này được quy định tại khoản 2 Điều 218 BLTTDS: “trong trường hợp đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của đương sự đã rút”; và tại khoản 2 Điều 256: “Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị”.
BLTTDS không quy định cụ thể về điều kiện áp dụng, hình thức của việc đình chỉ xét xử theo yêu cầu. Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP (tại mục I.10.2) cũng chỉ hướng dẫn căn cứ đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo, kháng nghị của đương sự, Viện kiểm sát trong thủ tục phúc thẩm. Để hiểu rõ hơn về căn cứ áp dụng việc đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự chúng ta cần phải xem xét cụ thể trong từng giai đoạn tố tụng:
- Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm:
Tòa án cấp sơ thẩm chỉ đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự nếu như trong vụ án có nhiều đương sự đưa ra yêu cầu và trong đó chỉ có một hoặc một số rút yêu cầu, số còn lại vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ. Cụ thể, nếu (i) vụ án có một nguyên đơn đưa ra nhiều yêu cầu mà sau đó họ rút một phần yêu cầu; (ii) vụ án có nhiều nguyên đơn mà trong đó có nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu nhưng các nguyên đơn khác vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ; (iii) vụ án mà bị đơn cũng có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nhưng sau đó nguyên đơn rút đơn khởi kiện mà bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố; (iv) vụ án trong đó người có quyền và nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập nhưng sau đó nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện, bị đơn nếu có phản tố cũng rút toàn bộ yêu cầu phản tố.6 Trong những trường hợp đó Tòa án sẽ đình chỉ xét xử yêu cầu của những đương sự đã rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu đó nhưng không làm chấm dứt tố tụng mà vụ án vẫn tiếp tục được giải quyết.
Trong trường hợp tất cả các đương sự đều rút toàn bộ các yêu cầu của họ thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án và chấm dứt tố tụng chứ không phải đình chỉ xét xử yêu cầu của từng đương sự. Tuy nhiên, căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại Điều 192 BLTTDS đã không có quy định nào về trường hợp đình chỉ này.
Về mặt hình thức, hiện nay BLTTDS cũng như các Nghị quyết hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đều chưa có quy định cụ thể nào về hình thức quyết định của loại đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm. Trong những trường hợp đình chỉ nêu trên, Tòa án phải ra quyết định đình chỉ hay chỉ cần ghi biên bản? Trong các mẫu văn bản do Tòa án nhân dân tối cao ban hành cũng không có mẫu quyết định đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự. Chính vì vậy, BLTTDS cần quy định rõ về hình thức, thủ tục và thẩm quyền đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm.
- Đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo, kháng nghị trong thủ tục phúc thẩm:
Tương tự như trong thủ tục sơ thẩm, việc đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo, kháng nghị của Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được áp dụng khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị mà không có người khác kháng cáo về phần đó; khi người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị và phần yêu cầu rút đó độc lập với những phần kháng cáo, kháng nghị khác đồng thời không có người kháng cáo khác về phần đó (mục I.10.2 Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP). Trong trường hợp tất cả mọi người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị đều rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm theo căn cứ đã nêu trên.
Về mặt hình thức, mục I.10.2 Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP quy định cụ thể rằng “Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút kháng nghị”. Như vậy, đối với những căn cứ nêu trên về việc rút yêu cầu kháng cáo, kháng nghị trong thủ tục phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị đó. Tuy nhiên, việc ra quyết định đình chỉ xét xử phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị nếu do thẩm phán thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là hợp lý thì việc ra một quyết định độc lập như vậy tại phiên tòa phúc thẩm phải chăng mang nặng tính hình thức, thủ tục và không cần thiết mà hoàn toàn có thể ghi biên bản phiên tòa và xác nhận trong bản án. Cần lưu ý là việc đình chỉ xét xử phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị trong thủ tục phúc thẩm cũng như đình chỉ xét xử phần yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm không làm chấm dứt tố tụng mà ngược lại Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
5. Đình chỉ trong thủ tục giải quyết việc dân sự
Một trong những thiếu sót của BLTTDS là chưa có những quy định cụ thể về đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự. Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn áp dụng thủ tục tố tụng giải quyết các việc dân sự. Căn cứ vào Điều 311 BLTTDS, nếu chúng ta áp dụng các quy định tương tự khác của BLTTDS về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, trong đó có đình chỉ, vào thủ tục giải quyết việc dân sự thì sẽ không phù hợp. Lý do đơn giản là các căn cứ đình chỉ trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự hoàn toàn khác với thủ tục giải quyết việc dân sự. Chính vì vậy, thiết nghĩ, BLTTDS cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này, tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để tránh tình trạng lúng túng khi áp dụng pháp luật tố tụng dân sự trong thực tiễn.
Như vậy, “đình chỉ” trong tố tụng dân sự bao gồm nhiều loại khác nhau, hơn nữa trong một loại đình chỉ thì ở từng giai đoạn tố tụng cũng được áp dụng khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS chưa quy định một cách cụ thể những nội dung đó cho từng loại đình chỉ hoặc cho từng giai đoạn tố tụng. Điều này dẫn đến những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng. Vì những lẽ đó, việc sửa đổi BLTTDS trong thời gian tới cần thiết phải cụ thể hóa căn cứ, hình thức, thủ tục tố tụng, thẩm quyền và hậu quả pháp lý của từng loại đình chỉ cũng như đình chỉ ở từng giai đoạn tố tụng cho phù hợp với tính chất của mỗi loại.

Chú thích:
[1] Điều 46, 52 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Điều 39, 50 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; Điều 41, 53 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.
[2] Tống Công Cường, Luật tố tụng dân sự Việt nam: Nghiên cứu so sánh, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, năm 2007, tr. 290.
[3] Xem Mục I.7 và Mục II.10 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/5/2006 hướng dẫn về thủ tục giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm.
[4] khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 192 BLTTDS, Mục I.1.1 Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 31/3/2005 hướng dẫn phần Những quy định chung của BLTTDS.
5 Điều 260, 265 BLTTDS
6 Trong trường hợp mà các đương sự này rút toàn bộ yêu cầu và các đương sự khác vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ thì tùy từng trường hợp Tòa án sẽ đồng thời tuyên bố thay đổi địa vị tố tụng. Chẳng hạn nguyên đơn trở thành bị đơn, bị đơn trở thành nguyên đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trở thành nguyên đơn, người bị yêu cầu trở thành bị đơn. Xem Điều 219 BLTTDS; Tống Công Cường, sđd, tr. 157.
Nguồn: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4 (41) NĂM 2007

HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN VÀ MẤY VẤN ĐỀ CỦA PHÁP LUẬT CÔNG TY VIÊT NAM

Bài viết này phân tích những vấn đề cơ bản của học thuyết về đại diện (agency theory) ở các nước phương Tây trong việc lý giải mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty, và sử dụng những luận điểm của học thuyết này để bình luận về một số vấn đề trong thực tiễn quản trị doanh nghiệp và pháp luật công ty Việt Nam nhằm mục đích đưa ra một số kiến nghị cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật hiện hành.
1. Mối quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý công ty và lý thuyết về đại diện (agency theory)
Công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập (a separate legal entity), tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua con người cụ thể – những người quản lý công ty.[1] Cũng vì thế, công ty luôn cần có người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Từ giữa thế kỷ 19, các án lệ của các nước theo truyền thống thông luật (common law) đã khẳng định rằng, công ty chỉ có thể hành động thông qua các giám đốc (directors) – tức những người quản lý công ty, và hành động của cá nhân cổ đông sẽ không ảnh hưởng gì, không ràng buộc trách nhiệm của pháp nhân công ty – với tư cách là một thực thể pháp lý độc lập.[2] Bởi lẽ đó, luật công ty của các nước theo truyền thống common law, cả luật thành văn (statutory law) và luật án lệ (case law) – đã phát triển nhiều nguyên tắc pháp lý về người quản lý công ty, đặc biệt là xác định ai là người quản lý công ty và các nghĩa vụ pháp lý của họ (directors’ duties).[3]
Trong tác phẩm Của cải của các Dân tộc (The Wealth of Nations), nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith đã cho rằng với đặc tính của công việc quản lý, các cổ đông không nên kỳ vọng và tin tưởng rằng người quản lý công ty sẽ hành động như họ muốn, bởi lẽ người quản lý công ty luôn có xu hướng thiếu siêng năng, mẫn cán và lợi dụng vị trí của mình để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ hơn là cho các cổ đông và công ty.[4] Trong nghiên cứu của mình, Adam Smith đã dự đoán xu hướng phát triển của các công ty hiện đại với sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, kiểm soát công ty (separation of ownership and control).[5] Trong nghiên cứu nổi tiếng được công bố năm 1932, Berle và Means khẳng định rằng với sự phát triển của phương tiện truyền thông hiện đại, việc tổ chức tốt của các thị trường chứng khoán và sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các nhà đầu tư, vấn đề sở hữu vốn trong các công ty ngày càng bị phân tán và cổ phần sẽ được sở hữu bởi nhiều chủ thể đa dạng hơn.[6] Hai ông cũng cho rằng, mô hình công ty hiện đại ngày nay là đại diện của một hình thức mới về tài sản, mà tài sản đó lại được kiểm soát, quản lý bởi những người quản lý công ty (những người làm thuê) hơn là các cổ đông (những chủ sở hữu thực sự của tài sản). Từ đó, các học giả này cũng kết luận rằng, có sự phân tách giữa sở hữu và quản lý, kiểm soát trong các công ty hiện đại.

Sự phát triển của các công ty hiện đại và sự phân tách giữa sở hữu và quản lý ở các nước tư bản phương Tây đã là tiền đề vật chất cho việc xuất hiện các lý thuyết về mối quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý công ty. Trong nửa cuối của thế kỷ 20, nhiều học thuyết về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty đã xuất hiện chẳng hạn như học thuyết về đại diện (agency theory) và học thuyết về người quản gia (stewardship theory), song, đáng chú ý nhất là học thuyết về đại diện. Các lý thuyết về đại diện xuất hiện trong nhiều nghiên cứu của các giáo sư luật, kinh tế, quản trị ở phương Tây, đặc biệt là ở các nước theo mô hình luật công ty Anglo-American. Theo học thuyết về đại diện, quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý công ty được hiểu như là quan hệ đại diện – hay quan hệ ủy thác. Mối quan hệ này được coi như là quan hệ hợp đồng mà theo đó các cổ đông (những người chủ – principals), bổ nhiệm, chỉ định người khác, người quản lý công ty (người thụ ủy – agents), để thực hiện việc quản lý công ty cho họ mà trong đó bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty.[7] Theo luật về công ty ở khắp nơi trên thế giới, các cổ đông (đại hội đồng cổ đông) sẽ có quyền chọn lựa để bầu, bổ nhiệm các vị trí quản lý quan trọng của công ty. Những người được bầu, bổ nhiệm như hội đồng quản trị hay tổng giám đốc(giám đốc điều hành), sẽ được trao thẩm quyền ra các quyết định nhất định (theo qui định trong điều lệ công ty) để hành động cho và vì công ty, cũng như định đoạt tài sản của công ty.
Lý thuyết về đại diện cho rằng, nếu cả hai bên trong mối quan hệ này (cổ đông và người quản lý công ty) đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình, thì có cơ sở để tin rằng người quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ, tức các cổ đông và công ty.[8] Với vị trí của mình, người quản lý công ty được cho là luôn có xu hướng tư lợi và không đủ siêng năng, mẫn cán, và có thể tìm kiếm các lợi ích cá nhân cho mình hay người thứ ba của mình chứ không phải cho công ty. Các đặc tính tự nhiên của quan hệ đại diện dẫn đến giả thiết rằng, các cổ đông cần thường xuyên giám sát hoạt động của người quản lý công ty nhằm đảm bảo lợi ích của mình. Học thuyết về đại diện nhấn mạnh rằng, các cổ đông cần phải sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, bằng cách (i) thiết lập những cơ chế đãi ngộ (compensation mechanisms) thích hợp cho các nhà quản trị, và (ii) thiết lập cơ chế giám sát (supervisory mechanisms) hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của người quản lý công ty.
2. Vấn đề đại diện và phân tách giữa sở hữu và quản lý trong các công ty ở Việt Nam
Có thể nói rằng, quan hệ đại diện – quan hệ giữa cổ đông (công ty) và người quản lý công ty – vẫn chưa thể hiện rõ ràng và được hiểu đúng trong thực tế nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam, nơi mà nhiều yếu tố, tàn dư của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa phi thị trường vẫn tồn tại bên cạnh các nhân tố mới của một nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Mặc dù những cấu trúc công ty mà Việt Nam đang có đã xuất hiện từ rất lâu ở các nền kinh tế tư bản phương Tây, song, những lý thuyết về đại diện của phương Tây, những luận điểm của Adam Smith hay Berle và Means được nhiều học giả về kinh tế-luật phương Tây tôn thờ cũng chưa chắc được tín nhiệm ở Việt Nam. Có nhiều lý do để giải thích cho thực tế này. Thứ nhất, sau mấy thập kỷ “ngủ vùi” trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung với những lý thuyết kinh tế học Mác-Lênin và khoa học pháp lý giáo điều, quyền tự do kinh doanh và sở hữu tư nhân mới chỉ được thừa nhận trong Hiến pháp 1992 và các công ty tư nhân chỉ mới chính thức được thành lập ở Việt Nam từ năm 1991 theo Luật Công ty 1990.[9] Thứ hai, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Việt Nam vẫn còn quá non trẻ, như những cậu bé đang tuổi ăn tuổi học, chưa đủ độ trưởng thành… Qui mô của nhiều công ty quá nhỏ bé với số vốn chủ sở hữu khiêm tốn và số lượng thành viên ít ỏi. Bởi vậy, trong nền kinh tế chuyển đổi hiện nay, tuyệt đại đa số các công ty tư nhân là các công ty gia đình (family-run companies) với các thành viên, cổ đông chủ yếu là những người thân thích với nhau.
Ở các nước phương Tây, người ta bỏ vốn lập công ty và thường thuê những người có trình độ, kinh nghiệm về quản trị kinh doanh để quản lý công ty, thì ở đất nước này, chúng ta thường thấy các ông chủ cũng đồng thời là người quản lý cao cấp, nắm giữ các chức vụ quan trọng nhất trong công ty như Tổng giám đốc (TGĐ), Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT), kể cả khi họ không có trình độ và chưa có kinh nghiệm quản lý điều hành doanh nghiệp. Lý do đơn giản có lẽ là vì họ giàu, có tiền, và cứ có tiền thì có thể trở thành ông chủ và làm “sếp”. Hãy thử hỏi một trăm người giàu Việt Nam rằng, nếu họ bỏ vốn thành lập công ty thì họ có muốn trực tiếp tham gia quản lý công ty hay sẽ thuê người khác, ta sẽ nhận được một đáp số chắc chắn rằng, đại đa số họ muốn trực tiếp nắm quyền quản lý công ty, đơn giản vì họ thiếu niềm tin vào người khác, họ dường như không muốn giao tài sản của mình cho người khác quản lý, định đoạt, tâm lý “đồng tiền đi liền khúc ruột” vẫn còn rất nặng nề. Qui mô kinh doanh và văn hóa quản trị kinh doanh của người Việt giờ đây vẫn khác rất nhiều so với những gì mà Adam Smith hay Berle và Means đã thấy ở các nước phương Tây.
Khi thiết lập bộ máy quản trị, các cổ đông Việt Nam có xu hướng rõ ràng là tìm người thân quen, các vị trí quản trị đôi khi được sắp xếp không phải theo năng lực thực sự mà theo cơ cấu vốn góp của các thành viên và quan hệ cá nhân (personal relationship). Quan hệ cá nhân có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn kinh doanh của người Đông Á nói chung và người Việt nói riêng. Thói quen quản trị công ty theo lối thuận tiện, kiểu gia đình đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam và khá phổ biến hiện nay, vì thế, những lý thuyết về sự phân tách giữa sở hữu và quản lý công ty và đại diện của phương Tây có vẻ chưa thể hiện rõ ràng và thích hợp trong điều kiện hiện nay của đại đa số các công ty Việt Nam. Cho đến tận gần đây, các vấn đề về quản trị công ty (corporate governance) mới có phần nào được để ý đến, nhưng các vấn đề về đại diện vẫn có vẻ còn xa lạ với nhiều doanh nhân người Việt.[10] Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đặc biệt là sự bùng nổ của thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây với sự sôi động của việc lên sàn, tăng vốn điều lệ, phát hành thêm cổ phần, và sự góp mặt ngày càng đông của các nhà đầu tư nước ngoài – từ các định chế tài chính, các quỹ đầu tư đến các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ… đã làm cho vấn đề quản trị các công ty niêm yết của Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng và xuất hiện rõ ràng sự phân tách giữa sở hữu cổ phần và quản trị công ty. Bởi thế, các lý thuyết về phân tách giữa sở hữu và quản lý, về đại diện và quản trị công ty đang và sẽ được quan tâm đến bởi giới kinh doanh và nghiên cứu Việt Nam.
3. Quan hệ đại diện và mấy vấn đề của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam
1. Trong mối quan hệ giữa cổ đông (công ty) và người quản lý công ty, thì người quản lý công ty – người được các cổ đông lựa chọn trực tiếp hay gián tiếp dựa trên niềm tin rằng họ sẽ hành động cho và vì công ty – được coi là người thụ ủy và phải có nghĩa vụ của người thụ ủy (fiduciary).[11] Nghĩa vụ của người quản lý công ty đối với công ty (các cổ đông) được coi là một trong những hạt nhân cơ bản trong luật công ty của các nước theo mô hình luật công ty Anh – Mỹ.[12] Người người quản lý công ty phải hành động dựa trên sự trung thực, lòng trung thành đối với công ty và cổ đông; dứt khoát không được tìm kiếm lợi ích cá nhân (tư lợi) từ vị trí được ủy thác; không thể tự đặt mình vào vị trí mà có thể dẫn tới sự mâu thuẫn, xung đột giữa lợi ích cá nhân của mình với của công ty.[13]
Ở những nước theo truyền thống luật án lệ, những nguyên tắc nói trên đã được thể hiện trong cả luật công ty thành văn (company legislation) và án lệ (case law). Lẽ dĩ nhiên, các đạo luật thành văn thường không thể truyền tải hết các ý niệm về nghĩa vụ, bổn phận của người quản lý công ty trong các điều luật. Ngay cả ở các nước common law, các qui định về nghĩa vụ của người quản lý công ty (directors’ duties) trong luật thành văn thường vẫn chung chung, thiếu cụ thể, và vì thế, án lệ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải thích luật thành văn và áp đặt các nghĩa vụ đối với người quản lý công ty. Các nghĩa vụ của người quản lý công ty trong Luật Doanh nghiệp (LDN) 2005 về trung thực, trung thành, cẩn trọng… được qui định rất chung chung, mơ hồ và rất khó có thể được hiểu để áp dụng đúng đắn trong thực tiễn.[14] Song, cho dù có cố gắng nữa, thì LDN cũng sẽ chẳng thể nào giải thích được một cách chi tiết và thỏa đáng trong các điều luật với những câu chữ có tính mơ hồ và định tính đầy đủ ý niệm của các nghĩa vụ này. Ở nhiều nước theo truyền thống luật dân sự (civil law), kể cả Đức và Pháp – những cái nôi của truyền thống luật thành văn, vai trò của Tòa án tuy không như ở các nước theo truyền thống luật án lệ nhưng cũng rất quan trọng trong việc giải thích và áp dụng luật. Những ai đã từng học luật dưới chế độ Sài Gòn hay thời Pháp thuộc hẳn vẫn còn nhớ đến nhiều án lệ mà các giảng viên luật đưa vào nhà trường để giải thích cho những điều mà luật thành văn không thể chuyển tải hết ý niệm. Các luật sư phương Tây sẽ chẳng thể nào hiểu nổi một thẩm phán tòa án cấp huyện vẫn có quyền hiểu và giải thích một điều luật thông qua bản án của mình với quan điểm khác hẳn với cách hiểu và phán quyết trong một bản án trước đó của Tòa án tối cao. Như thế, chúng ta lại thấy sự phiền toái và khó khăn trong thực tiễn giải thích và áp dụng pháp luật khi mà án lệ vẫn chưa có chỗ đứng thực sự trong nền luật pháp nước nhà.
2. Như đã nói ở trên, với bản chất của quan hệ đại diện, người quản lý công ty luôn có xu hướng tìm kiếm lợi ích cá nhân cho họ hơn là luôn hành động vì lợi ích chung của công ty và các cổ đông. Bởi vậy, cùng với một chế độ tiền lương và thù lao thích hợp, cơ chế thông tin và giám sát hiệu quả hoạt động của người quản lý công ty là một yếu tố rất quan trọng để hạn chế bớt khả năng tư lợi của người quản lý công ty và để họ biết giữ thái độ trung thành và hành động vì lợi ích của công ty. Cũng vì thế, luật công ty của các quốc gia đều đề cao cơ chế giám sát trong các công ty có nhiều cổ đông, đặc biệt là các công ty niêm yết. Mặc dù mô hình quản trị công ty theo cấu trúc hội đồng đơn (one – tier board) kiểu Anglo-American không có Ban kiểm soát như các công ty cổ phần ở Việt Nam hay Trung Quốc, nhưng các qui chế quản trị công ty (code of practice hay code of corporate governance) ở các nước này thường yêu cầu đa số thành viên của Hội đồng giám đốc (board of directors) phải là các thành viên độc lập, không điều hành (non-executive hay independent directors) để những người này có thể đưa ra các ý kiến quản trị độc lập và giám sát hoạt động của các giám đốc điều hành (executive directors).[15] Bộ qui tắc về Quản trị công ty của OECD (OECD Principles of Corporate Governance) cũng có các khuyến cáo tương tự.[16] Chúng ta cũng có thể tìm thấy các qui định về giám sát trong các công ty tại các đạo luật về công ty trong lịch sử luật công ty ở Việt Nam như Dân luật thi hành tại các Tòa Nam án Bắc kỳ 1931, Bộ luật Thương mại Trung kỳ 1942, Bộ luật Thương mại Sài Gòn 1972, Luật Công ty 1990, Luật DN 1999 và 2005.[17]
Song, cơ chế giám sát trong thực tế tại các công ty Việt Nam quả thực chưa đúng như kỳ vọng và yêu cầu. Hãy thử hỏi những người làm việc trong bộ máy quản trị ở các công ty có Ban kiểm soát, chúng ta sẽ thấy rằng sự tồn tại của Ban kiểm soát dường như bị xem nhẹ trong rất nhiều công ty, nhất là các công ty cổ phần hình thành từ việc cổ phần hóa các công ty nhà nước.[18] Về phương diện lập pháp, LDN 2005 yêu cầu các công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức chiếm trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải thành lập Ban kiểm soát; tương tự, các công ty TNHH có từ 11 thành viên trở lên cũng phải có Ban kiểm soát.[19] Song, các công ty khác có thể thành lập Ban kiểm soát nếu như họ muốn. Tuy nhiên, các qui định về kiểm soát, giám sát trong các loại hình công ty theo pháp luật hiện hành còn có những khiếm khuyết:
Thứ nhất, LDN 2005 đã không qui định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc của Ban kiểm soát trong các công ty TNHH có nhiều thành viên mà để lại cho Điều lệ công ty qui định.[20] Các nhà làm luật có vẻ hiểu và phát triển hơi thái quá nguyên tắc tự do kinh doanh, và lạm dụng cơ chế tự hành của luật công ty khi để cho công ty TNHH tự quyết định các vấn đề về Ban kiểm soát. Bằng cách này, các nhà làm luật Việt Nam đã trao cho các cổ đông lớn quyền tự quyết định các vấn đề của Ban kiểm soát theo ý muốn của họ. Khi mà các thành viên có tỷ lệ góp vốn lớn trong công ty TNHH luôn có xu hướng làm giám đốc điều hành, kiểm soát công ty, thì họ rất có thể sẽ chi phối, xây dựng một bản điều lệ công ty có lợi cho họ, làm giảm vai trò của Ban kiểm soát, vô hiệu hóa các cơ chế giám sát bằng các qui định hợp pháp và từ đó họ có thể thu lợi bất chính và “làm hại” các cổ đông nhỏ. Khi mà LDN 2005 đã thể hiện việc bảo vệ các cổ đông nhỏ bằng nhiều cách thức khác nhau chẳng hạn như điều kiện họp và biểu quyết tại Hội đồng thành viên và Đại hội đồng cổ đông, cơ chế bầu dồn phiếu trong công ty cổ phần… thì việc bỏ qua các qui định về Ban kiểm soát trong các công ty TNHH có vẻ là thiếu sót và khập khiễng. Không nên để cho cổ đông lớn tự quyết định trong điều lệ công ty các vấn đề về bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ, bởi lẽ với ưu thế về số vốn biểu quyết và thường kiểm soát bộ máy quản lý – điều hành, các cổ đông lớn luôn có xu hướng tối đa hóa lợi ích của mình. Để bảo vệ các cổ đông nhỏ, cần phải áp dụng phương pháp làm luật mang tính cưỡng chế (mandatory approach) thay vì cơ chế tự hành để cho các cổ đông tự quyết định.[21]
Thứ hai, LDN 2005 đã thiếu hợp lý khi qui định về các trường hợp bắt buộc thành lập Ban kiểm soát trong các công ty cổ phần khi qui định rằng: công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50 % tổng số cổ phần thì phải có Ban kiểm soát.[22] Giả sử, nếu một công ty cổ phần có 10 cổ đông là cá nhân và 50 cổ đông là tổ chức mà mỗi tổ chức chỉ nắm giữ 1% vốn điều lệ của công ty thì có bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát hay không? Căn cứ theo LDN 2005 thì câu trả lời là không. Như vậy, có phải chăng các nhà làm luật chỉ tập trung bảo vệ cổ đông là cá nhân mà quên mất việc bảo vệ các cổ đông nhỏ khác? Cổ đông là cá nhân chưa chắc đã là cổ đông nhỏ, và cổ đông là tổ chức chưa chắc đã là cổ đông lớn. Theo lẽ thường, luật công ty phải bảo vệ cổ đông thiểu số (minority shareholders) chứ không phải là chỉ dừng lại ở các cổ đông thiểu số là cá nhân. Đành rằng, các cổ đông tổ chức có nhiều lợi thế, nhưng không có nghĩa rằng họ luôn mạnh và đủ sức để tự bảo vệ mình. Cơ chế giám sát trong những công ty cổ phần có nhiều cổ đông nhỏ là tổ chức vẫn thực sự cần thiết. Cho nên điều luật đó cần được sửa lại bằng cách bỏ đi ba chữ “là cá nhân” trong câu trích dẫn trên.
Thứ ba, theo pháp luật hiện hành, các công ty nhà nước loại vừa và nhỏ hay đơn vị thành viên của Tổng công ty nhà nước thì không có Hội đồng quản trị và cũng không có Ban kiểm soát hay kiểm soát viên trong cấu trúc quản trị nội bộ.[23] Vậy ai, cơ quan nào có chức năng, nhiệm vụ giám sát trực tiếp công việc quản lý điều hành công ty của giám đốc và bộ máy điều hành trong các doanh nghiệp này? Theo pháp luật hiện hành thì chẳng có ai cả. Đó cũng là một trong các lý do để người quản lý, điều hành của nhiều công ty nhà nước đã và đang lạm dụng vị trí của mình để thiết lập, tham gia các giao dịch kiểu “công ty người nhà”, thực hiện các giao dịch bất chính, tư lợi mà các qui định hiện hành của pháp luật về công ty nhà nước cũng “bó tay”.
Thứ tư, ngay cả trong các Tổng công ty và công ty nhà nước có HĐQT thì cũng chẳng có cơ quan nào chịu trách nhiệm trực tiếp giám sát công việc của HĐQT trong việc quản lý công ty. Ban kiểm soát lại do HĐQT thành lập và thực hiện nhiệm vụ do HĐQT giao, thì dĩ nhiên, nó không có chức năng giám sát cơ quan đã sinh ra mình.[24] Ban kiểm soát chỉ giám sát TGĐ và bộ máy giúp việc chứ không có chức năng giám sát HĐQT. Đi xa hơn nữa, thật khó tin khi mà theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam thì chẳng có cơ quan nào chịu trách nhiệm cụ thể trong việc giám sát người đại diện chủ sở hữu nhà nước trong các công ty nhà nước và các thành viên HĐQT… Điều đó cũng là một trong các lý do để giải thích cho sự yếu kém trong công tác quản lý các công ty nhà nước và việc kinh doanh kém hiệu quả, quản trị tồi và thua lỗ của rất nhiều công ty nhà nước hiện nay. Điều đó cho thấy rằng, bản chất của quan hệ đại diện và sự phân tách giữa sở hữu và quản lý trong công ty dường như chưa được biết đến hay đã bị làm ngơ bởi các nhà hoạch định chính sách và các nhà làm luật đối với các công ty nhà nước.
3. Về nguyên tắc, các cổ đông có quyền lựa chọn người quản lý công ty và ủy thác cho họ những quyền hạn nhất định, nhưng Luật DN 2005 đã đi quá xa trong việc qui định tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành TGĐ, (Giám đốc) công ty. Điều 57, 116 LDN 2005 qui định rằng, một trong các tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành Giám đốc, TGĐ của công ty TNHH có nhiều thành viên và CTCP là: “phải là cá nhân sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ của công ty hoặc người không phải là thành viên có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác qui định tại Điều lệ công ty”. Như thế, các nhà làm luật Việt Nam có vẻ vẫn còn mang tâm lý “tiểu nông”, có vẻ không thích sự phân tách sở hữu và quản lý công ty như ở các nước phương Tây – nơi mà họ đã vay mượn luật công ty để xây dựng LDN – khi qui định điều kiện về vốn góp để trở thành Giám đốc, mặc dù còn có vế thứ hai. Thật khó có thể tìm thấy trong luật công ty của các nước khác các qui định tương tự như thế này. Về nguyên tắc, cổ đông phải được quyền chọn lựa người quản lý công ty, họ có quyền chọn chứ không phải là nhà làm luật chọn cho họ – đó là một biểu hiện của quyền tự do kinh doanh, vì thế, đối với các công ty của tư nhân, nguyên tắc luật tự hành nên được áp dụng thì chúng ta lại không. Hơn nữa, theo LDN thì một cổ đông dù tài giỏi mà chiếm ít hơn 10% vốn cổ phần có thể sẽ không đủ điều kiện làm TGĐ hay Giám đốc công ty. Các nhà làm luật đã thiếu khôn ngoan khi qui định rằng “… hoặc người không phải là thành viên có trình độ…”, thay vì qui định là “… hoặc người khác…”, hoặc hay hơn là bỏ hẳn điều luật này. Song, đối với các công ty nhà nước, nơi mà “người chủ thực sự” của nó dường như không tồn tại, nhưng lại đầy rẫy những cơ hội cho nhiều người – từ các quan chức có liên quan cho đến những người quản lý công ty – lợi dụng để tư lợi, thì cần phải qui định rõ ràng điều kiện, tiêu chuẩn của người quản lý, kiểm soát công ty.[25]
Một vài kết luận
Những lý thuyết hiện đại về đại diện và sự phân tách giữa sở hữu và quản lý, kiểm soát công ty ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây có vẻ như chưa thể hiện rõ và được hiểu đúng trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi của Việt Nam hiện nay. Thực tiễn quản trị và các qui định của pháp luật hiện hành cho thấy, chúng ta vẫn chưa giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cổ đông (công ty) và người quản lý doanh nghiệp để có thể đảm bảo lợi ích cho các chủ sở hữu công ty và quản trị công ty một cách hiệu quả. LDN 2005 cần được sửa đổi, bổ sung để khắc phục những qui định bất cập về nghĩa vụ của người quản lý công ty, về Ban kiểm soát và tiêu chuẩn của TGĐ, (Giám đốc) công ty TNHH có nhiều thành viên và CTCP. Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước cần bổ sung các qui định về giám sát trong tất cả các công ty nhà nước và giám sát đối với người đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, cũng như qui định rõ ràng về nghĩa vụ pháp lý của người quản lý công ty nhà nước.

Chú thích:
1] Xem án lệ Ferguson v Wilson (1866), LR 2 Ch App 77, tr. 89-90.
[2] Xem án lệ Ernest v Nicholls (1857), 6 HL Cas 401, tr. 419.
[3] Về vấn đề ai là người quản lý công ty theo mô hình luật Anh–Mỹ : xem Bùi Xuân Hải, Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ Luật so sánh, Tạp chí Khoa học Pháp lý, 4/2005, tr. 14 -20, 29 .Về vấn đề nghĩa vụ của người quản lý công ty: có thể xem, Michael A. Adams, Essential Corporate Law (2005), tr. 40; Roman Tomasic, Stephen Bottomley and Rob McQueen, Corporations Law in Australia (2nd ed, 2002), tr. 317-320; John Farrar, Corporate Governance: Theories, Principles, and Practice (2nd ed, 2005), tr. 103-105; Paul L. Davies, Gower and Davies’ Principles of Modern Company Law (7th ed, 2003), tr. 380. Về luật thành văn, có thể xem Điều 180, 588G của Đạo luật công ty Úc 2001 (the Corporations Act 2001 (Cth)).
[4] Adam Smith, The Wealth of Nations, 1776, tr. 800.
[5] Christine A. Mallin, Corporate Governance (2004), tr. 11.
[6] Adolf A. Berle and Gardiner C. Means, The Modern Corporation and Private Property (1932), tác phẩm này được sửa và in lại năm 1968, xem tr. 112-116.
[7] Về vấn đề này, xem thêm Michael C. Jensen and William H. Meckling, ‘Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure’ in Thomas Clarke (ed), Theories of Corporate Governance: the Philosophical Foundations of Corporate Governance (2004) 58, tr. 59; M. M. Blair and L. A. Stout, ‘A Team Production Theory of Corporate Law’ (1999) 85 (2) Virginia Law Review 247; in lại trong Thomas W. Joo (ed),Corporate Governance: Law, Theory and Policy (2004), tr. 53.
[8] Xem Michael C. Jensen and William H. Meckling, sđd, tr. 59.
[9] Xem Điều 57, 58 Hiến Pháp 1992 và Luật Công ty 1990.
[10] Về vấn đề quản trị công ty ở Việt Nam, xem Bui Xuan Hai, ‘Vietnamese Company Law: The Development and Corporate Governance Issues’ (2006) 18(1) Bond Law Review 22, tr. 34-36; Nick J. Freeman, ‘Promoting Good Corporate Governance in Vietnam: A New Element in the Economic Reform Agenda’ in Ho Khai Leong (ed),Reforming Corporate Governance in Southeast Asia: Economics, Politics, and Regulations (2005) 333.
[11] Ở các nước theo truyền thống luật án lệ, giám đốc, người quản lý công ty (director) được coi là fiduciary – tạm gọi là người thụ ủy – một khái niệm mà chúng ta không thể tìm thấy được thuật ngữ tương đồng, phản ánh đầy đủ bản chất và ý nghĩa của từ này, trong luật thực định và khoa học pháp lý Việt Nam. Nói một cách ngắn gọn, fiduciary là người mà được mong muốn hành động vì lợi ích của một người khác, xem Pamela Hanrahan, Ian Ramsay and Geof Stapledon, Commercial Applications of Company Law (5th ed, 2004), tr. 244.
[12] Katharina Pistor and Chenggang Xu, Fiduciary Duty in Transitional Civil Law Jurisdictions: Lessons from the Incomplete Law Theory (Law Working Paper No. 01/2002, European Corporate Governance Institute (ECGI) Working Paper Series in Law, October 2002), tr. 3; Chee Keong Low, ‘A Road Map for Corporate Governance in East Asia’ (2004) 25 Northwestern Journal of International Law & Business 165, tr.169.
[13] Án lệ Bristol and West Building Society v Mother [1998] Ch 1, tr. 18.
[14] Về nghĩa vụ của người quản lý công ty theo luật công ty Việt Nam, xem Điều 56, 72, 119 của LDN 2005; Điều 27 Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003.
[15] Về cấu trúc quản trị trong các công ty cổ phần ở các nước trên thế giới, xem Bùi Xuân Hải Hai, So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với các mô hình điển hình trên thế giới, Tạp chí Khoa học Pháp lý, 6/2006, tr.14-20.
[16] Xem Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development),OECD Principles of Corporate Governance 2004.
[17] Xem thêm, Bui Xuan Hai, tlđd (10), tr. 25-26; các Điều từ 286 đến 290, 308 đến 314 của Bộ luật thương mại Sài Gòn 1972.
[18] Cũng cần lưu ý rằng, theo qui định tại Điều 166 của LDN 2005, các công ty nhà nước sẽ phải chuyển đổi theo các hình thức công ty qui định trong LDN 2005 trước ngày 01/07/2010.
[19] Điều 46, 95 LDN 2005.
[20] Điều 46 Luật DN 2005 qui định rằng: quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty qui định.
[21] Về vấn đề này, xem thêm Gainan Avilov và những người khác, ‘General Principles for Company Law for Transition Economies’ (1999) 24 Journal of Corporation Law, tr. 190-293.
[22] Xem Điều 95 Luật DN 2005.
[23] Xem Điều 21, 22 Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003.
[24] Điều 37 Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003.
[25] Xem thêm, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Báo cáo Nghiên cứu mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước: Được và chưa được, các giải pháp kiến nghị sửa đổi, Hà Nội, 2004, đoạn [20]–[24]; Nguyen Dinh Cung and Scott Robertson, Corporate Governance in Vietnam (Policy Brief # 36, William Davidson Institute, University of Michigan (2005), tr. 5-6.
Nguồn: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4 (41) NĂM 2007

ĐẶT TÊN CHO DOANH NGHIỆP: THAY ĐỔI PHẢI CHĂNG, CHỈ LÀM PHỨC TẠP THÊM?

1. Đặt tên riêng của doanh nghiệp có sử dụng tiếng nước ngoài:
Mới đây một Công ty Nhật Bản tiến hành đầu tư vào KCX Tân Thuận. Khi nộp hồ sơ xin cấp phép đầu tư thì Ban Quản lý các KCX – KCN (HEPZA) đề nghị chỉnh lại tên Doanh nghiệp với lý do NĐ 43 không quy định được sử dụng tiếng ngoài để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp đặt bằng tiếng Việt [1] .
Khi đến Việt Nam tiếp cận thị trường, Công ty Nhật Bản đã không quên nghiên cứu các quy định pháp lý liên quan đến đặt tên cho Công ty dự định sẽ được thành lập. Theo đó, tại thời điểm ra quyết định đầu tư, Nghị định 88/2006/NĐ-CP cho phép “Riêng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể sử dụng tên riêng bằng tiếng nước ngoài đã đăng ký để cấu thành một phần hoặc toàn bộ tên riêng của doanh nghiệp – điểm b, khoản 1, điều 10”. Trong thời gian chuẩn bị hồ sơ (vì phải hợp pháp hóa lãnh sự các hồ sơ cần thiết khá lâu) cho đến khi hoàn tất thì NĐ 43 ra đời.
Chúng ta đều biết rằng nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không chỉ riêng các thể nhân mà rất nhiều pháp nhân kinh tế (Công ty). Các Công ty này đã có bề dày kinh nghiệm và nổi tiếng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì lẻ đó, giữ nguyên tên của mình và chỉ thêm tên của Quốc gia nơi đầu tư để phân biệt với các Công ty thành lập ở các Quốc gia khác nhau là lựa chọn của các Công ty này (Ví dụ như Honda Việt Nam, Toyota Việt Nam, Intel Việt Nam …). Vấn đề là vậy, NĐ 88 cũng thể hiện rất rõ chính sách của Nhà nước Việt Nam cam kết bảo vệ nhu cầu chính đáng đó cho Nhà đâu tư nước ngoài nhưng không biết lý do gì NĐ 43 lại bỏ đi? Nếu không được sử dụng tên Công ty mà mình phải bỏ công tạo lập thì chắc chắn nhà đầu tư nước ngoài sẽ không vào Việt Nam.
Chẳng lẽ Việt Nam đã thu hút đủ vốn đầu tư nước ngoài và chúng ta cần thay đổi chính sách để hạn chế đầu tư? Chính sách của Nhà nước thay đổi làm ảnh hưởng đến các dự định của doanh nghiệp được xem là một rủi ro pháp lý. Song trường hợp quy định về đặt tên doanh nghiệp không phải chính sách thay đổi mà dường như các Cơ quan soạn thảo đã vô ý hay cố tình mắc lỗi bỏ đi quy định tại điểm b, điều 10 của NĐ 88 khi soạn thảo NĐ 43. Ngày 20/7/2010, Thông tư 14/2010/TT-BKH hướng dẫn NĐ 43 sẽ có hiệu lực và dĩ nhiên việc đặt tên cho Công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ trờ thành môt đề tài nóng bỏng cần phải bận tâm của các Luật sư. Để giải quyết lỗi này, Bộ kế hoạch đầu tư cần sớm có hướng dẫn rõ cho các Cơ quan đăng ký kinh doanh chấp nhận cách đặt tên riêng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo như hướng dẫn tại điểm b, điều 10, NĐ 88 đã hết hiệu lực.

2. Đặt tên vi phạm quyền sở hữu công nghiệp:
Trong năm 2006, Công ty TNHH Công Nghiệp Thực Phẩm Á Châu (“ASIAFOOD”) (nay đã chuyển đổi thành Công ty cổ phần) có trụ sở tại Bình Dương đã gửi Công văn cho Sở KHĐT Tp.HCM đề nghị thu hồi GCN ĐKKD cấp cho Chi nhánh tại Tp.HCM của Công ty TNHH Công nghệ thực phẩm Châu Á (“MICOEM”). Lý do ASIAFOOD đưa ra là thành phần tên tiếng Anh của MICOEM đã sử dụng cụm từ ASIAFOOD (dịch nghĩa của cụm từ tiếng Việt là Thực phẩm Châu Á) đã được Cục Sở hữu Trí tuệ bảo hộ theo Văn bằng số 4-0044837-000 ngày cấp 16/01/2003. Tuy vậy, yêu cầu của ASIAFOOD đã không được chấp thuận vì tại thời điểm đó NĐ 88 chưa quy định về nội dung này.
Đến NĐ 43 đã có quy định xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp (điều 17). Song dù có nhưng với những nội dung trong điều 17 thực tế sẽ chẳng bao giờ thực thi được vì:
(i)  Khoản 1, điều 17 quy định “Không được sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của tổ chức, cá nhân đã được bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp được sự chấp thuận của chủ sở hữu tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đó”. Với quy định này, Cơ quan soạn thảo đã đồng nhất hai khái niệm một là sử dụng và hai là sử dụng vi phạm. Theo đó một nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý hay tên thương mại khi được bảo hộ sẽ không mặc nhiên phát sinh quyền (không cho phép xâm phạm) đối với tất cả các chủ thể.
Cụ thể, ngoài các dấu hiệu, chỉ dẫn, tên thương mại được bảo hộ thì cần phải xem đến danh mục hàng hoá, dịch vụ được xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu; sản phẩm mang dấu hiệu bị nghi ngờ với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý; hay sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại (Điều 11, 12, 13, Nghị định 105/2006). Điều này có nghĩa rằng không được sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của tổ chức, cá nhân đã được bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp khi ngành nghề kinh doanh (danh mục hàng hóa, dịch vụ) của doanh nghiệp dự định thành lập bị trùng với ngành nghề kinh doanh đã được bảo hộ đi kèm với tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Cần phải nắm rõ quy định này nếu không sẽ có rất nhiều hồ sơ thành lập Công ty bị trả một cách oan uổng.
(ii)  Trường hợp phát hiện ra Cơ quan đăng ký kinh doanh đã cấp phép thành lập cho Doanh nghiệp có tên xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Chủ sở hữu báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh để cơ quan này yêu cầu doanh nghiệp vi phạm tự nguyện làm hồ sơ chuyển đổi tên trong thời hạn hai tháng. Nếu doanh nghiệp không thay đổi tên theo yêu cầu, Cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Quy định trên những tưởng rất chặt chẽ nhưng nghiên cứu kỹ mới thấy không bao giờ chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đạt được mục đích của mình là yêu cầu Công ty có tên vi phạm phải đổi tên nếu dựa vào các quy định hiện hành.
Luật sở hữu trí tuệ 2005 (được sửa đổi năm 2009), Nghị định 105/2006/NĐ-CP về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Nghị định 106/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến sở hữu công nghiệp, Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP về giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án đều không có quy định hình thức buộc chủ thể vi phạm phải tiến hành đổi tên doanh nghiệp. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp quy định đổi tên là quyền của doanh nghiệp, Cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ có quyền thu hồi GCN ĐKKD chứ không có quyền đổi tên doanh nghiệp. Các căn cứ thu hồi GCN ĐKKD lại không có trường hợp vi phạm liên quan đến Sở hữu trí tuệ.
Như vậy, cho dù phán quyết của Tòa có đưa ra là buộc doanh nghiệp chấm dứt hành vi xâm phạm (không được tiếp tục sử dụng tên vi phạm) mà doanh nghiệp không thực hiện thì Cơ quan Thi hành án cũng chịu thua vì không thể căn cứ vào quyết định của Tòa để yêu cầu Cơ quan đăng ký kinh doanh đổi tên doanh nghiệp vi phạm.
Luật doanh nghiệp và Sở hữu trí tuệ hiện nay đã được ban hành từ năm 2005. Với gần ấy thời gian áp dụng trong thực tế, tưởng rằng các cơ quan chuyên môn khi tiến hành sửa đổi phải đút kết được nhiều điều bổ ích để góp phần tạo thuận lợi hơn cho nhà đầu tư, nào ngờ!
_________________________________________
[1] Nhà đầu tư là Công ty Nisshou Astec Co., Ltd và tên đặt tại Việt Nam bị từ chối là VINA ASTEC.
Nguồn: SAGA.VN