Thứ Hai, 24 tháng 1, 2011

QUY ĐỊNH VỀ “ĐÌNH CHỈ” TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Đình chỉ là một phương thức xử lý đặc biệt của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Trước đây, trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế hay Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động chỉ quy định một loại đình chỉ duy nhất là đình chỉ giải quyết vụ án dưới hình thức “Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án”.[1]
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định nhiều loại đình chỉ khác nhau tương ứng với từng giai đoạn tố tụng và từng loại căn cứ khác nhau, theo đó Tòa án sẽ ra nhiều loại quyết định đình chỉ khác nhau: đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm, đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, quy định trong BLTTDS về tính chất, căn cứ, hình thức quyết định của các loại đình chỉ nêu trên cũng chưa thật sự rõ ràng, cụ thể, dẫn đến có nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự. Bài viết này phân tích về các loại đình chỉ trong tố tụng dân sự theo quy định của BLTTDS hiện hành.
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại thủ tục sơ thẩm
Tính chất của loại đình chỉ giải quyết vụ án dân sự này là chấm dứt hoạt động tố tụng. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm là một phương thức giải quyết vụ án dân sự. Bởi vì, một vụ án dân sự sẽ được giải quyết qua một trong ba phương thức là hòa giải thành công, đình chỉ giải quyết vụ án và mở phiên tòa xét xử.[2] Các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án được quy định cụ thể tại Điều 192 BLTTDS bao gồm: (i) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; (ii) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; (iii) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; (iv) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án; (v) Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án; (vi) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; (vii) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; (viii) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 192 BLTTDS còn viện dẫn các căn cứ đình chỉ được quy định tại Điều 168 BLTTDS về những trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Cụ thể, trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án mà phát hiện những căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó mà Tòa án đã thụ lý rồi mới phát hiện những căn cứ đó thì phải đình chỉ giải quyết vụ án. Những căn cứ được quy định tại Điều 168 bao gồm: (i) Thời hiệu khởi kiện đã hết; (ii) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; (iii) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện; (iv) Hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp hoặc không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng; (v) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện; (vi) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Cụ thể hóa những căn cứ nêu trên trong BLTTDS, Tòa án nhân dân tối cao đã có nghị quyết hướng dẫn cụ thể về nội dung của từng căn cứ.[3] Tuy nhiên, cần lưu ý đối với căn cứ “vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” thì không phải trong mọi trường hợp sau khi thụ lý vụ án nếu phát hiện không thuộc thẩm quyền thì Tòa án cấp sơ thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án, mà tùy từng trường hợp không thuộc thẩm quyền, Tòa án có thể chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết, vẫn tiến tục giải quyết vụ án nhưng phải ghi ký hiệu loại án cho phù hợp hoặc đình chỉ giải quyết vụ án.[4] Còn đối với căn cứ “hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp hoặc không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng” thì về mặt từ ngữ, không thể áp dụng là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án, bởi vì lúc này Tòa án chưa thụ lý vụ án. Mà căn cứ này cần phải được hiểu là, nếu đương sự không nộp tiền tạm ứng án phí mà không thuộc trường hợp không phải nộp hoặc được miễn án phí nhưng Tòa án đã thụ lý giải quyết thì sau đó phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Về thời điểm áp dụng, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng từ sau khi Tòa án thụ lý sơ thẩm giải quyết vụ án đến trước khi ra bản án, quyết định sơ thẩm. Nói cách khác, Tòa án cấp sơ thẩm có thể đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, nhận định này rút ra từ suy luận trong các Điều luật tương ứng bởi lẽ BLTTDS không có một quy định cụ thể nào về thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án. Đó là Điều 192 BLTTDS trong phần “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm” quy định về đình chỉ giải quyết vụ án là “sau khi thụ lý vụ án…”, và Điều 210 BLTTDS trong phần “Phiên tòa sơ thẩm” quy định “đình chỉ giải quyết vụ án… được thông qua tại phòng nghị án”.
Hình thức của việc đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục sơ thẩm là Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nội dung, mẫu quyết định này đã được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đó. Điều luật này không quy định rõ thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn nào của quá trình tố tụng, nhưng thực tế thẩm quyền này chỉ được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Bởi vì theo quy định tại khoản 2 Điều 210 BLTTDS thì các quyết định tại phiên tòa sơ thẩm, trong đó có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án. Như vậy thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm thuộc về Hội đồng xét xử.
Về hậu quả pháp lý, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực pháp luật và làm chấm dứt tố tụng. Hơn nữa, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không chỉ chấm dứt về mặt tố tụng mà đồng thời nội dung vụ án cũng được giải quyết nhưng bằng phương thức Tòa án từ chối phân xử tranh chấp. Khác với các vụ án phải qua xét xử thì Tòa án áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp, tuyên bố sự đúng sai, trách nhiệm của các đương sự trong vụ án… nhưng khi đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án tuyên bố tranh chấp giữa các bên đương sự không được Tòa án giải quyết, không áp dụng pháp luật nội dung để phân xử tranh chấp giữa các bên. Nói cách khác, đối tượng xét xử của Tòa án trong vụ án dân sự là yêu cầu của các đương sự đã không được Tòa án giải quyết khi đình chỉ giải quyết vụ án. Chẳng hạn, khi vụ án bị đình chỉ vì lý do đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án sẽ không xem xét đến yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ hay không, nội dung tranh chấp đó như thế nào… mà chỉ quyết định chấm dứt giải quyết vụ án. Hệ quả là vụ án bị đình chỉ sẽ làm chấm dứt tố tụng, mặc dù các quyền lợi về mặt nội dung của các đương sự chưa được giải quyết nhưng các đương sự cũng không thể khởi kiện lại để yêu cầu Tòa án giải quyết một lần nữa. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 193 BLTTDS cũng quy định một số ngoại lệ theo đó các đương sự vẫn có thể khởi kiện lại một vụ án mới mặc dù trước đó đã bị đình chỉ giải quyết vụ án: (i) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện; (ii) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; (iii) Nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; (iv) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mà vụ án đang giải quyết liên quan đến nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Đánh giá một cách khách quan, quy định của BLTTDS về các trường hợp đương sự có quyền khởi kiện lại như trên là chưa hợp lý. Cụ thể, đối với trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện thì đáng lẽ trong mọi trường hợp họ không thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự, bất kể thời điểm nào. Nếu tại thời điểm khởi kiện đó họ không có quyền khởi kiện và bị đình chỉ nhưng sau đó họ lại có quyền khởi kiện vì đã hội đủ những điều kiện nhất định thì đây là trường hợp người khởi kiện “chưa có đủ điều kiện khởi kiện” đã được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 BLTTDS. Tuy nhiên, rất tiếc, BLTTDS đã không quy định trường hợp này được quyền khởi kiện lại. Tương tự như vậy, đối với trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì BLTTDS trao quyền cho họ được khởi kiện lại, nhưng đối với trường hợp cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án thì không được BLTTDS quy định quyền khởi kiện lại của nguyên đơn. Vì vậy, BLTTDS cần phải quy định bổ sung những trường hợp này.
2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm
Khác với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm phải giải quyết hai vấn đề là đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tức là nội dung vụ việc và hoạt động tố tụng; và số phận pháp lý của bản án, quyết định sơ thẩm.
Về tính chất, đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm cũng làm chấm dứt các hoạt động tố tụng. Nhưng không chỉ vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm còn phải hủy bản án, quyết định sơ thẩm vì căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm xuất hiện cũng có nghĩa là bản án, quyết định sơ thẩm không có cơ sở. Ví dụ trường hợp một vụ tranh chấp dân sự đã hết thời hiệu khởi kiện, đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện trước khi thụ lý hoặc phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì lại đưa vụ án đó ra xét xử. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm đó và đình chỉ giải quyết vụ án.
Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm được quy định tại Điều 278 BLTTDS, đó cũng chính là những căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm được quy định tại Điều 192 BLTTDS (Điều 278 quy định viện dẫn đến Điều 192). Điểm cần lưu ý là những căn cứ này phải đã xuất hiện và tồn tại khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án. Đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm phải đình chỉ giải quyết vụ án khi có những căn cứ đó nhưng vì lý do nào đó, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, đối với căn cứ nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại thủ tục phúc thẩm (bao gồm trước và tại phiên tòa phúc thẩm) thì áp dụng những quy định riêng biệt tại Điều 269 BLTTDS. Đối với trường hợp này, Tòa án cần phải hỏi ý kiến của bị đơn có đồng ý để nguyên đơn rút đơn khởi kiện hay không. Nếu bị đơn đồng ý thì mới đình chỉ giải quyết vụ án, còn nếu bị đơn không đồng ý thì Tòa án vẫn xét xử vụ án. Quy định này không nhằm mục đích hạn chế quyền tự quyết định của nguyên đơn mà là nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị đơn trước viễn cảnh có thể bị nguyên đơn khởi kiện lại nếu chấp nhận cho nguyên đơn rút đơn khởi kiện. Bởi vì nếu bị đơn phản đối việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tức là đồng ý với phán quyết trong bản án, quyết định sơ thẩm và các đương sự phải thi hành bản án, quyết định đó; và trường hợp này nguyên đơn không thể khởi kiện lại vì đã có bản án, quyết định giải quyết vụ việc đó.
Về thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm khác với thủ tục sơ thẩm. Nếu như đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục sơ thẩm có thể áp dụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tức là trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, thì đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm chỉ được áp dụng trong phiên tòa phúc thẩm. Quy định này xuất phát từ tính chất của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm là quyết định đến số phận pháp lý của bản án sơ thẩm, nên nó phải được quyết định ở phiên tòa phúc thẩm. Như vậy, thẩm quyền đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 269, 278 BLTTDS). Thẩm phán cấp phúc thẩm được phân công giải quyết vụ án không có thẩm quyền này.
Về hình thức văn bản, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc bản án phúc thẩm. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm và được bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 1 Điều 269 BLTTDS). Đối với những căn cứ khác, Hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 278 BLTTDS). Theo nguyên tắc chung, quyết định hay bản án phúc thẩm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng như những bản án, quyết định phúc thẩm khác sẽ có hiệu lực pháp luật ngay.
3. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Đình chỉ xét xử phúc thẩm khác biệt với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thủ tục phúc thẩm. Tính chất của đình chỉ xét xử phúc thẩm không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về mặt nội dung mà chỉ chấm dứt thủ tục tố tụng phúc thẩm. Nói cách khác, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc thẩm nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm, theo đó những quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi hành.
Căn cứ của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 192, 260 BLTTDS, bao gồm: (i) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; (ii) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; (iii) Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị; (iv) Những trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Như vậy, theo quy định của BLTTDS thì hai căn cứ đầu (nêu trên) vừa là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án tại thủ tục phúc thẩm vừa là căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Quy định này đã gây ra một khó khăn trong thực tiễn áp dụng là khi nào Tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án và khi nào sẽ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP cũng không có quy định nào hướng dẫn về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy luận rằng nếu như sự kiện nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có người thừa kế tham gia tố tụng xuất hiện và tồn tại trước và trong khi giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm mà Tòa án cấp sơ thẩm vẫn cứ giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra bản án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nếu những sự kiện đó xuất hiện và tồn tại trong quá trình Tòa phúc thẩm giải quyết vụ án thì Tòa phúc thẩm chỉ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp này bản án, quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật vì thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định là hoàn toàn có căn cứ, cơ sở.
Thời điểm đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể trước phiên tòa tức là giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Hình thức văn bản được áp dụng chung là Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do Thẩm phán được phân công phụ trách vụ án thực hiện, còn tại phiên tòa phúc thẩm do Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định.5 Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
Như đã đề cập, đình chỉ xét xử phúc thẩm sẽ dẫn đến hậu quả là bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, BLTTDS đã không quy định thời điểm chung phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm. Trong đó, BLTTDS chỉ quy định trường hợp đình chỉ vì lý do người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (khoản 2 Điều 260 BLTTDS). Vậy những trường hợp đình chỉ xét xử phúc thẩm còn lại thì hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được xác định từ ngày nào? Từ ngày Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm hay từ ngày phát sinh sự kiện làm căn cứ cho việc đình chỉ xét xử phúc thẩm? Thiết nghĩ, BLTTDS cần quy định cụ thể trường hợp này.
4. Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự
Ngoài các loại đình chỉ trình bày ở trên, BLTTDS còn quy định một loại đình chỉ khá đặc biệt nữa là đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự. Vấn đề này được quy định tại khoản 2 Điều 218 BLTTDS: “trong trường hợp đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của đương sự đã rút”; và tại khoản 2 Điều 256: “Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị”.
BLTTDS không quy định cụ thể về điều kiện áp dụng, hình thức của việc đình chỉ xét xử theo yêu cầu. Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP (tại mục I.10.2) cũng chỉ hướng dẫn căn cứ đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo, kháng nghị của đương sự, Viện kiểm sát trong thủ tục phúc thẩm. Để hiểu rõ hơn về căn cứ áp dụng việc đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự chúng ta cần phải xem xét cụ thể trong từng giai đoạn tố tụng:
- Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm:
Tòa án cấp sơ thẩm chỉ đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự nếu như trong vụ án có nhiều đương sự đưa ra yêu cầu và trong đó chỉ có một hoặc một số rút yêu cầu, số còn lại vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ. Cụ thể, nếu (i) vụ án có một nguyên đơn đưa ra nhiều yêu cầu mà sau đó họ rút một phần yêu cầu; (ii) vụ án có nhiều nguyên đơn mà trong đó có nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu nhưng các nguyên đơn khác vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ; (iii) vụ án mà bị đơn cũng có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nhưng sau đó nguyên đơn rút đơn khởi kiện mà bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố; (iv) vụ án trong đó người có quyền và nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập nhưng sau đó nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện, bị đơn nếu có phản tố cũng rút toàn bộ yêu cầu phản tố.6 Trong những trường hợp đó Tòa án sẽ đình chỉ xét xử yêu cầu của những đương sự đã rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu đó nhưng không làm chấm dứt tố tụng mà vụ án vẫn tiếp tục được giải quyết.
Trong trường hợp tất cả các đương sự đều rút toàn bộ các yêu cầu của họ thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án và chấm dứt tố tụng chứ không phải đình chỉ xét xử yêu cầu của từng đương sự. Tuy nhiên, căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại Điều 192 BLTTDS đã không có quy định nào về trường hợp đình chỉ này.
Về mặt hình thức, hiện nay BLTTDS cũng như các Nghị quyết hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đều chưa có quy định cụ thể nào về hình thức quyết định của loại đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm. Trong những trường hợp đình chỉ nêu trên, Tòa án phải ra quyết định đình chỉ hay chỉ cần ghi biên bản? Trong các mẫu văn bản do Tòa án nhân dân tối cao ban hành cũng không có mẫu quyết định đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự. Chính vì vậy, BLTTDS cần quy định rõ về hình thức, thủ tục và thẩm quyền đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm.
- Đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo, kháng nghị trong thủ tục phúc thẩm:
Tương tự như trong thủ tục sơ thẩm, việc đình chỉ xét xử yêu cầu kháng cáo, kháng nghị của Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được áp dụng khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị mà không có người khác kháng cáo về phần đó; khi người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị và phần yêu cầu rút đó độc lập với những phần kháng cáo, kháng nghị khác đồng thời không có người kháng cáo khác về phần đó (mục I.10.2 Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP). Trong trường hợp tất cả mọi người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị đều rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm theo căn cứ đã nêu trên.
Về mặt hình thức, mục I.10.2 Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP quy định cụ thể rằng “Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút kháng nghị”. Như vậy, đối với những căn cứ nêu trên về việc rút yêu cầu kháng cáo, kháng nghị trong thủ tục phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị đó. Tuy nhiên, việc ra quyết định đình chỉ xét xử phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị nếu do thẩm phán thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là hợp lý thì việc ra một quyết định độc lập như vậy tại phiên tòa phúc thẩm phải chăng mang nặng tính hình thức, thủ tục và không cần thiết mà hoàn toàn có thể ghi biên bản phiên tòa và xác nhận trong bản án. Cần lưu ý là việc đình chỉ xét xử phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị trong thủ tục phúc thẩm cũng như đình chỉ xét xử phần yêu cầu của đương sự trong thủ tục sơ thẩm không làm chấm dứt tố tụng mà ngược lại Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
5. Đình chỉ trong thủ tục giải quyết việc dân sự
Một trong những thiếu sót của BLTTDS là chưa có những quy định cụ thể về đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự. Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn áp dụng thủ tục tố tụng giải quyết các việc dân sự. Căn cứ vào Điều 311 BLTTDS, nếu chúng ta áp dụng các quy định tương tự khác của BLTTDS về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, trong đó có đình chỉ, vào thủ tục giải quyết việc dân sự thì sẽ không phù hợp. Lý do đơn giản là các căn cứ đình chỉ trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự hoàn toàn khác với thủ tục giải quyết việc dân sự. Chính vì vậy, thiết nghĩ, BLTTDS cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này, tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để tránh tình trạng lúng túng khi áp dụng pháp luật tố tụng dân sự trong thực tiễn.
Như vậy, “đình chỉ” trong tố tụng dân sự bao gồm nhiều loại khác nhau, hơn nữa trong một loại đình chỉ thì ở từng giai đoạn tố tụng cũng được áp dụng khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS chưa quy định một cách cụ thể những nội dung đó cho từng loại đình chỉ hoặc cho từng giai đoạn tố tụng. Điều này dẫn đến những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng. Vì những lẽ đó, việc sửa đổi BLTTDS trong thời gian tới cần thiết phải cụ thể hóa căn cứ, hình thức, thủ tục tố tụng, thẩm quyền và hậu quả pháp lý của từng loại đình chỉ cũng như đình chỉ ở từng giai đoạn tố tụng cho phù hợp với tính chất của mỗi loại.

Chú thích:
[1] Điều 46, 52 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Điều 39, 50 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; Điều 41, 53 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.
[2] Tống Công Cường, Luật tố tụng dân sự Việt nam: Nghiên cứu so sánh, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, năm 2007, tr. 290.
[3] Xem Mục I.7 và Mục II.10 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/5/2006 hướng dẫn về thủ tục giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm.
[4] khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 192 BLTTDS, Mục I.1.1 Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 31/3/2005 hướng dẫn phần Những quy định chung của BLTTDS.
5 Điều 260, 265 BLTTDS
6 Trong trường hợp mà các đương sự này rút toàn bộ yêu cầu và các đương sự khác vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ thì tùy từng trường hợp Tòa án sẽ đồng thời tuyên bố thay đổi địa vị tố tụng. Chẳng hạn nguyên đơn trở thành bị đơn, bị đơn trở thành nguyên đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trở thành nguyên đơn, người bị yêu cầu trở thành bị đơn. Xem Điều 219 BLTTDS; Tống Công Cường, sđd, tr. 157.
Nguồn: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4 (41) NĂM 2007

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét