1. Khái niệm và đặc điểm về thu hồi tài sản dân sự
Theo chúng tôi, thu hồi tài sản dân sự (THTSDS) có cách hiểu phổ biến là một quá trình tố tụng dân sự (TTDS) đặc biệt của cơ quan nhà nước nhằm thu hồi những tài sản được tạo nên hoặc có liên quan đến hành vi của tội phạm, ví dụ như trong bản án United States v. James Daniel Good Real Property (1993)[2].
Là quá trình TTDS đặc biệt của cơ quan nhà nước, nên các vấn đề như chứng cứ, trình tự tố tụng, các biện pháp bảo đảm, nghĩa vụ chứng minh… đều phải tuân theo trình tự pháp luật nhất định. Ví dụ về nghĩa vụ chứng minh trong THTSDS thì nghiêng về phía bị đơn hay nói cách khác, bị đơn có nghĩa vụ chứng minh tài sản của mình là không có nguồn gốc hoặc có liên quan đối với hành vi phạm tội (HVPT)[3], hay như các quyết định về thu hồi tài sản (THTS), đóng băng tài sản, giải thích nguồn gốc tài sản đều phải tuân theo trình tự. Và vì là TTDS nên Nhà nước có thể sẽ đóng vai trò là nguyên đơn trong vụ kiện dân sự (như trong bản án United States V. Ursery, 518 U.S. 267 (1996)[4] hay đóng vai trò là bị đơn (như trong bản án Degen V. United States, 517 U.S. 820 (1996)[5].
Quá
trình này nhằm THTS của người phạm tội và mục đích là hướng
đến tài sản của người phạm tội chứ không phải hướng vào người
phạm tội. Đây là điểm để phân biệt giữa THTSDS và thu hồi tài
sản hình sự (THTSHS). Mặc dù kết quả cuối cùng của cả hai loại
hình này đều là THTS của người phạm tội, nhưng đối với THTSDS
thì cái được hướng đến là tài sản của người phạm tội (như United States v. $160,000 in U.S. Currency)[6],
còn THTSHS thì việc THTS như là một hình phạt đối với người
phạm tội và mục đích là hướng đến người phạm tội chứ không
phải tài sản. Quyết định THTSDS “hoàn toàn không mang một ý
nghĩa trừng phạt đối với những người phạm tội”[7].
Vì thế, nên quyết định thu hồi có thể được tuyên bố một cách
độc lập không phụ thuộc vào việc người vi phạm pháp luật có
bị kết án hay không (như trong bản án National Director of Public Prosecutions v. Prophet, [2006] ZACC 17)[8]:
Prophet đã được Toà án tuyên bố trắng án trong cáo buộc về
việc ông có hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý, nhưng đối
với vụ kiện về THTS, ông đã bị Toà án tuyên bố tịch thu các
tài sản phục vụ cho HVPT của mình. Như vậy, quyết định THTS này
hoàn toàn độc lập với việc bị cáo có bị kết án hay không.
Tài
sản bị thu hồi phải là tài sản có liên quan hoặc có nguồn gốc
từ hành vi tội phạm của người phạm tội. Theo khái niệm về
tài sản tại Điều 338 Luật về THTS của Australia thì “tài sản
bao gồm bất động sản, động sản dưới bất kỳ hình thức nào cho
dù ở trong hay ngoài lãnh thổ Australia; hữu hình hay vô hình
và bao gồm cả những lợi ích có được từ bất động sản và
động sản đó” hay Điều 2 Luật THTS của Singapore “tài sản gồm
tiền bạc và những tài sản khác, bất động sản hay động sản,
tài sản hữu hình hay vô hình”. Trong bản án NDPP v. Parker, [2005] ZASCA 124[9],
Toà án Nam Phi cho rằng, Henry Parker đã sử dụng nhà của mình
cho HVPT nên đã ra quyết định tịch thu căn nhà, nhưng Henry cho
rằng, căn nhà là tài sản được hình thành một cách hợp pháp
nên Toà án không thể tịch thu được. Trong phán quyết của mình,
Toà án Nam Phi giải thích: mặc dù nhà là tài sản được hình
thành một cách hợp pháp nhưng do có liên quan đến HVPT của
Henry, khi Henry đã dùng căn nhà cho việc sản xuất và nơi bán
chất ma tuý, nên căn nhà được coi là tài sản có liên quan đến
HVPT. Vì vậy, Toà án Nam Phi đã ra quyết định THTS này.
2. Ưu điểm của việc thu hồi tài sản dân sự
Thủ tục THTSDS có
tác dụng ngay cả trong trường hợp bị đơn là người không bị
tuyên bố là có tội theo bản án của Toà án. Có thể xảy ra
trường hợp là người đó đã chết[10] trước khi có bản án của Toà án hoặc trường hợp đã được xét xử nhưng bản án tuyên người đó vô tội. Xuất
phát từ đặc điểm là THTSDS nhằm hướng vào tài sản của người
phạm tội, nên người phạm tội chỉ đóng vai trò là bên thứ ba
nắm giữ tài sản, do đó, đối với việc người đã chết hoặc
được tuyên bố trắng án vẫn không ảnh hưởng đến việc thực hiện
thủ tục THTSDS. Đối với thủ tục THTSHS, khi người phạm tội
chết trước khi có bản án hoặc được tuyên trắng án bởi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thì thủ tục THTS sẽ chấm dứt (theo
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự, nếu một cá nhân khi không
được bản án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố họ
là người phạm tội thì họ vẫn được xem là vô tội như quy định
tại khoản 2 Điều 6 Hiệp định về quyền con người của Châu Âu
“mỗi người đều được xem là vô tội cho đến khi pháp luật chứng
minh được rằng họ có tội”. Khi người phạm tội chết trước lúc
có bản án hoặc được tuyên trắng án bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì thủ tục tố tụng hình sự sẽ chấm dứt vì lúc
này đối tượng của quyết định đã không còn tồn tại hoặc đã
được tuyên vô tội). Ví dụ, bản án United States v. Lay, 456 F. Supp. 2d 86. Kenneth
Lay đã bị cáo buộc về 11 tội danh, nhưng sau đó, ông đã chết
trước khi bị tuyên án nên Toà án buộc ra quyết định tuyên bố
huỷ bỏ các cáo buộc đối với ông. Sau đó vài tháng, Toà án
đã ra quyết định thu hồi 12 triệu đô la tài sản do HVPT của Lay
gây ra[11],
mặc dù Lay đã chết nhưng tài sản do HVPT của ông là đối tượng
mà thủ tục thu hồi dân sự hướng đến vẫn còn tồn tại nên Toà
án đã thông qua thủ tục này để THTS phạm tội. Đây được coi là
một ưu điểm mà THTSHS không có được.
THTS ngay cả trong trường hợp không phát hiện ra được tội phạm.
Ví dụ trong trường hợp một khoản tiền được một nhân viên
chuyển phát chuyển đi, nhưng sau đó bị cảnh sát thu giữ vì cho
rằng đây là tiền có liên quan đến HVPT. Trong trường hợp này,
nếu không có ai đứng ra nhận lại khoản tiền này, Toà sẽ áp
dụng thủ tục TTDS để thu hồi khoản tiền trên. Vì đối với
THTSDS thì người nắm giữ tài sản luôn có nghĩa vụ chứng minh
rằng tài sản của mình là hợp pháp, nếu họ không chứng minh
thì tài sản sẽ được coi là bất hợp pháp và Toà án sẽ thu
hồi khoản tiền đó. Có thể xem thêm trong bản án United States.
V. $37,780 in U.S. Currency 920 f.2d 159 (1990)[12], trong
vụ việc này, Hernandez đã đem theo số tiền 37.780 đô la Mỹ khi qua
hải quan (vượt quá số tiền được phép mang ra khỏi lãnh thổ
Hoa Kỳ), nên đã bị hải quan tịch thu. Sau đó, vụ việc đã được
Toà án Hoa Kỳ đem ra xét xử theo thủ tục THTSDS. Tại Toà,
Hernandez đã không thể đưa ra bằng chứng cùng những lời giải
thích hợp lý về nguồn gốc khoản tiền 37.780 đô la, nên Toà án
Hoa Kỳ đã ra quyết định thu hồi số tiền trên.
Việc THTS có hiệu lực hồi tố. Điều
này có nghĩa, đối với tài sản được hình thành vào thời
điểm mà hành vi không được xem là tội phạm thì vẫn sẽ bị áp
dụng thủ tục THTSDS để thu hồi, trong khi việc áp dụng THTSHS
trong trường hợp này là không thể thực hiện được. Một nguyên
tắc được pháp luật hình sự của nhiều quốc gia công nhận là
việc một người sẽ không bị coi là tội phạm vào thời điểm mà
HVPT của người đó không được quy định trong pháp luật. Nếu một
người đã không chịu trách nhiệm hình sự vào thời điểm xảy ra
hành động thì Toà án sẽ không thể ra bản án để tuyên bố là
người đó có tội. Do đó, quyết định THTS cũng sẽ không được ban
hành. Đối với THTS theo thủ tục dân sự, xuất phát từ đặc
điểm là đối tượng mà thủ tục này hướng đến là tài sản mà
không phải là con người, nên việc có hiệu lực hồi tố trong thủ
tục THTSDS không vi phạm nguyên tắc của pháp luật quốc tế
“không bị trừng phạt khi không có luật”.
Việc
ra quyết định THTSDS không phụ thuộc vào việc người nắm giữ
tài sản có bị Toà án tuyên bố là đã vi phạm một tội nào hay
không.
Nghĩa vụ chứng minh trong THTSDS đều nghiêng về phía người nắm
giữ tài sản, họ có nghĩa vụ chứng minh tài sản của mình là
không liên quan đến việc phạm tội. Từ đó, sẽ giảm bớt gánh
nặng của cơ quan nhà nước trong việc chứng minh tài sản đó là
tài sản do HVPT mà có, việc này khác với THTS hình sự. Việc
THTS ở nước ngoài cũng sẽ thuận lợi hơn, vì lúc này Nhà nước
có thể đóng vai trò là nguyên đơn trong vụ kiện dân sự kiện
đòi người phạm tội phải trả lại tài sản mà họ đã có được
do HVPT trên lãnh thổ của mình.
3. Pháp luật Việt Nam về thu hồi tài sản dân sự
Pháp luật Việt Nam chưa có các quy định về THTSDS, trong khi thực tiễn đang đòi hỏi phải có các quy định này. Có
thể đưa ra ví dụ: Trong trường hợp khi người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã chết thì Toà án phải ngưng việc xét xử
(quy định tại khoản 7 Điều 107 Bộ luật Tố tụng Hình sự), nhưng
khi đó, số tài sản do việc phạm tội mà có của người phạm tội sẽ
trở thành tài sản hợp pháp, vì xét cho cùng, người này vẫn
không vi phạm pháp luật do không bị Toà án tuyên bố bởi một
bản án về bất kỳ tội nào. Đối với các nước áp dụng THTSDS
thì họ sẽ áp dụng thủ tục này để THTS như trong vụ án United States v. Lay.
Ngoài
việc ban hành các quy định về THTSDS, Nhà nước cần bổ sung các văn
bản pháp luật khác khi thực hiện các luật về ngân hàng, tổ chức
tín dụng, tài chính… nhằm phục vụ cho việc THTS, ví dụ như
điều khoản về việc các tổ chức ngân hàng hay các tổ chức tài
chính phải có nghĩa vụ cung cấp các báo cáo tài chính của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà được cho là có sự nghi ngờ
về nguồn gốc của tài sản hay sự không minh bạch trong tài sản.
Hay như điều khoản miễn trách cho ngân hàng, tổ chức tài chính
khi họ thực hiện nghĩa vụ này. Hiện nay, pháp luật của nước
ta chỉ mới dừng lại ở việc là buộc các tổ chức ngân hàng
cung cấp thông tin khi tiến hành điều tra, như vậy không tạo ra
được tính chủ động trong việc phát hiện tội phạm cũng như tài
sản.
Cũng
cần thiết phải ban hành văn bản quy định về việc thực hiện các
giao dịch có giá trị nhất định từ bao nhiêu phải thông qua ngân
hàng, sau đó là mọi giao dịch đều phải thông qua ngân hàng. Các
giao dịch trực tiếp của người dân hiện nay thường gây khó khăn cho
việc kiểm soát cũng như phát hiện các giao dịch mờ ám, nên
nếu không thực hiện được quy định các giao dịch đều thông qua hệ
thống ngân hàng thì việc phát hiện các hành vi vi phạm của cơ
quan có thẩm quyền sẽ luôn bị động.
Đồng
thời, chúng ta phải thành lập thêm những bộ phận chuyên môn nhằm
áp dụng biện pháp THTSDS, như Cơ quan tình báo về tài chính
(FIU) của Pháp, hay Cục Điều tra thương mại (CAD) của Singapore.
Các cơ quan này được thành lập nhằm mục đích thu thập các dữ
liệu, phân tích, lập báo cáo để phát hiện những tài sản không
rõ ràng, hoặc tài sản có liên quan đến người phạm tội. Bên
cạnh đó là đội ngũ cảnh sát giúp cho các cơ quan này với nhiệm
vụ tổng hợp các báo cáo tài chính, các đơn tố cáo, các bảng
số liệu có liên quan đến hoạt động tài chính nhằm phục vụ
cho công tác điều tra và phát hiện tài sản của người phạm
tội. Tiếp đến là nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán, kiểm
sát viên, vì mặc dù THTSDS được áp dụng thủ tục TTDS nhưng cần
phải có sự chứng minh có sự xuất hiện của HVPT, do đó có sự
xen kẽ giữa TTDS và các vấn đề về hình sự./.
[4]http://www.law.cornell.edu/supct/search/display.html?terms=civil%20forfeiture&url=/supct/html/95-345.ZO.html.
[7]
http://www.fed-soc.org/publications/detail/supreme-court-rules-that-civil-forfeiture-is-not-punishment-for-double-jeopardy-purposes.
[10] International Bank for Reconstruction and Development, (2009), Stolen Asset Recovery: A Good Practices Guide For Non-Conviction Based Asset Forfeiture, Washington, The World Bank, 14.
[12]http://174.123.24.242/leagle/xmlResult.aspx?page=1&xmldoc=19901079920F2d159_11051.xml&docbase=CSLWAR2-1986-2006&SizeDisp=7.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét