Hợp
đồng là hành vi thỏa thuận nhằm phục vụ lợi ích của các bên. Ngoài việc
thỏa thuận vì lợi ích này, hợp đồng còn là sự thỏa thuận nhằm chia sẻ
rủi ro. Lợi ích và rủi ro chính là tiền đề làm các quan hệ xã hội ngày
càng phát sinh nhiều biến thể. Chính vì thế mà hợp đồng trở nên phổ biến
và bao quát trong đời sống xã hội[1]và
ký kết hợp đồng - hay còn gọi là cách thức để sự thỏa thuận có giá trị
pháp lý nhất định - được pháp luật bảo vệ. Trên thực tế, tranh chấp hợp
đồng có thể phát sinh bất cứ lúc nào, từ hành vi thực hiện hợp đồng hay
từ những điều khoản ký kết trong hợp đồng. Cũng vì thế mà pháp luật hợp
đồng phải ngày càng được hoàn thiện và minh bạch.
1. Bất cập của pháp luật hợp đồng hiện nay
Pháp
luật hợp đồng Việt Nam chủ yếu do hai nguồn luật điều chỉnh là Bộ luật
Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) và Luật Thương mại năm 2005 (LTM 2005), bên
cạnh đó, chế định hợp đồng còn tồn tại trong các quan hệ pháp lý khác
được điều chỉnh theo những luật chuyên biệt như: Luật Sở hữu trí tuệ
(LSHTT), Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Kinh doanh bảo hiểm... Cá
biệt, có những quan hệ đặc thù tưởng chừng như không có bóng dáng của
hợp đồng nhưng thực tế vẫn tồn tại khá nhiều, như trong quan hệ hôn nhân
gia đình.
Ở
Việt Nam, BLDS 2005 - với tư cách là luật chung - đã có những quy định
về chế định hợp đồng, nên những luật còn lại - với tư cách là luật
chuyên ngành - phải tuân theo và dựa trên các quy định của BLDS 2005.
Tuy nhiên, cách thức áp dụng thì lại ưu tiên cho luật chuyên ngành nếu
luật chung có quy định khác với luật chuyên ngành. Câu chuyện này thực
tế đã gây ra sự bất cập lớn trong pháp luật hợp đồng ở Việt Nam, vì quy
định của BLDS 2005 với các luật chuyên ngành khác hầu như không tiệm cận
với nhau, và ngay cả trong những luật chuyên ngành vẫn còn nhiều khác
biệt vì một quan hệ hợp đồng có thể sử dụng đến nhiều quan hệ pháp lý.
Do đó, những hạn chế cơ bản trong pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay
là tản mát, thiếu tính thống nhất và có khả năng dẫn đến tình trạng xung
đột pháp luật.
Có
thể nhận thấy sự thiếu tính thống nhất của pháp luật hợp đồng khi xem
xét về tính thương mại của hợp đồng. Điều 388 BLDS 2005 quy định: Hợp đồng dân sự (HĐDS) là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Theo khái niệm này và dựa trên phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005, có thể
hiểu HĐDS còn có nghĩa rộng là bao quát luôn cả quan hệ thương mại.
Nhưng thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Tòa án và Trọng tài lại có sự
phân biệt tính thương mại hay tính dân sự của hợp đồng và thực tiễn giải
quyết các vụ việc cũng đã chứng minh rằng, sự phân biệt tính thương mại
hay tính dân sự chỉ gây ra nhiều bất cập mà thôi.
Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 (LTTTM 2010) quy định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài là: Tranh
chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát
sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài. Quy định này có nghĩa rằng, Trọng tài Việt Nam khi thụ
lý đơn khởi kiện phải xem xét tính thương mại của tranh chấp, tuy rằng,
sự tiến bộ của LTTTM 2010 đối với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 là
ở chỗ, không cần phải xác định tính thương mại là trong hợp đồng hay
ngoài hợp đồng. Giả sử ngay cả trong hợp đồng, nếu tranh chấp không phát
sinh từ hoạt động thương mại thì Trọng tài không được thụ lý đơn khởi
kiện ngay cả khi có một thỏa thuận Trọng tài hợp pháp.
Khoản 1 Điều 3 LTM 2005 quy định: Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lời khác.
Nếu
xét về thẩm quyền giải quyết tranh chấp các hợp đồng thương mại (HĐTM)
của Trọng tài hiện nay thì tính thương mại được xét dựa trên yếu tố sinh
lời của các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác. Như
vậy, một trường hợp tranh chấp phát sinh trong hợp đồng, đã có thỏa
thuận trọng tài nhưng tính thương mại không thể xác định được, liệu rằng
Trọng tài có thẩm quyền để giải quyết hay không? Chắc chắn Trọng tài sẽ
rất lúng túng trong vấn đề này. Mặt khác, theo LTTTM 2010 thì thẩm
quyền của Trọng tài có thể mở rộng ở những tranh chấp thương mại không
phát sinh trong hợp đồng, và tương tự như trường hợp trên, Trọng tài
cũng thật khó trong việc xác định thẩm quyền của mình. Bên cạnh đó, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án quy định trong Bộ luật Tố tụng
dân sự 2011 về kinh doanh thương mại[2] cũng đang mang tính liệt kê (khác với liệt kê mang tính loại trừ) và dựa vào mục đích lợi nhuận làm căn cứ tiên quyết.
Đối
với Trọng tài Việt Nam khi giải quyết các tranh chấp HĐTM đều vận dụng
các quy phạm về HĐTM được điều chỉnh trong BLDS 2005, LTM 2005 và các
chế định hợp đồng đặc thù trong Luật Đầu tư (LĐT), Luật Xây dựng (LXD),
LSHTT… Những quy định này về hợp đồng vẫn nằm rải rác trong các văn bản
pháp luật, đã gây nên sự chồng chéo, làm hạn chế hoạt động áp dụng pháp
luật của Trọng tài.
Sự
thiếu tính thống nhất của pháp luật hợp đồng còn thể hiện ở mâu thuẫn
giữa BLDS 2005 và LTM 2005 liên quan đến chế định phạt hợp đồng. Khoản 2
Điều 422 BLDS 2005 quy định: mức phạt vi phạm hợp đồng do các bên tự thỏa thuận. Tự
thỏa thuận có nghĩa là các bên được phép tự do ấn định mức phạt mà
không bị ràng buộc bởi các quy định của pháp luật, điều này thể hiện
nguyên tắc tự do thỏa thuận đã được quy định trong pháp luật dân sự
nhưng điều đáng lưu tâm là LTM lại quy định về mức phạt đối với vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên
thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm. Ở quy định khác trong LXD, mức phạt vi phạm tối đa là
12%. Cùng điều chỉnh về một vấn đề nhưng lại có sự khác biệt giữa các
văn bản. Điều đó đòi hỏi các bên phải phân biệt rạch ròi xem quan hệ nào
do BLDS 2005 điều chỉnh và quan hệ nào được điều chỉnh bởi LTM hoặc các
luật khác điều chỉnh và điều này là rất khó phân biệt khi BLDS 2005
được xem là luật chung với đối tượng điều chỉnh là các quan hệ về tài
sản, nhân thân trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại,
lao động[3].
Sự khác biệt về mức phạt vi phạm dẫn đến sự khác biệt trong việc quy
định mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Điểm 2 khoản
3 Điều 422 BLDS 2005 quy định: Trong
trường hợp các bên thỏa thuận phạt vi phạm mà không có thỏa thuận về
bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi
phạm. Trong khi đó, khoản 2 Điều 307 LTM 2005 lại quy định: Trong
trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm mà không có thoả thuận
bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt
vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Theo chúng tôi, sự khác biệt giữa các quy định liên quan đến phạt vi phạm trong hai văn bản pháp luật nêu trên có nguyên nhân từ:
(i) có sự phân biệt rõ ràng giữa HĐDS thông thường và HĐTM; (ii) quy
định về hợp đồng tản mát trong các văn bản pháp luật nhưng lại không
thống nhất giữa luật chung và luật chuyên ngành; (iii) một hệ thống văn
bản dưới luật đồ sộ có giá trị áp dụng cao hơn cả văn bản luật.
Ngoài
ra, sự thiếu thống nhất, xung đột pháp luật hợp đồng còn thể hiện ở các
quy định về tài sản mua bán phải đăng ký quyền sở hữu. Khoản 2 Điều 439
BLDS 2005 quy định: Đối
với tài sản mua bán mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu,
quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục
đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Tương tự khi quy định về
đăng bộ nhà đất, Luật Đất đai 2003 (LĐĐ 2003) quy định thời điểm chuyển
quyền sử dụng đất là từ khi người nhận chuyển nhượng hoàn tất thủ tục
đăng ký quyền sử dụng đất. Khoản 2 Điều 127 LĐĐ 2003 quy định:
Trong thời hạn không quá mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ
sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra
hồ sơ, gửi hồ sơ cho cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân
(UBND) cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Trong thời hạn không quá
năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, các bên
tham gia chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ.
Tuy
nhiên, Luật Nhà ở (LNO) và Nghị định hướng dẫn lại quy định thời điểm
chuyển quyền sở hữu sớm hơn nhiều so với quy định của BLDS 2005. Khoản 3
Điều 93 Luật LNO quy định: Hợp
đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của
UBND cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của UBND xã đối với
nhà ở tại nông thôn… Khoản 1 Điều 63 NĐ90/NĐCP/2006 ngày 6/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn LNO quy định:
Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp mua bán nhà ở
tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng hoặc chứng thực.
Thực
tế khi đi đăng bộ, bên mua và bên bán còn phải hoàn thành nghĩa vụ nộp
thuế và lệ phí trước bạ, thời gian từ lúc công chứng xong cho đến lúc
hoàn tất thủ tục sang tên nhanh nhất cũng trên 10 ngày. Do đó, trong
Luật LNO, thời gian từ lúc ký hợp đồng công chứng đến thời điểm đăng bộ
đã có một “khoảng trống pháp luật”, như thế, các quy định pháp luật đã
xung đột nhau. Khi đã xung đột pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) 2008[4]
đã giải quyết vấn đề này bằng cách sẽ áp dụng văn bản có giá trị cao
hơn, hoặc là theo luật chuyên ngành, trường hợp có giá trị ngang nhau về
thứ bậc của văn bản và tính chuyên ngành thì áp dụng văn bản được ban
hành sau. Vì vậy đối với trường hợp này, LNO được ban hành sau BLDS
(2005) nên có giá trị áp dụng. Giả sử trong trường hợp sau này, khi BLDS
2005 sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn giữ nguyên quy định như cũ thì BLDS mới
lại có giá trị áp dụng vì lúc này BLDS được ban hành sau LNO.
Như
vậy, khi xung đột xảy ra thì chủ thể của hợp đồng phải hứng chịu hậu
quả. Họ là bên chịu tất cả mọi phí tổn do sự xung đột pháp luật dẫn đến.
Các nhà làm luật không tính đến tính thống nhất của pháp luật, không
cân nhắc kỹ lưỡng đến phạm vi điều chỉnh của VBQPPL, khiến cho phạm vi
của VBQPPL này chồng lên phạm vi của VBQPPL khác. Vì vậy, để tránh sự
tản mát của pháp luật hợp đồng, tránh những xung đột pháp luật gây khó
khăn cho các chủ thể hợp đồng thì pháp điển hóa pháp luật hợp đồng Việt
Nam thành Luật Hợp đồng thống nhất là một trong những giải pháp khả thi
vì tự thân quan hệ hợp đồng đã hình thành một quan hệ pháp luật có phạm
vi điều chỉnh độc lập.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng
2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật hợp đồng
Một
trong những mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách pháp luật ở Việt
Nam được xác định tại Nghị quyết số 48 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 là “xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch”. Nhằm thực hiện việc công khai, minh bạch
hoá hệ thống pháp luật, đảm bảo để mọi cơ quan, tổ chức, công dân đều
có thể tiếp cận hệ thống pháp luật một cách dễ dàng, giảm bớt thời gian,
chi phí cho việc tìm kiếm VBQPPL cũng như xác định hiệu lực của văn
bản, thì một trong những giải pháp đặt ra là pháp điển hóa hệ thống quy
phạm pháp luật.
Thứ nhất, hoàn thiện[5]
các quy định nội dung về hợp đồng trong BLDS như: khái niệm hợp đồng,
giao kết hợp đồng, phạt hợp đồng, các loại hợp đồng…; thống nhất sự tản
mát bằng những quy định cụ thể trong BLDS trở thành luật chung cho các
luật chuyên ngành. Các
quy định có tính chất chung chỉ nên quy định trong BLDS 2005. Trong Bộ
luật này cần có những quy định chung có tính khái quát cao, thể hiện rõ
quyền tự do hợp
đồng để bảo đảm tính ổn định cao của BLDS sau lần sửa đổi, bổ sung này.
Không nên đưa vào BLDS các quy định về các loại hợp đồng chuyên biệt mà
để cho các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định. Nếu có đưa một loại
hợp đồng nào đó vào trong BLDS 2005 thì không nên quy định ở văn bản
pháp luật khác nữa để tránh trùng lặp, chồng chéo[6]. Một số học giả khác cũng chung quan điểm về thống nhất hợp đồng trong BLDS 2005, ví dụ[7] sớm
thống nhất pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng bằng cách bỏ các quy
định từ Điều 292 đến Điều 316 của LTM và hoàn thiện các quy định trong
BLDS 2005 (trong đó có kế thừa ưu điểm của LTM) về xử lý vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng.
Thứ hai,
vẫn hoàn thiện quy định hợp đồng trong BLDS nhưng chỉ hoàn thiện những
nền móng cơ bản, còn lại các quy định khác trong BLDS và những quy định
tản mát thì xây dựng một đạo luật riêng biệt điều chỉnh.
Thứ ba,
kết hợp pháp điển hóa nội dung pháp luật hợp đồng với việc bóc tách
quan hệ hợp đồng trong BLDS và thống nhất sự tản mát bằng cách tập hợp
các quy định trong các luật chuyên ngành, văn bản dưới luật, sau đó hệ
thống và xây dựng thành một đạo luật riêng biệt điều chỉnh quan hệ hợp
đồng tiến bộ và phù hợp với thông lệ thế giới cũng như các quy định của UNIDROIT
(Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế - nghiên cứu, tìm kiếm các quy định
chung để điều chỉnh hợp đồng sao cho có thể thích hợp trong nhiều hệ
thống pháp luật của những nước khác nhau), gọi là “Luật Hợp đồng thống nhất”.
2.2. Xây dựng Luật Hợp đồng thống nhất
Ở
Việt Nam, đa số các nhà khoa học pháp lý đều cho rằng, giữa ngành luật
công và luật tư có sự phân biệt rõ ràng về phạm vi và đối tượng điều
chỉnh, trong đó ở ngành luật tư thì BLDS đóng vai trò là luật gốc. Từ
những quy định chung trong BLDS, họ tiếp tục phát triển các chế định
chuyên ngành như: Luật Hôn nhân gia đình, LTM, LĐĐ, LSHTT, Luật Doanh
nghiệp, Luật Lao động… Chúng tôi
không thừa nhận quan niệm này, bởi lẽ nếu đã là “gốc” thì vai trò của
Hiến pháp nằm ở đâu trong một xã hội pháp trị? Và bởi lẽ, một cây không
thể sống bằng hai gốc, cũng không thể có “gốc chính” hay “gốc phụ”. Vì
vậy, cần coi quan hệ hợp đồng là một quan hệ đặc thù và rộng lớn, nên nó
phải được điều chỉnh trong một đạo luật riêng biệt, bởi một người dân
bình thường không thể làm thay công việc của luật sư hay thẩm phán khi
chỉ ra rằng hợp đồng này thuộc về dân sự, về thương mại hay đầu tư…
Công
việc cố gắng hoàn thiện các chế định hợp đồng trong BLDS 2005 và các
đạo luật khác hiện nay có thể được ví von như một ngôi nhà “ọp ẹp” và
không đủ không gian sống, nhưng thay vì xây một ngôi nhà mới cho nó thì
người ta cố gắng dùng những chất liệu kết dính để tu sửa nó. Vấn đề ở
chỗ là càng cố gắng tu sửa bao nhiêu người ta càng phải cố gắng tính đến
khả năng chịu được sự tồn tại của những đổi thay sắp đến mà đây là công
việc gian truân đối với cả những kỹ sư lành nghề. Vì vậy, để thuận tiện
cho xã hội khi mà quan hệ hợp đồng vốn dĩ đã chi phối hầu hết các quan
hệ trong đời sống xã hội, phát sinh mỗi ngày một đa dạng, phức tạp thì
việc thống nhất điều chỉnh bằng “Luật Hợp đồng thống nhất” là điều hết
sức cần thiết. Theo đó, BLDS sẽ được giản lược, nhẹ đi, chỉ làm nhiệm vụ
điều chỉnh những vấn đề chung về tài sản và nhân thân mà không điều
chỉnh quan hệ hợp đồng nữa.
“Luật Hợp đồng” là luật chỉ điều chỉnh về tất cả các quan hệ hợp đồng. Xét về khía cạnh hợp đồng, dù các quốc gia khác[8]
cố gắng định nghĩa hợp đồng như thế nào đi chăng nữa thì đều dựa vào
một bản chất duy nhất nói lên sự tồn tại của hợp đồng, đó là sự thỏa
thuận. Từ sự thỏa thuận, các quốc gia cố gắng điều chỉnh nó bằng những
kỹ thuật lập pháp của riêng mình. Ví dụ ở
Trung Quốc, cũng là một quốc gia đang trên đà xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cũng theo trường phái pháp luật thành văn đã xây dựng
thành công Luật Hợp đồng riêng biệt vào năm 1999. Trước đây, các chế
định về hợp đồng của Trung Quốc được quy định tại Luật Hợp đồng kinh tế,
Luật Hợp đồng kinh tế có yếu tố nước ngoài, Luật Công nghệ… Tuy nhiên
khi gia nhập WTO, để tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế, tránh những
bất tiện cho các chủ thể gặp khó khăn khi tìm hiểu chế định hợp đồng để
tiến hành ký kết HĐTM, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng Luật Hợp đồng
dựa trên nội dung của UNIDROIT; nó là sự kết nối tất cả quy định
hợp đồng nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau trước đây.
Điều này tạo hành lang pháp lý thuận tiện và an toàn cho các nhà đầu tư
cũng như các thương nhân Trung Quốc. Hay như UCC (Luật Thương mại thống nhất) của
Hoa Kỳ đã quy định luôn cả vấn đề hợp đồng ở trong đó, hoặc ở các quốc
gia khác như: Đức (châu Âu) và Indonesia (Đông Nam Á)... đã ban hành hẳn
một đạo Luật Hợp đồng riêng biệt.
Bảng: Nguồn pháp luật hợp đồng ở một số quốc gia trên thế giới
Việt Nam
|
BLDS 2005, LTM 2006, LĐT 2006, LSHTT 2009, LNO 2006, LXD…
|
Pháp
|
Án lệ, BLDS …
|
Đức
|
Án lệ, Luật về những Điều khoản chung hợp đồng…
|
Anh
|
Án lệ, Luật Hợp đồng 1999, Luật Bán và cung cấp hàng hóa 1994…
|
Eu
|
Nguyên tắc HĐTM quốc tế …
|
Indonesia
|
Luật Hợp đồng
|
Thái Lan
|
BLDS (Thái Lan đã thống nhất LTM vào LDS)
|
Hoa Kỳ
|
Án
lệ, UCC, BLDS của một số bang như Louisiana, Califonia, hoặc trong các
luật liên bang (như: Luật về Chữ ký số trong thương mại quốc tế và trong
nước…) và luật của các bang trong từng lĩnh vực cụ thể (như: Luật Thống
nhất về giao dịch điện tử…)
|
Nhật Bản
|
BLDS
|
Trung Quốc
|
Luật Hợp đồng
|
Công việc pháp điển hóa pháp luật hợp đồng ở Việt Nam cần quán triệt những quan điểm sau đây:
Một là, phạm
vi của pháp luật hợp đồng tương đối rộng, là đạo luật điều chỉnh hành
vi thỏa thuận giữa các bên, là công cụ đại diện cho mưu cầu lợi ích kinh
tế của cá nhân và tổ chức. Vì vậy, xét về phạm vi và đối tượng điều
chỉnh thì chúng ta nên ưu tiên xây dựng một Luật Hợp đồng riêng biệt.
Với xu hướng giản lược BLDS 2005, các nguyên tắc và các vấn đề chung của
hợp đồng sẽ được quy định chung cho tất cả các hợp đồng không phân biệt
dân sự, thương mại hay hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Hai là, trên thực tế, ngày càng xuất hiện các loại hợp đồng[9]
với nhiều chủng loại khác nhau. Tuy nhiên, việc phân chia các loại hợp
đồng trong BLDS 2005 và các đạo luật chuyên ngành khác lại dựa trên đối
tượng của hợp đồng. Cách phân loại như thế không có cơ sở khoa học và
dẫn đến nhiều hệ lụy[10].
Do đó, nội dung tiếp theo của hoạt động pháp điển hóa pháp luật hợp
đồng là rà soát trên thực tế các loại hợp đồng, quy định các loại hợp
đồng theo phân nhóm chủng loại hợp đồng để tránh trường hợp Luật lạc hậu
so với thực tiễn. Việc sắp xếp chủng loại hợp đồng phải dựa trên hành
vi và mục đích giao kết chứ không dựa trên đối tượng hợp đồng.
Ba là,
về kỹ thuật lập pháp, những vấn đề chung và chủng loại của hợp đồng cần
được sắp xếp trong một đạo luật hoàn chỉnh và thống nhất. Việc những
chủng loại của hợp đồng là vấn đề có thể phát sinh nhất, tuy nhiên, nếu
dựa trên mục đích của hành vi thỏa thuận thì các nhà làm luật có thể
phân biệt và dự liệu được. Do đó, tuổi thọ của Luật Hợp đồng sẽ được kéo
dài.
Ngoài
ra, việc pháp điển hóa pháp luật hợp đồng trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế cần đảm bảo hai đặc tính cơ bản: (i) tính thống nhất, tiện
dụng thể hiện trong việc tập hợp các chế định hợp đồng trong BLDS, kết
hợp với tất cả các quy định hợp đồng trong LTM và các luật khác liên
quan như: LSHTT, LĐT, LXD… sau đó xây dựng thành một Luật Hợp đồng thống
nhất trên cơ sở kế thừa những chế định sẵn có, quy định đầy đủ các nội
dung liên quan đến các loại hợp đồng bao gồm: chủ thể ký kết, đối tượng
hợp đồng, đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, quyền nghĩa vụ
của các bên, phạt vi phạm, lãi suất, cơ quan tài phán tranh chấp và
những quy định khác về dung sai...;
(ii) tính tương thích, hội nhập thể hiện qua việc nghiên cứu tiếp thu
pháp luật nước ngoài như: các nguyên tắc của UNIDROIT về HĐTM quốc tế
2004, các quy định trong Công ước viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế 1980 (CIGS), các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, các tập quán về
điều kiện chuyển rủi ro sở hữu hàng hóa (Incoterm 2010), về thanh toán
quốc tế (UCP.600)… trong đó cũng cần cân nhắc loại giao dịch thông qua
người làm chứng của Công ước Viên 1980 đưa vào Luật Hợp đồng nhằm đảm
bảo tính tương thích với các tập quán, điều ước khi hội nhập với các
nước trong khu vực và thế giới. Việc kế thừa những tinh hoa của pháp
luật hiện hữu và tiếp thu pháp luật nước ngoài trong quá trình xây dựng
Luật Hợp đồng thống nhất cần phải đảm bảo ba nội dung cơ bản là: phù hợp
với thể chế chính trị và bản sắc riêng của Việt Nam; thuận tiện cho các
chủ thể liên quan; đáp ứng được sự tương đồng pháp luật trong giao
thương quốc tế để có xử sự phù hợp, nhất là khi Việt Nam đã trở thành
thành viên của WTO.
Nhà
nước pháp quyền đòi hỏi một hành lang pháp lý để các chủ thể có thể ứng
xử đúng theo pháp luật nên việc pháp điển hóa hệ thống pháp luật là hòn
đá tảng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Pháp luật hợp đồng cần
được thống nhất cũng không thể nằm ngoài yêu cầu chung đó. Pháp luật hợp
đồng ngày càng được thống nhất sẽ tạo mọi điều kiện cho các chủ thể xử
sự với nhau ngày càng phù hợp hơn, các thỏa thuận được các bên tôn trọng
và thực hiện ngày càng tốt hơn, tranh chấp sẽ bớt đi trên cơ sở các quy
định của pháp luật hợp đồng./.
[1] Tuy nhiên, ở nghĩa hẹp (theo khía cạnh pháp lý) thì không phải bất kỳ sự thỏa thuận nào cũng là hợp đồng.
[4] Khoản 3 Điều 83 Luật Ban hành VBQPPL quy định: Trong
trường hợp các VBQPPL do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác
nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành
sau.
[5]Xem
thêm: Dương Anh Sơn (2001), Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh
tế ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 - 2001
[6]Phạm Hữu Nghị, Vấn đề cải cách hợp đồng - BLDS 2005 2005. Trích dẫn từ: http://vibonline.com.vn/vi-VN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=3036.
[7]Đỗ
Văn Đại (2011), Hướng tới sự thống nhất về xử lý vi phạm hợp đồng ở
Việt Nam, Hội thảo hoàn thiện các báo cáo rà soát Luật Doanh nghiệp,
LĐT, LTM - 2011.
[8] Ví dụ: Luật Hợp đồng 1999 của Trung Quốc quy định tại Điều 2: “For
purposes of this Law, a contract is an agreement between natural
persons, legal persons or other organizations with equal standing, for
the purpose of establishing, altering, or discharging a relationship of
civil rights and obligations. An agreement concerning any personal
relationship such as marriage, adoption, guardianship, etc. shall be
governed by other applicable laws”. Tạm dịch: “Trong Luật này,
một hợp đồng được hiểu là một thoả thuận giữa các thể nhân, pháp nhân
hoặc các tổ chức khác có địa vị bình đẳng, nhằm thiết lập, thay đổi hoặc
chấm dứt một quan hệ về các quyền và nghĩa vụ dân sự. Một thoả thuận
liên quan đến quan hệ cá nhân như hôn nhân, nhận nuôi con nuôi, giám hộ
v.v.... sẽ do các luật liên quan khác điều chỉnh.”
Nguồn download: http://www.novexcn.com/contract_law_99.htm.
[9]
Hiện nay theo quy định của BLDS 2005, có 13 loại hợp đồng thông dụng.
Mỗi đạo luật chuyên ngành sau đó ra đời thì lại có những quy định khác
cho loại hợp đồng của đạo luật đó.
[10] Vì
theo từng đối tượng hợp đồng là yếu tố dễ thay đổi trong môi trường
kinh tế hiện nay, do đó phải phân loại hợp đồng dựa trên mục đích giao
kết hợp đồng, lấy yếu tố này để phân loại hợp đồng là hợp lý. Việc phân
loại hợp đồng dựa trên mục đích giao kết sẽ giúp pháp luật hợp đồng có
tính dự liệu cho những đối tượng hợp đồng có thể phát sinh sau này mà
không cần phải dẫn chiếu đến văn bản pháp luật khác hướng dẫn.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét