1. Dẫn nhập
Thoạt
nhìn, các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) về quyền sở hữu
có nhiều nét tương đồng với các quy định cùng tính chất được ghi nhận
tại các BLDS của các nước tiền tiến như Pháp, Đức, Nhật. Đặc biệt, về
nội dung của quyền sở hữu, người làm luật Việt Nam thừa nhận quyền sở
hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản
của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật (BLDS Điều 164). Sự thừa nhận
đó không khác mấy so với sự nhìn nhận của người Pháp về các yếu tố đặc
trưng của quyền sở hữu, như được khẳng định tại Điều 544 BLDS Napoléon:
“Quyền sở hữu là quyền hưởng dụng và định đoạt tài sản một cách tuyệt
đối nhất, miễn là không phạm điều cấm theo luật hoặc theo văn bản lập
quy”[1].
Điểm khác biệt đáng chú ý nhất có lẽ là việc cụm từ “quyền chiếm hữu”
được ghi nhận trong định nghĩa chính thức về nội dung quyền sở hữu trong
BLDS Việt Nam, nhưng không thấy xuất hiện trong điều luật tương ứng của
BLDS Pháp.
Tuy
nhiên, chính sự khác biệt ấy đã dẫn đến sự hình thành một chế độ pháp
lý về sở hữu rất đặc thù trong luật Việt Nam. Điều này khiến cho một
mặt, luật Việt Nam trở nên khó hiểu đối với thế giới, mặt khác, việc
thực hiện quyền sở hữu trở nên phức tạp do sự trộn lẫn các quyền năng có
tính chất khác biệt trong khuôn khổ một chế định duy nhất.
2. Chiếm hữu và quyền sở hữu
2.1. Nội dung của quyền sở hữu theo luật của các nước tiền tiến
Truyền thống La Mã. Từ rất sớm, người La Mã đã phân tích được quyền sở hữu thành một tập hợp của ba nhóm quyền năng, gọi là usus, fructus và abusus[2]. Một cách ngắn gọn, usus là quyền sử dụng tài sản, quyền khai thác công năng của tài sản nhằm phục vụ cho nhu cầu của chủ thể; fructus là quyền thu nhận những lợi ích vật chất mà tài sản mang lại, đặc biệt là những lợi ích được nhận dạng dưới hình thức hoa lợi (fruits) của tài sản; còn abusus
là quyền định đoạt tài sản, bao gồm định đoạt vật chất (tiêu dùng, tiêu
huỷ,...) và định đoạt pháp lý (bán, tặng cho, để thừa kế,…).
Quan
niệm về nội dung của quyền sở hữu như trên được quán triệt trong luật
của các nước tiền tiến, đặc biệt là các nước châu Âu, và được sử dụng
như một công cụ chủ yếu để phân tích các quyền chủ thể đối với tài sản,
nhằm làm rõ bản chất của các quyền ấy, tạo điều kiện cho việc xây dựng,
hoàn thiện các chế độ pháp lý liên quan. Chẳng hạn, quyền sở hữu được
ghi nhận ở một người khi người đó có đủ ba quyền năng - dùng, thu lợi và
định đoạt; người chỉ có quyền dùng và quyền thu lợi được gọi là người
hưởng dụng (usufructuary); còn người chỉ có quyền dùng thì được gọi là người sử dụng hoặc người mượn tài sản.
2.2. Chiếm hữu theo luật của các nước tiền tiến
2.2.1. Tính chất của quan hệ chiếm hữu
Sự nhìn nhận quyền sở hữu theo góc nhìn cuộc sống đời thường.
Tình huống điển hình là có một người xuất hiện công khai trong dáng vẻ,
tư thế của người có những quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản.
Dáng vẻ, tư thế ấy được thể hiện trong cách ứng xử trong mối quan hệ với
tài sản, chẳng hạn điều khiển xe chạy trên đường, sinh hoạt trong nhà,…
Thông thường, người tỏ ra có quyền đối với tài sản cũng là người thực
sự có quyền: họ là chủ, người thuê, người mượn hợp pháp. Nhưng không
loại trừ khả năng đó chỉ là một người tự tiện chiếm dụng tài sản, thậm
chí là kẻ trộm, cướp. Nói khác đi, quyền năng được thể hiện trên thực tế
đối với tài sản không hẳn lúc nào cũng phản ánh trung thực mối quan hệ
pháp lý giữa người thực hiện quyền năng và tài sản đó.
Điều
chắc chắn, và hợp lý, hợp tình, là chừng nào người thực hiện quyền năng
bề ngoài ấy chưa phải đứng trước một cuộc sát hạch về tư cách pháp lý,
chẳng hạn, trong khuôn khổ một vụ tranh chấp trước toà án về quyền sở
hữu đối với tài sản, thì người này được và cần được, phải được thừa nhận
là người có quyền đối với tài sản đó. Sự thừa nhận ấy thể hiện thành
cách ứng xử cụ thể mà người ta dành cho người đang thực hiện quyền năng
đối với tài sản. Tuỳ theo tính chất tôn trọng hay không tôn trọng đối
với người được cho là có quyền năng, hành vi ứng xử của người khác được
cho là đúng mực hay không đúng mực và được pháp luật điều chỉnh một cách
tương ứng.
Bởi
vậy mới có một câu chuyện thú vị: A trộm túi xách trong cửa hàng của B.
Trên đường về nhà, A bị kẻ cướp chặn đường, giật lấy túi xách. Việc xảy
ra trước mắt C, là anh ruột của B. C xông vào can thiệp, giành lại túi
xách và trả cho A. Về đến nhà, C nghe nói B đã bị kẻ trộm lẻn vào cửa
hàng lấy mất một chiếc túi xách; tuy nhiên, C không biết rằng mình đã có
dịp đối mặt với kẻ trộm, thậm chí đã giúp đỡ kẻ ấy giành lại chiếc túi
xách, mà suy cho cùng là của em ruột mình.
Tình
trạng thực tế mà trong đó, A trong câu chuyện xuất hiện trước mắt C như
một người có quyền sở hữu đối với tài sản và quyền sở đó đang bị người
khác xâm hại, được luật học của các nước gọi là chiếm hữu (possession, từ nguyên gốc trong tiếng latinh possessio).
Về
phương diện học thuật, chiếm hữu được hiểu là việc một người thể hiện
bằng những ứng xử cụ thể các quyền năng đối với một tài sản. Chiếm hữu
với tư cách chủ sở hữu là việc một người tỏ ra có các quyền của chủ sở
hữu đối với tài sản.
Trong
chừng mực nào đó, chiếm hữu được coi là biểu hiện bề ngoài của quyền sở
hữu. Biểu hiện ấy có thể phản ánh trung thực nội dung bên trong của
quyền, nghĩa là người tỏ ra có quyền cũng thực sự là người có quyền đó.
Nhưng nó cũng có thể hoàn toàn trái ngược với nội dung ấy: trường hợp kẻ
trộm túi xách trong câu chuyện nói trên là một ví dụ.
2.2.2. Thiết lập quan hệ chiếm hữu
Corpus và animus[3].
Quyền sở hữu được xác lập theo những căn cứ như chuyển nhượng, để thừa
kế, theo thời hiệu,… Nói chung, khi đề cập đến việc thiết lập quyền sở
hữu của một người đối với một tài sản, người ta chú ý cách thức mà những
quyền năng của chủ sở hữu được trao cho người này. Điều quan trọng là
các cách thức ấy phải hợp lệ thì quyền sở hữu mới được coi là thiết lập
hợp pháp và được bảo vệ: hợp đồng mua bán phải có giá trị thì quyền sở
hữu mới được chuyển cho người mua; di chúc phải có giá trị thì người
thừa kế theo di chúc mới xác lập được quyền sở hữu đối với tài sản thừa
kế;…
Trong
khi đó, sự chiếm hữu được ghi nhận trong hoàn cảnh cụ thể và được người
ta cảm nhận; sự cảm nhận ấy dẫn dắt người ta đi đến chỗ thừa nhận tư
cách của người chiếm hữu mà không bận tâm đến việc tìm hiểu tính xác
thực, hợp pháp của tư cách đó. Người can thiệp C trong câu chuyện nói
trên không thể biết rằng A đã có được chiếc túi xách ấy nhờ trộm cắp.
Trước mắt C là một người có những biểu hiện cho thấy là chủ nhân của một
tài sản và quyền sở hữu của người này đối với tài sản đang bị người
khác xâm hại.
Ở
góc độ khoa học luật, các biểu hiện ấy được phân tích thành hai nhóm
yếu tố cấu thành quan hệ chiếm hữu và được người La Mã lần lượt gọi là corpus và animus.
Corpus
là yếu tố vật chất, còn gọi là yếu tố khách quan của sự chiếm hữu. Yếu
tố này biểu hiện thành các hành vi ứng xử cụ thể cho thấy người ứng xử
là người có quyền đối với tài sản. Các hành vi ấy có thể mang tính chất
vật chất: cất đồ đạc trong tủ, coi sóc nhà cửa, chăm sóc cây cối,…[4].
Nhưng đó cũng có thể là hành vi ứng xử mang tính pháp lý: trả tiền thuế
đất cho cơ quan thuế và nhận hoá đơn, giao kết hợp đồng cho mượn, gửi
giữ tài sản,…
Animus
là yếu tố ý chí, còn gọi là yếu tố chủ quan. Đó là trạng thái tâm lý
thể hiện thành thái độ ứng xử hàm chứa quyền năng của người chiếm hữu
đối với tài sản. Thái độ đó khiến người ta ghi nhận ở người chiếm hữu
phong độ của một người có quyền đối với tài sản, phân biệt với những
người khác thuộc phần còn lại của thế giới.
Thiết lập quan hệ chiếm hữu theo luật của các nước tiêu biểu. Ở
Đức, Pháp và nói chung các nước Tây Âu, sự chiếm hữu được ghi nhận và
được thừa nhận trên nguyên tắc, không chỉ trong cuộc sống đời thường mà
cả trong luật, một khi có sự hội tụ của corpus và animus ở một người.
Có
những trường hợp nắm giữ tài sản mà ai cũng biết không thể được coi là
chiếm hữu, chẳng hạn, người thợ máy đang loay hoay sửa một chiếc xe bị
hỏng hóc kỹ thuật để trong ga ra chắc chắn không phải là người chiếm hữu
chiếc xe đó; hoặc người lái xe chở hàng không phải là người chiếm hữu
số hàng đó. Nhưng thông thường, một người có hành vi tác động lên một
tài sản đồng thời cũng thể hiện quyền năng của mình trong hành vi đó, để
cho phép mọi người ghi nhận tư cách người chiếm hữu của người đó đối
với tài sản. Trong một tình huống đặc thù, người chiếm hữu với tư cách
chủ sở hữu chuyển giao tài sản cho người khác sử dụng theo hợp đồng
(mượn, thuê,…). Khi đó, cả hai đều là được coi người chiếm hữu, một
người (người mượn, thuê,…) chiếm hữu trực tiếp, còn người kia chiếm hữu
gián tiếp.
2.2.3. Hiệu lực pháp lý của việc chiếm hữu
Bảo vệ sự chiếm hữu.
Là một tình trạng thực tế, nhưng chiếm hữu lại phát sinh hiệu lực pháp
lý như một quan hệ giữa một người - gọi là người chiếm hữu - và một vật,
được pháp luật thừa nhận, điều chỉnh.
Tư
tưởng chủ đạo là sự chiếm hữu được bảo vệ theo một chế độ riêng, phân
biệt với chế độ bảo vệ quyền sở hữu. Thông thường, người chiếm hữu cũng
đồng thời là chủ sở hữu đích thực, hợp pháp của tài sản[5]. Bởi vậy, một cách hợp lý, người chiếm hữu được luật suy đoán là chủ sở hữu.
Chính
vì được suy đoán là chủ sở hữu mà người chiếm hữu trong câu chuyện trộm
túi xách nói trên được coi là nạn nhân của một vụ cướp giật trong mắt
người đi đường và được bảo vệ. Ứng xử của C trong câu chuyện hoàn toàn
phù hợp với các chuẩn mực sống trong xã hội có tổ chức và được khuyến
khích như là cách ứng xử cần thiết nhằm góp phần duy trì trật tự xã hội.
Trong
khuôn khổ một tranh chấp pháp lý về nội dung của quyền đối với tài sản,
người chiếm hữu được miễn trách nhiệm chứng minh: người nào nói rằng
người đang chiếm hữu không phải là chủ sở hữu thì phải trưng ra được các
bằng chứng thuyết phục về điều mình khẳng định.
Cần
nhấn mạnh rằng, sự bảo vệ người chiếm hữu là việc làm cần thiết trước
hết nhằm duy trì trật tự xã hội. Đơn giản, việc chiếm hữu đang diễn ra
trước mắt mọi người như là một phần của khung cảnh sống bình yên trong
xã hội. Việc ai đó có hành vi xâm phạm sự chiếm hữu của người khác bằng
kiểu ứng xử lệch chuẩn, thậm chí trái pháp luật, như chiếm đoạt bằng vũ
lực, phải bị ngăn chặn, xử lý. Trong câu chuyện túi xách nói trên, giả
sử B tình cờ gặp A ở nơi công cộng với chiếc túi xách trong tay, thì B
phải báo cho nhà chức trách để có biện pháp xử lý vụ việc theo trình tự,
thủ tục đòi lại tài sản do pháp luật quy định. B không được tự tiện
xông tới dùng sức mạnh cơ bắp, vũ khí để giành lại tài sản: nếu B làm
việc đó, thì trong mắt mọi người, B có hành vi xâm phạm tài sản của
người khác, qua đó, xâm phạm trật tự xã hội và phải bị chế tài.
Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
Chiếm hữu tài sản một cách liên tục, công khai trong một thời gian dài,
người chiếm hữu mà không có quyền rốt cuộc sẽ có được quyền đó. Người
chiếm hữu trong tư thế chủ sở hữu, dù không phải là chủ sở hữu đích
thực, sau một thời gian, sẽ được thừa nhận là chủ sở hữu hợp pháp đối
với tài sản.
Để
được hưởng sự thừa nhận đó, điều quan trọng là người chiếm hữu phải
chiếm hữu trong tư thế và với thái độ tâm lý của người có quyền. Bởi
vậy, người nghĩ rằng mình chỉ là một người thuê tài sản và ứng xử phù
hợp với suy nghĩ đó, chẳng hạn, bằng cách trả tiền thuê đều đặn, không
bao giờ có thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với tài sản, dù
việc chiếm hữu tài sản thuê có kéo dài đến bao lâu.
Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi cho người chiếm hữu ngay tình.
Người chiếm hữu mà không phải là chủ sở hữu tất nhiên có nghĩa vụ giao
trả tài sản cho chủ sở hữu đích thực, đặc biệt là sau một vụ kiện đòi
lại tài sản hoặc sau một vụ huỷ bỏ hợp đồng chuyển quyền sở hữu tài sản.
Về
mặt lý thuyết, khi giao trả tài sản, thì người chiếm hữu cũng phải giao
trả cả hoa lợi, lợi tức gắn với tài sản, bởi những thứ đó, theo luật,
là của chủ sở hữu tài sản gốc. Vấn đề, đối với người chiếm hữu ngay
tình, là khi thu nhận hoa lợi, lợi tức, người này tin tưởng một cách
chính đáng rằng chính mình là chủ sở hữu tài sản và cũng là chủ sở hữu
hoa lợi, lợi tức phát sinh. Thông thường, hoa lợi, lợi tức là tài sản
tiêu hao: một khi được thu nhận, tài sản đó thường được phải tiêu thụ
trong thời gian ngắn. Do đó, buộc người chiếm hữu hoàn trả hoa lợi, lợi
tức có nghĩa là buộc người này trả nợ bằng tiền. Nếu thời gian chiếm giữ
tài sản kéo dài, số tiền có thể rất lớn và thực sự là một gánh nặng đối
với người chiếm hữu. Trong trường hợp người chiếm hữu là ngay tình, áp
đặt một gánh nặng như thế là không hợp với lẽ phải.
Bởi
vậy, luật các nước quyết định thừa nhận quyền sở hữu của người chiếm
hữu ngay tình đối với hoa lợi, lợi tức gắn với tài sản chiếm hữu. Quyền
này được thừa nhận chừng nào sự ngay tình còn được duy trì và chấm dứt
từ lúc người chiếm hữu biết hoặc buộc phải biết mình không phải là người
có quyền sở hữu đối với tài sản.
3. Quyền sở hữu và chiếm hữu trong luật Việt Nam hiện hành
3.1. Chiếm hữu là một phần nội dung của quyền sở hữu
Quyền sở hữu = quyền chiếm hữu + (usus và fructus) + abusus. Như
đã nói, quyền sở hữu theo luật Việt Nam hiện hành gồm có ba yếu tố -
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Quyền định đoạt có
nội hàm tương tự như abusus trong luật La Mã; quyền sử dụng, trong chừng mực nào đó, là sự kết hợp của usus và fructus.
Còn lại quyền chiếm hữu cần được xây dựng nội hàm thích ứng trong điều
kiện luật ở các nước không coi quyền này là một phần nội dung của quyền
sở hữu.
Người
làm luật Việt Nam giải quyết vấn đề bằng cách, một mặt cố gắng xây dựng
một định nghĩa pháp lý chính thức cho quyền chiếm hữu như là một phần
nội dung của quyền sở hữu[6],
mặt khác, tiếp nhận một phần các giải pháp cho vấn đề hiệu lực pháp lý
của quan hệ chiếm hữu được thừa nhận trong luật của các nước. Với cách
làm đó, luật Việt Nam có nhiều điểm lạ đáng chú ý.
3.2. Hệ quả của cách làm đặc thù
Sự chiếm hữu chỉ được bảo vệ một khi thiết lập được mối liên hệ hợp pháp với quyền sở hữu.
Được coi là một phần của quyền sở hữu, quyền chiếm hữu không được bảo
vệ theo một chế độ riêng mà được nhập chung với quyền sở hữu, thành đối
tượng chung của một chế độ bảo vệ duy nhất, gọi là bảo vệ quyền sở hữu,
được quy định tại Chương XV BLDS. Chế độ này được đặc trưng bởi hai
quyền cơ bản - Quyền đòi lại tài sản (Điều 256) và quyền yêu cầu ngăn
chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp (Điều 259).
Điều
kiện để được bảo vệ là việc chiếm hữu phải được xác lập hoặc là có căn
cứ pháp luật, hoặc là không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, gọi
chung là chiếm hữu hợp pháp[7].
Nói rõ hơn, người chiếm hữu chỉ được hưởng sự bảo vệ của luật pháp,
công lực một khi cho thấy sự chiếm hữu là có chính danh, nghĩa là tình
trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản là hệ quả của việc thực hiện
quyền sở hữu hợp pháp của một người nào đó (có thể là chính mình hoặc
một người khác) đối với tài sản.
Trong
câu chuyện của A, B, C kể trên, đúng là C sẽ giao chiếc túi xách lại
cho A, sau khi giành lại được từ tay kẻ cướp giật, mà không bận tâm đến
việc tìm hiểu, rốt cuộc, A là ai, làm sao có được chiếc túi xách đó. Đơn
giản, C ứng xử một cách tự nhiên, theo thói quen của một người dân bình
thường yêu chuộng công lý, lẽ phải.
Nhưng
diễn biến câu chuyện có thể sẽ khác đi, nếu C là nhân viên công lực
đang thi hành nhiệm vụ. Khi đó, C sẽ phải tiến hành các việc cần thiết
nhằm xử lý vụ vi phạm theo quy định của pháp luật, trong đó có việc giao
trả tài sản cho nạn nhân. Trên nguyên tắc, việc giao trả chỉ được thực
hiện một khi có căn cứ thoả đáng cho thấy người nhận lại tài sản đích
thực là chủ nhân hợp pháp của tài sản đó hoặc là người được chủ nhân hợp
pháp chuyển giao quyền sử dụng tài sản một cách hợp lệ. Quá trình kiểm
tra bao gồm việc đặt và giải quyết các vấn đề liên quan đến tính chính
danh của việc nắm giữ đối với tài sản, rốt cuộc, là các vấn đề liên quan
đến nội dung của quyền năng.
Đáng
nói nữa là không chỉ trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt bằng hành
vi vi phạm pháp luật hình sự, như nói trên, mà cả khi việc chiếm hữu tài
sản bị quấy nhiễu trong cuộc sống dân sự, thì để có thể có được hưởng
sự bảo vệ của luật pháp, công lực, người chiếm hữu cũng phải trải qua
cuộc thẩm tra để làm rõ tư cách trong mối quan hệ với quyền sở hữu. Ví
dụ, có một người đang khai thác một phần đất một cách bình yên; một
người khác đến cắm dùi bên cạnh rồi bắt đầu tiến hành lấn chiếm; người
bị lấn chiếm kiện yêu cầu chấm dứt hành vi lấn chiếm. Trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, người khiếu kiện phải chứng minh được rằng mình là
người thực sự có đối với tài sản, thì mới được bảo vệ.
Ở
các nước, với nguyên tắc suy đoán người chiếm hữu là người có quyền thì
trong trường hợp việc chiếm hữu tài sản bị xâm hại, quấy nhiễu bằng
hành vi vi phạm pháp luật, người chiếm hữu được bảo vệ theo cách bảo vệ
mà luật pháp dành cho chủ sở hữu. Điều cần nhấn mạnh là suy cho cùng
người chiếm hữu được bảo vệ không phải vì nhà chức trách tin chắc rằng
đó là chủ sở hữu đích thực của tài sản. Đơn giản, việc chiếm hữu đó là
một phần của cuộc sống xã hội đang diễn ra một cách bình yên; sự bình
yên đó cần được duy trì, bởi nó hàm chứa ít rủi ro xung đột, khủng hoảng
xã hội so với tình cảnh mà người xâm hại, quấy nhiễu việc chiếm hữu tạo
ra bằng hành vi xâm hại, quấy nhiễu của mình.
Đâu là điểm dừng của quá trình kiểm tra?
Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, không có một loại phương
tiện chứng minh nào được chính thức thừa nhận là có khả năng cung cấp
bằng chứng tuyệt đối về quyền sở hữu tài sản. Bởi vây, quá trình thẩm
tra tư cách pháp lý của người nắm giữ tài sản chỉ có thể dẫn dắt người
ta đến một điểm nào đó trên con đường vô tận tìm kiếm thông tin hoàn hảo
về quyền năng của một người đối với tài sản. Ở điểm đó, người kiểm tra
chỉ có thể lựa chọn một trong ba phương án xử lý vụ việc.
Hoặc,
người được kiểm tra tư cách được thừa nhận, theo các bằng chứng được
thẩm định đến lúc đó, là người có quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp
pháp đối với tài sản. Những người khác phải tôn trọng quyền của người
này; người nào có hành vi xâm phạm quyền của người này đối với tài sản
phải bị chế tài theo quy định của pháp luật.
Hoặc,
người được kiểm tra tư cách không được thừa nhận là người có quyền. Khi
đó, lại có hai khả năng. Khả năng thứ nhất là có người khác chứng minh
được một cách thuyết phục trước cơ quan chức năng rằng mình là người có
quyền đối với tài sản; trong trường hợp này, tài sản phải được giao cho
người đó. Khả năng thứ hai là không có ai khác chứng được rằng mình là
người có quyền đối với tài sản; trong trường hợp này, cách xử lý duy
nhất phù hợp với logic của sự việc là coi tài sản như của vô chủ và nhập
vào khối công sản của Nhà nước.
Điều
có thể gây bức xúc, đặc biệt đối với người chiếm hữu tài sản trong
trường hợp bị kết luận là người không có quyền đối với tài sản, là: việc
chiếm hữu đang được thực hiện một cách bình yên; một ngày nọ, quyền
chiếm hữu bị xâm hại, quấy nhiễu, khiến nhà chức trách phải can thiệp và
sự can thiệp ấy lại dẫn đến kết cục như thế. Càng bức xúc hơn nữa trong
điều kiện bản thân sự kết luận chính thức của nhà chức trách lại không
thể có giá trị tuyệt đối, do chẳng bao giờ, trong khung cảnh pháp lý
hiện tại, người ta có thể khẳng định một cách chắc nịch và không thể đảo
ngược rằng người này, người kia là người có quyền đối với tài sản.
4. Kết luận
Luật phải phản ánh cuộc sống bình thường.
Cần phải viết lại các điều luật liên quan đến quyền sở hữu và chiếm hữu
trong BLDS. Điều đó cần thiết để luật Việt Nam không chỉ hiểu được đối
với phần còn lại của thế giới, mà còn có thể được mọi người chấp nhận,
áp dụng, tuân thủ mà không thắc mắc, bất bình vì có cảm giác bị đối xử
không công bằng. Tư tưởng chủ đạo là: có nhiều lúc cần xử sự với nhau
trong cuộc sống dân sự, về phương diện pháp lý, dựa theo những gì được
thấy, được cảm nhận mà không cần tìm hiểu bản chất bên trong của những
điều thấy được, cảm nhận được. Nói khác đi, cần phải để cho cuộc sống
bình thường được phản ánh, thừa nhận trong luật, bởi sự bình thường đó
là một phần của trật tự, bình ổn xã hội, là cái mà luật phải bảo vệ.
Cứ
hình dung câu chuyện chiếm hữu trong luật là sự khái quát hoá câu
chuyện giao tiếp xã hội - pháp lý diễn ra hàng ngày tại một bãi giữ xe
máy điển hình của cơ quan công quyền. Tất cả những người dẫn xe máy vào
bãi giữ xe đều được người trông giữ đối xử như nhau, như là người có
năng lực giao kết hợp đồng gửi giữ: họ giao xe, nhận phiếu gửi, trả phí
trông giữ và nhận lại xe sau khi kết thúc công việc cần làm. Người trông
giữ không và không cần, cũng như không có quyền hạch hỏi để xem người
gửi xe liệu có phải là chủ sở hữu hoặc ít nhất là người chiếm hữu hợp
pháp đối với tài sản, rồi từ đó mới có thái độ ứng xử thích hợp. /.
[1] Nguyên văn Điều
544 BLDS Pháp: “La propriété est le droit de jouir et disposer des
choses de la manière la plus absolue, pourvu qu’on en fasse pas un usage
prohibé par les lois ou par les règlements”.
[2] Có
thể xem, ví dụ: F.Terré và Ph. Simler, Droit civil – Les biens, Précis
Dalloz (Paris), 2006, tr. 79 đến 91; Ph. Malaurie và L. Aynès, Droit civil -
Les biens, Cujas (Paris), 2008, tr. 117 đến 121; Gérard Cornu, Droit
civil- Introduction. Les personnes. Les biens, Montchrestien, 2001, tr.
327 đến 329.
[3] Xem, ví dụ, Radulesco, La notion et les éléments constitutifs de la possession en legislation, Luận án tiến sĩ, Paris, 1925.
[4]
Suy cho cùng, chiếm hữu trước hết là sự chiếm hữu vật chất, sự cầm giữ.
Đối với động sản, đó là việc nắm giữ tài sản trong tay hoặc ít nhất là
trong tầm tay; đối với bất động sản, đó là việc dựng hàng rào làm ranh
giới phân biệt với bất động sản khác.
[5] Bởi nếu thông thường, người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu, thì xã hội đúng là rất mất trật tự.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét