Gia Lai là tỉnh miền
núi, biên giới nằm ở phía Bắc vùng Tây Nguyên, với dân số 1.213.750
người (số liệu thống kê năm 2008) bao gồm 34 cộng đồng dân tộc cùng sinh
sống. Trong đó, người Việt (Kinh) chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân
tộc Jrai (33,5%), Bahnar (13,7%), Giẻ-triêng, Xơ-đăng, Thái, Mường… Cư
dân Gia Lai có thể chia làm hai bộ phận: bộ phận cư dân bản địa đã sinh
sống ở Gia Lai từ lâu đời gồm dân tộc dân tộc Jrai và Bahnar, bộ phận cư
dân mới đến bao gồm người Việt và các dân tộc ít người khác. Đến cuối
năm 2006, Gia Lai có 23.770 người là đồng bào các dân tộc ít người không
thuộc bộ phận các cư dân bản địa, chiếm 2,04% dân số toàn tỉnh (1).
Mặc dù Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có hiệu
lực thi hành 12 năm, nhưng một bộ phận người dân, nhất là người đồng bào
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh vẫn chưa nhận thức hoặc chưa nắm
vững về chế độ hôn nhân và gia đình, quyền và nghĩa vụ cũng như các
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình. Công tác giáo dục,
tuyên truyền, phổ biến pháp luật luôn được các cấp chính quyền quan tâm
chú trọng nhưng với địa bàn rộng lớn, đại bộ phận người dân tộc ít người
thường xuyên sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí tương đối
thấp, tập quán “du canh, du cư” vẫn tồn tại nên việc thi hành pháp luật
về hôn nhân và gia đình đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên thực tiễn
vẫn là một “bài toán” hết sức nan giải. Trên địa bàn tỉnh vẫn còn tồn
tại nhiều hủ tục lạc hậu trong việc kết hôn, ly hôn, chăm sóc, giáo dục,
nuôi dưỡng con hoặc bất bình đẳng nam nữ trong quan hệ hôn nhân…Các hủ
tục lạc hậu này đã cản trở hôn nhân tiến bộ và cản trở hiệu lực, tính
khả thi của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như Nghị định số
32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ, quy định về việc áp dụng
Luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
Một số người dân thuộc đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar
còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu như: trường hợp người mẹ mới sinh con
mà chết sớm thì người con phải chết theo mẹ; con sinh ra mà không có cha
thì bị giết chết hoặc một số trường hợp sinh đôi thì phải giết một
trong hai người con sinh đôi…Các hủ tục lạc hậu này, đã đi ngược lại với
các quy định nhân văn, tiến bộ của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Do vậy, nguyên tắc bảo vệ trẻ em được quy định tại Điều 2 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 không được một bộ phận người dân tôn trọng, thực
hiện.
Người Jrai, Bahnar theo chế độ Mẫu hệ nên con gái
được coi trọng hơn con trai. Quyền hành trong nhà đều do người bà, người
mẹ quyết định. Con gái đến tuổi, muốn kết hôn thì phải đi “bắt chồng”.
Vì vậy, các quy định về bình đẳng trong quan hệ vợ chồng hoặc quy định
về không phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai, con gái – là
những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (quy định
tại Điều 2) cũng bị xâm phạm và không được áp dụng ở một bộ phận người
dân.
Các quy định về điều kiện, thủ tục kết hôn, ly
hôn cũng ít được thực thi hoặc không được người dân chấp hành đầy đủ.
Một bộ phận người dân còn thực hiện việc kết hôn hoặc ly hôn theo phong
tục, lệ làng nên nhiều trường hợp kết hôn mà không có đăng ký kết hôn
hoặc khi ly hôn nhưng không giải quyết bằng việc khởi kiện ra Toà án.
Ngoài ra, trong việc kết hôn người Jrai còn tồn tại tục “Khi người chồng
chết, người vợ tiếp tục lấy anh hoặc em chồng nếu họ còn độc thân. Vợ
chết, người chồng cũng được lấy em vợ dù là em còn bé”.
Trong việc kết hôn, người Jrai, Bahnar có phong tục
không kết hôn với những người cùng dòng họ. Việc lấy họ là theo họ của
người mẹ. Do đó, nhiều trường hợp mặc dù nam nữ không có quan hệ huyết
thống trong phạm vi 3 đời nhưng vẫn bị cấm kết hôn với nhau. Tục lệ này
đã cản trở chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000. Đây cũng là một trong những hạn chế về hiệu lực của các
quy định về kết hôn tại Chương II của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000.
Mặc dù, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật về hôn nhân và gia đình đã được chính quyền địa phương, các tổ
chức xã hội, các cơ quan bảo vệ pháp luật như Toà án, Viện kiểm sát
thường xuyên thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng các hủ tục
này đã tồn tại lâu đời trong bộ phận người đồng bào Jrai, Bahnar từ thế
hệ này sang thế hệ khác nên hiệu quả chưa được như mong đợi. Chính vì
vậy, nhiều chế định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 như: kết hôn,
ly hôn, quan hệ giữa vợ chồng, quan hệ giữa cha, mẹ với con hay các
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình chưa được tôn trọng và
thực hiện hoặc không được áp dụng trong quan hệ hôn nhân và gia đình ở
một số bộ phận người đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar trên địa bàn tỉnh Gia
Lai.
Để Luật hôn nhân và gia đình được thực thi có hiệu
quả trong đời sống xã hội của bộ phận người dân tộc thiểu số, nhằm giữ
gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp; đồng
thời xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình,
chúng tôi kiến nghị các cơ quan chức năng cần tổng kết, rút kinh nghiệm
từ hiệu quả của việc thi hành pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với
đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với đó, cần tiến hành rà soát thực tiễn
thi hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ, quy
định về việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu
số, để có cái nhìn toàn diện, sâu sát về những yếu tố đặc trưng của
từng tộc người đồng bào dân tộc thiểu số. Từ đó, có phương hướng thể chế
hoá hoặc sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình cũng như Nghị định
số 32/2002/NĐ-CP linh hoạt và phù hợp với đặc điểm tự nhiên, đời sống
kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán và sự tác động trở lại của phong
tục, tập quán trong thực tiễn thi hành pháp luật hôn nhân và gia đình.
Bên cạnh đó, để pháp luật về hôn nhân và gia đình dễ
dàng đi vào cuộc sống của bộ phận người dân tộc thiểu số, song song với
việc củng cố, phát triển đội ngũ cán bộ là người dân tộc bản địa, cần
nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật bằng
chính ngôn ngữ của người dân tộc thiểu số. Chú trọng, nhân rộng những
cách thức, biện pháp làm hay có hiệu quả của một số địa phương đã làm
như: biện pháp dùng phong tục, tập quán tốt đẹp, thể hiện bản sắc của
mỗi dân tộc để dần loại trừ, triệt tiêu các phong tục, tập quán cổ hủ,
lạc hậu trái với những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình,
thể hiện cụ thể bằng sự tác động thông qua những người có địa vị cao là
Già làng, Trưởng bản hoặc thông qua vai trò tối cao của người phụ nữ
trong gia đình đối với những đồng bào dân tộc theo chế độ Mẫu hệ…
Điều 6 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “Trong
quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản
sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật
này thì được tôn trọng và phát huy”. Có thể nhận thấy,
việc áp dụng phong tục tập quán có vị trí, vai trò rất quan trọng trong
việc đảm bảo tính khả thi của Luật hôn nhân và gia đình trên thực tiễn
đối với bộ phận người dân tộc thiểu số. Việc duy trì, củng cố, phát
triển phong tục tập quán tốt đẹp có ý nghĩa to lớn trong việc hỗ trợ
Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh mọi quan hệ về hôn nhân và gia đình
đối với bộ phận người dân tộc thiểu số đang sinh sống ở khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa; bảo đảm cho Luật hôn nhân và gia đình được thực
thi có hiệu quả, dễ dàng đi vào đời sống của người đồng bào dân tộc
thiểu số. Do vậy, quy định này cần tiếp tục được khẳng định, kế thừa và
phát triển trong thời gian tới khi sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000.
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét