1. Dẫn nhập
Khoản 1 điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) quy định: “Chương
trình máy tính (CTMT) là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng
các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một
phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện
được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể. CTMT được bảo hộ
như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy”, đồng
thời khoản 2 điều 59 Luật SHTT quy định loại trừ cấp bằng độc quyền
sáng chế (patent) cho CTMT, như vậy pháp luật Việt Nam quy định chỉ bảo
hộ quyền tác giả đối với CTMT.
Nhưng có lẽ còn nhiều vấn đề phải bàn xung quanh quy
định này. Bởi vậy, trên diễn đàn khoa học đã có nhiều quan điểm khác
nhau về bảo hộ CTMT, có thể phân loại các quan điểm này theo các hướng:
1.1. Phân tích những bất cập của việc bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm máy tính (PMMT):
Vào năm 2002, ngay từ trước khi Luật SHTT được ban
hành, đã có ý kiến phân tích những bất cập của việc bảo hộ quyền tác giả
đối với PMMT[3], trong đó nhấn mạnh: nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình
trạng PMMT bị sao chép lậu tràn lan được bắt nguồn từ những tính chất
đặc trưng của PMMT; đề xuất thời hạn bảo hộ PMMT là 25 năm kể từ ngày
được công bố, phổ biến; cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu và người sử
dụng PMMT… Nhưng bài viết này không đề xuất việc tìm một cơ chế khác với
cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với PMMT.
1.2. Cấp patent cho CTMT
Tiếp theo là các đề xuất cấp patent cho CTMT, có thể điểm:
- Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Khoa học quản lý, chuyên ngành SHTT của Nguyễn Thị Phương Thảo với nhan đề Bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính ở Việt Nam hiện nay[4], trong đó tác giả đã đề xuất việc nghiên cứu để có thể cấp patent cho CTMT.
- Nghiên cứu của Nguyễn Như Hà với bài viết Một hướng tiếp cận bảo hộ phần mềm máy tính trong thế giới hội nhập[5], theo quan điểm của tác giả: “…
bảo hộ bằng luật sáng chế đối với PMMT sẽ đảm bảo hiệu quả và đúng với
bản chất của việc bảo hộ PMMT. Chúng ta cũng có thể bảo hộ PMMT bằng một
đạo luật riêng, việc làm này đã và đang tồn tại ở các nước có điều kiện
phát triển giống với Việt Nam như Trung Quốc, Nga”…
- Nghiên cứu của Hoàng Minh Huệ: Một số vấn đề về bảo hộ phần mềm máy tính hiện nay[6] cũng đề xuất việc cấp patent cho PMMT.
1.3. Cần có quy định riêng để bảo hộ CTMT
Trong một nghiên cứu của Trần Văn Hải[7] với nhan đề Chương trình máy tính nên được bảo hộ là đối tượng nào của quyền sở hữu trí tuệ? Tác
giả đã phân tích và đưa ra quan điểm không nên chỉ cấp patent cho CTMT,
cũng không nên chỉ bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT, mà nên có quy
định riêng để bảo hộ CTMT.
Trong một nghiên cứu có liên quan đến PMMT, bài Ý tưởng cấp patent bảo hộ phần mềm của
Aunya Singsangob[8], tác giả điểm các quy định của Hoa Kỳ, Châu Âu,
TRIPS về bảo hộ PMMT, trong đó nói rõ mặc dù quy định bảo hộ quyền tác
giả đối với PMMT, nhưng vẫn bỏ ngỏ khả năng cấp patent cho PMMT.
Như vậy, điểm qua một số nghiên cứu có liên quan đến CTMT có thể đã nhận rõ đang tồn tại các quan điểm khác nhau. Một câu hỏi được đặt ra là: Bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT hoặc cấp patent cho CTMT? Hay nên coi CTMT là một đối tượng độc lập của quyền SHTT? Bài viết này sẽ trả lời câu hỏi vừa đặt ra.
2. Thống nhất thuật ngữ
Trong các tài liệu nghiên cứu về SHTT, thuật ngữ “phần mềm máy tính” (Software) và “chương trình máy tính” (Computer Program) được sử dụng không thống nhất, để thống nhất cách sử dụng thuật ngữ, chúng tôi xin trích dẫn các định nghĩa sau đây:
- “Chương trình máy tính là một dãy các lệnh mà
máy tính điện tử cần thực hiện theo một thứ tự xác định để giải một bài
toán nào đấy” [9].
- Khoản 1 điều 2 Quyết định 128/2000/QĐ-TTg Về một số
chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển công nghiệp
phần mềm định nghĩa: “Phần mềm được hiểu là chương trình, tài liệu mô tả chương trình, tài liệu hỗ trợ, nội dung thông tin số hóa”.
- Luật 10.5.1994 của Pháp định nghĩa: "Phần mềm
máy tính là toàn bộ các chương trình được tiến hành và các quy tắc, có
thể cả tư liệu liên quan đến việc vận hành của một tổng thể dữ liệu”.
Qua các định nghĩa trên, có thể thấy rằng khái niệm
“phần mềm máy tính” có nội hàm rộng hơn khái niệm “chương trình máy
tính”, phải nêu lên mục này là cần thiết, bởi vì tài liệu mô tả chương trình, tài liệu hỗ trợ, nội dung thông tin số hóa như quy định tại Quyết định 128/2000/QĐ-TTg thuộc PMMT nhưng lại không thuộc CTMT. Mà tài liệu mô tả chương trình, tài liệu hỗ trợ… có thể coi là tác phẩm khoa học và đương nhiên được bảo hộ quyền tác giả.
Do đó trong bài viết này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ
CTMT mà không dùng thuật ngữ PMMT cho phù hợp với quy định tại khoản 1
điều 22 Luật SHTT. Cũng cần nhấn mạnh rằng, Hiệp định TRIPS sử dụng
thuật ngữ Computer Programs mà không sử dụng thuật ngữ Computer Software.
Đồng thời, chúng tôi sử dụng thuật ngữ patent với hàm
nghĩa là bằng độc quyền sáng chế (mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau
về thuật ngữ này).[10]
3. Các quy định quốc tế và nước ngoài về bảo hộ CTMT
3.1. Các quy định quốc tế về bảo hộ CTMT
Tháng 2 năm 1985, WIPO và UNESCO đã triệu tập tại
Geneva một nhóm chuyên gia để bàn về các khía cạnh của quyền tác giả bảo
hộ chương trình máy tính, trải qua các cuộc thảo luận và đánh dấu bằng
quy định tại khoản 1 điều 10 Hiệp định TRIPS[11] và điều 4 Hiệp ước của
WIPO về quyền tác giả (WCT)[12] nêu rõ CTMT được bảo hộ như một tác phẩm
văn học theo điều 2 của Công ước Berne.
WCT không định nghĩa CTMT, mà CTMT tại văn bản này được hiểu như tại Quy định mẫu của WIPO về bảo hộ CTMT.
Điểm đáng chú ý là, mặc dù Hiệp định TRIPS quy định
như đã nêu tại khoản 1 điều 10, nhưng tại điều 27, TRIPS cũng không loại
trừ việc cấp patent cho CTMT nếu nó là một giải pháp kỹ thuật đáp ứng
tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp.
Hiệp ước hợp tác về sáng chế (Patent Coorporation Treaty – PCT) tại quy tắc 39/67 (vi) cho phép loại trừ CTMT được cấp patent.
Điều 52 Công ước châu Âu về sáng chế (European Patent
Convention – EPC) loại trừ khả năng CTMT được cấp patent. Nhưng vào năm
1985, Văn phòng sáng chế châu Âu (European Patent Office – EPO) lại đề
nghị loại bỏ hạn chế đã được nêu tại điều 52 EPC, nhiều tổ chức phần mềm
miễn phí đã phản đối đề nghị này của EPO.
3.2. Các quy định nước ngoài về bảo hộ CTMT
Bộ luật quyền tác giả của Hoa Kỳ sửa đổi 2003 (United
States Code Title 17 Copyrights As amended through December 13, 2003)
quy định bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT, nhưng ngay từ năm 1981, Tòa
án Tối cao Hoa Kỳ tại Diamond v. Diehr[13] đã thừa nhận rằng một số sáng
chế phần mềm (Lưu ý: Tòa án Hoa Kỳ sử dụng thuật ngữ sáng chế phần mềm – Software Inventions)
được cấp patent. Tòa án cho rằng phần mềm được liên kết với một cấu
trúc vật lý có thể được cấp patent, ngay cả khi một thuật toán
(algorithm) đã tham gia vào quá trình này.
Ấn Độ – một trong những quốc gia có nền công nghiệp
phần mềm phát triển trên thế giới, đã ban hành đạo luật quyền tác giả
1957 (Copyrights Act, 1957), sửa đổi 1999 quy định về bảo hộ quyền tác
giả đối với CTMT, nhưng đạo luật bằng sáng chế 1970 (Patents Act, 1970)
quy định có thể cấp patent cho CTMT khi nó được liên kết với một cấu
trúc vật lý.
Điều 3 Luật quyền tác giả của Trung Quốc (Copyright
Law of the People’s Republic of China) quy định bảo hộ phần mềm máy tính
(Luật quyền tác giả của Trung Quốc sử dụng thuật ngữ PMMT Computer Software).
Năm 2001, Trung Quốc đã ban hành Quy định bảo hộ PMMT để thực hiện Nghị
định số 339 của Hội đồng nhà nước, điều 6 của Quy định này nêu rõ không
bảo hộ ý tưởng, quy trình, thuật toán… để tạo nên phần mềm.[14]
Như vậy, qua phân tích tại mục 3 cho thấy mặc dù pháp
luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia khác quy định bảo hộ quyền
tác giả đối với CTMT nhưng vẫn không loại trừ khả năng cấp patent cho
CTMT.
Phần tiếp theo của bài viết, bằng cách so sánh giữa
việc bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT và việc cấp patent cho CTMT, tác
giả sẽ chỉ ra những bất cập và những lợi thế của hai cơ chế bảo hộ này,
trên cơ sở đó đề xuất bảo hộ CTMT như đối tượng độc lập của quyền SHTT.
4. Bất cập của việc bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT
4.1. Vi phạm nguyên tắc tính nguyên gốc của tác phẩm
Mục này sẽ phân tích để thấy việc bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT đã vi phạm nguyên tắc tính nguyên gốc của tác phẩm.
Điều kiện tiên quyết để bảo hộ quyền tác giả đối với
một tác phẩm là tính nguyên gốc của tác phẩm đó, có nghĩa là tác phẩm
phải thể hiện là sự sáng tạo của tác giả, hay nói cách khác tác giả phải
tự mình sáng tạo nên tác phẩm mà không sao chép từ tác phẩm/những tác
phẩm khác.
Nhưng trong thực tế thì nhiều CTMT được phát triển
trên cơ sở chương trình phần mềm nguồn mở. Mà chương trình phần mềm
nguồn mở cho phép người khác quyền tự do sử dụng, quyền nghiên cứu và
sửa đổi chương trình, quyền sao chép và tái phát hành phần mềm gốc hoặc
phần mềm đã sửa đổi mà không phải trả phí bản quyền cho những người lập
trình trước. Như vậy, CTMT được phát triển trên cơ sở chương trình phần
mềm nguồn mở không đảm bảo tính nguyên gốc của tác phẩm.
Trong thực tiễn những phần mềm nguồn mở và ứng dụng
thay thế hiện có tại Việt Nam, như: Hệ điều hành nguồn mở có Vietkey
Linux, CMC Linux, Hacao Linux… (thay thế hệ điều hành Windows); Bộ ứng
dụng văn phòng mở có Open Office (thay thế Microsoft Office); Ứng dụng
thay thế khác có Unikey (thay Vietkey), 7-zip (thay Winzip), Mozilla
FireFox và Mozilla FireFox ThunderBird (thay thế Internet Explorer và
Outlook Express), Gimpshop (thay thế Photoshop), Gaim (thay thế Yahoo
Massenger)… Các hệ điều hành nguồn mở, bộ ứng dụng văn phòng, ứng dụng
thay thế vừa nêu được dựa trên hệ điều hành gốc, bởi vậy chúng không đảm
bảo tính nguyên gốc, nhưng pháp luật quyền tác giả vẫn bảo hộ chúng như
những tác phẩm văn học.
Nhưng nếu xem xét CTMT như một đối tượng của sáng chế
thì không cần xét đến tính nguyên gốc của CTMT, mà trước hết CTMT phải
là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết
một vấn đề xác định, bởi vậy câu hỏi quan trọng nhất là: CTMT có đáp ứng
tiêu chí là giải pháp kỹ thuật không? Có ý kiến cho rằng CTMT là những
thuật toán (algorithm – đối tượng loại trừ của sáng chế) nên nó không
được bảo hộ như một sáng chế. Nhưng thuật toán chỉ đóng vai trò là ngôn
ngữ lập trình để xây dựng nên CTMT, chứ CTMT không phải là tập hợp của
những thuật toán thuần túy. Bởi vậy, có thể nói bất kỳ một CTMT nếu là
giải pháp kỹ thuật, liên quan đến việc tạo ra một sản phẩm hoặc một quy
trình mà đáp ứng đủ các tiêu chí tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng
áp dụng công nghiệp thì đều có thể được cấp patent.
Nhận định này có thể gây hiểu lầm vì mâu thuẫn với
quy định tại khoản 1 điều 22 Luật SHTT, nhưng tác giả muốn nhấn mạnh cụm
từ “giải pháp kỹ thuật” và xin lưu ý nếu CTMT mà không phải là giải
pháp thuật thì nó chỉ được bảo hộ quyền tác giả theo quy định tại khoản 1
điều 22 Luật SHTT.
Nhưng Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế do Cục SHTT Việt Nam ban hành lại quy định: “Mặc
dù chương trình máy tính thuộc danh mục các đối tượng không được bảo hộ
với danh nghĩa sáng chế nhưng nếu đối tượng yêu cầu bảo hộ có đặc tính
kỹ thuật và thực sự là một giải pháp kỹ thuật, nhằm giải quyết
một vấn đề kỹ thuật bằng một phương tiện kỹ thuật để tạo ra một hiệu quả
kỹ thuật thì nó có thể được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.[15]
Cụm từ “bằng một phương tiện kỹ thuật” vừa nêu được hiểu là CTMT phải
gắn với một cấu trúc vật lý nhất định và phải tồn tại ở dạng vật thể, có
nghĩa là phải “sờ” được (touchable). Hay nói cách khác, nó phải tồn tại ở dạng hữu hình.
Như vậy, mục này cho thấy việc cấp patent cho CTMT là
hợp lý hơn so với việc bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT, nó có tác
dụng thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của công nghiệp phần mềm.
4.2. Xâm phạm quyền nhân thân của tác giả CTMT
Khi bảo hộ CTMT như một tác phẩm văn học, đồng nghĩa
với việc đã công nhận việc vi phạm pháp luật quyền tác giả là tất yếu,
xin dẫn chứng: việc sửa đổi chương trình phần mềm nguồn mở (mà không cần
sự cho phép của những người lập trình trước) đã vi phạm quyền nhân thân
được quy định tại khoản 4 điều 19 Luật SHTT vì xâm phạm quyền bảo vệ sự
toàn vẹn tác phẩm của người khác.
Trái ngược với khoản 4 điều 19 Luật SHTT, khoản 2
điều 122 Luật SHTT không coi người sử dụng CTMT (nếu được cấp patent)
khi cải tiến CTMT là xâm phạm quyền nhân thân của những người lập trình
trước (khoản 2 điều 122 Luật SHTT không quy định tác giả sáng chế có
quyền bảo vệ sự toàn vẹn của sáng chế).
Bởi vậy, nếu xem CTMT như một đối tượng của sáng chế
thì người phát triển phần mềm nguồn mở thành CTMT mới không vi phạm
khoản 4 điều 19 Luật SHTT.
4.3. Khó thực thi việc bảo hộ quyền tài sản đối với CTMT
Đối với quyền tài sản của CTMT, quyền sao chép là
quyền quan trọng nhất trong nhóm quyền tài sản đối với việc bảo hộ một
CTMT, nhưng khoản 10 điều 4 Luật SHTT lại quy định: Sao chép là
việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi
hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản
sao dưới hình thức điện tử. Quy định này đã bộc lộ hạn chế nhất
định, đó là nó ngăn cản người sử dụng máy tính làm một bản sao CTMT đề
phòng sự cố kỹ thuật máy tính khi sử dụng bản gốc CTMT.
Do đặc tính số hóa, mà việc thực thi quyền tài sản đối với CTMT rất khó vì:
- CTMT dễ bị sao chép, hơn nữa khác biệt với bản sao
tác phẩm mỹ thuật (có chất lượng thấp hơn so với bản gốc), bản sao CTMT
có chất lượng ngang bằng với bản gốc CTMT, từ một bản sao CTMT người ta
có thể tạo thành nhiều bản sao khác.
- CTMT dễ phổ biến: việc phổ biến CTMT có thể thực
hiện từ cấu trúc hữu hình (như đĩa CD-ROM, USB…) hoặc cấu trúc vô hình
(qua mạng interrnet) với tốc độ cao.
- CTMT dễ lưu trữ: do đặc tính vô hình của CTMT, việc
lưu trữ nó là dễ dàng, trong nhiều trường hợp ngay cả chủ sở hữu của
CTMT cũng khó có thể nhận ra chủ thể khác đang lưu trữ tài sản của mình.
Bởi vậy, có thể nói việc thực thi quyền tài sản đối với CTMT là rất khó khăn.
5. Lợi thế của việc bảo hộ quyền tác giả và bất cập của việc cấp patent cho CTMT thể hiện qua nguyên tắc bảo hộ
5.1. Lợi thế của việc bảo hộ quyền tác giả qua nguyên tắc bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng
Pháp luật quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện
của tác phẩm chứ không bảo hộ ý tưởng của tác phẩm. CTMT sẽ vô nghĩa
khi bị đánh cắp ý tưởng, nhưng chủ sở hữu CTMT sẽ bị thiệt hại về kinh
tế khi nó bị sao chép bất hợp pháp. Trong khi đó quyền tài sản quan
trọng nhất đối với một tác phẩm là quyền sao chép tác phẩm, do đó bảo hộ
CTMT theo quyền tác giả là cơ chế mạnh nhất nhằm ngăn cản sự sao chép
bất hợp pháp CTMT.
Pháp luật quyền tác giả không bảo hộ ý tưởng của
CTMT, bởi vậy nó không ngăn cản người sử dụng CTMT tiến hành các phân
tích ngược[16] để giải mã tìm ra nguyên lý hoạt động, cấu trúc của CTMT
nhằm mục đích nghiên cứu, phát triển CTMT. Người tiến hành phân tích
ngược thành công và tạo nên CTMT mới là chủ sở hữu của CTMT mới đó. Quy
định này có ý nghĩa khoa học, kinh tế – xã hội rất cao, nó thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển của công nghiệp phần mềm.
Qua phân tích này, chúng ta thấy bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT là hợp lý.
5.2. Bất cập của việc cấp patent cho CTMT qua nguyên tắc bảo hộ nội dung của ý tưởng
Trái ngược với nguyên tắc vừa phân tích ở trên, pháp
luật về sáng chế lại bảo hộ nội dung của ý tưởng[17], khi CTMT được cấp
patent thì việc phân tích ngược vì mục đích kinh tế được coi là hành vi
bất hợp pháp.
Cũng cần phải nói thêm rằng phân tích ngược CTMT được
cấp patent là một việc thừa, vô nghĩa. Bởi vì, điểm a, khoản 2 điều 102
Luật SHTT quy định khi một chủ thể nộp đơn yêu cầu cấp patent cho CTMT
thì kèm theo đơn phải có bản mô tả sáng chế đáp ứng điều kiện: “Bộc
lộ đầy đủ và rõ ràng bản chất của sáng chế đến mức căn cứ vào đó người
có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện
được sáng chế đó”. Những thông tin này được lưu giữ tại sổ đăng ký quốc gia. Tại Việt Nam, theo quy định tại điểm e khoản 1 điều 19 Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN: “Các
sổ đăng ký quốc gia do Cục SHTT lập và lưu giữ dưới dạng giấy, điện tử
hoặc các phương tiện khác. Bất kỳ người nào cũng có thể tra cứu sổ đăng
ký điện tử hoặc yêu cầu Cục SHTT cấp bản sao hoặc bản trích lục sổ đăng
ký, với điều kiện phải nộp phí cấp bản sao”. Đối với các sáng chế
không được bảo hộ tại Việt Nam, có thể tra cứu các thông tin về chúng
trên các website của WIPO hoặc của chính cơ quan sáng chế quốc gia – nơi
bảo hộ sáng chế đó.
Khi phân tích nguyên tắc này, chúng ta cũng thấy bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT là hợp lý.
5.3. Bất cập của việc cấp patent cho CTMT qua nguyên tắc nộp đơn đầu tiên
Khi có đồng thời nhiều chủ thể cùng nghiên cứu và
sáng tạo thành công một CTMT thì patent chỉ được cấp cho chủ thể nộp đơn
yêu cầu bảo hộ đầu tiên, CTMT bị coi là mất tính mới nếu chủ thể sáng
tạo nên nó nộp đơn sau.
Tính mới là tiêu chí quan trọng nhất để một CTMT được
cấp patent, nhưng việc xác định tính mới của CTMT trong thời đại công
nghệ thông tin là một điều khó khăn, mỗi ngày trên thế giới có thể cho
ra đời nhiều CTMT, bởi vậy có thể kéo dài thời gian hơn so với luật định
để xét cấp patent cho một CTMT.
Một người độc lập nghiên cứu mà sáng tạo nên CTMT (đã
được cấp patent cho người khác) sẽ không được công nhận là chủ sở hữu
của CTMT do mình sáng tạo nên, bởi vì CTMT đã mất tính mới. Cơ
chế cấp patent cho CTMT đã không cho phép một người làm chủ sở hữu thành
quả sáng tạo của mình nếu có một người khác “nhanh chân” hơn đăng ký
yêu cầu cấp patent cho CTMT.
Như vậy, qua phân tích tại mục 5, chúng ta thấy bảo
hộ quyền tác giả đối với CTMT là hợp lý. Nhưng việc bảo hộ quyền tác giả
đối với CTMT cũng bộc lộ những bất cập dưới đây.
6. Bất cập của việc cấp patent và bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT thể hiện qua thời hạn bảo hộ
6.1. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Thời hạn bảo hộ quyền nhân thân của tác giả CTMT được
quy định tại khoản 1, 2, 4 điều 19 Luật SHTT là vĩnh viễn. Như đã phân
tích ở trên, quy định này là không cần thiết vì nó ngăn cản quyền của
người sử dụng khi cải tiến, nâng cấp CTMT. Thực tế thì quy định này
không được thực hiện đối với CTMT.
Quyền tài sản đối với CTMT được bảo hộ suốt cuộc đời
tác giả cộng với 50 năm kể từ thời điểm tác giả chết là quá dài đối với
vòng đời của CTMT.
6.2. Thời hạn bảo hộ sáng chế
Hiệu lực của sáng chế bắt đầu kể từ thời điểm patent
được cấp cho CTMT và kéo dài 20 năm kể từ thời điểm nộp đơn hợp lệ. Thời
hạn bảo hộ này cũng được coi là quá dài đối với vòng đời của CTMT.
Qua phân tích về thời hạn bảo hộ quá dài đối với vòng
đời của CTMT khi nó được bảo hộ quyền tác giả hoặc được cấp patent đều
là không hợp lý.
Như vậy, việc bảo hộ quyền tác giả hay cấp patent cho
CTMT đều thể hiện sự bất cập nhất định như đã phân tích. Khác với ý
kiến của một số nhà nghiên cứu là nên cấp patent cho CTMT (như đã nêu
tại mục 1.2.), chúng tôi cho rằng CTMT là khác biệt với tác phẩm văn học
và cũng khác biệt với sáng chế, bởi vậy cần phân loại CTMT để có thể
tìm cơ chế bảo hộ đối với mỗi loại CTMT khác nhau.
7. Giải pháp cho việc bảo hộ CTMT
7.1. Giải pháp trước mắt: phân loại CTMT để bảo hộ
Có nhiều cách phân loại CTMT, tuy nhiên căn cứ vào sự giao tiếp giữa người và máy tính có thể phân loại CTMT thành: hệ điều hành, chương trình hệ thống nhúng, chương trình ứng dụng, chương trình hệ thống [18].
7.1.1. Cấp patent cho CTMT
Tham khảo kinh nghiệm của hai quốc gia có nền công
nghiệp phần mềm phát triển, có thể lấy ví dụ trường hợp của Ấn Độ và Hoa
Kỳ. Đạo luật bằng sáng chế 1970 (Patents Act, 1970) của Ấn Độ quy định
có thể cấp patent cho CTMT khi nó được kết hợp với một cấu trúc vật lý.
Án lệ số 450 U.S. 175 (1981) của Hoa Kỳ công nhận phần mềm được liên kết
với một cấu trúc vật lý thì có thể được cấp patent.
Nhưng trong thực tế, cơ quan Sáng chế Hoa Kỳ đã cấp patent cho CTMT khi nó không liên kết với một cấu trúc vật lý. Có thể dẫn chứng, ngày 05.06.2012 cơ quan Sáng chế Hoa Kỳ đã cấp:
- Patent số US8195953 (B1) cho sáng chế “Chương trình máy tính được xây dựng trong phần mềm bảo vệ độc hại”[19]
- Patent số US8196206 (B1) cho sáng chế “Trình
duyệt hệ thống mạng, phương pháp, sản phẩm chương trình máy tính để quét
dữ liệu cho nội dung không mong muốn và các trang web liên quan không
mong muốn”[20].
Tại Việt Nam, mặc dù khoản 1 điều 22 Luật SHTT quy định như đã nêu, nhưng Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế do Cục SHTT ban hành cũng vận dụng việc cấp patent cho CTMT được gắn với một cấu trúc vật lý, có thể dẫn chứng:
- Patent số 4341 cấp ngày 26.07.2004 (số đơn 1-2000-01144 nộp ngày 14/04/1999, số đơn quốc tế là PCT/JP00/02229) có tên: “Thiết bị quản lý dữ liệu, phương pháp quản lý dữ liệu và vật ghi chương trình quản lý dữ liệu”.
- Patent số 9570 cấp ngày 27.09.2011 (số đơn 1-2008-1027 nộp ngày 28/09/2006, số đơn quốc tế là PCT/IB06/002693) có tên: “Thiết bị, phương pháp và vật ghi chương trình máy tính để yêu cầu tăng tốc độ dữ liệu dựa vào khả năng truyền thêm ít nhất một khối dữ liệu được chọn”.
Có thể coi thực tiễn này là một gợi ý cho việc sửa
đổi, bổ sung Luật SHTT. Cũng cần nói thêm là cho đến thời điểm này, tại
Việt Nam nếu CTMT không "gắn" với "sản phẩm" thì không thể được cấp
patent, như quy định của Cục SHTT đã chỉ rõ: “Trong trường hợp chương
trình máy tính có khả năng được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế như nêu
trên, thì trong yêu cầu bảo hộ, các đối tượng có tên được thể hiện bằng
cụm từ như “chương trình máy tính”, “phần mềm máy tính”, “sản phẩm
chương trình/phần mềm máy tính”, hoặc “tín hiệu mang chương trình”, và
các cụm từ tương đương khác là không được chấp nhận”.[21]
Như đã biết, để có thể được cấp patent thì trước hết
CTMT phải là một giải pháp kỹ thuật. Lý thuyết về sáng chế coi giải pháp
kỹ thuật tồn tại ở 3 dạng: vật thể, chất thể, quy trình. Như vậy, giải
pháp kỹ thuật có thể tồn tại ở dạng hữu hình hoặc dạng vô hình.[22]
Qua kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Ấn Độ và thực tế ở Việt
Nam đã xem CTMT là giải pháp kỹ thuật ở dạng vật thể, khi nó liên kết
với một cấu trúc vật lý. Đặc biệt, Hoa Kỳ đã cấp patent cho CTMT khi nó
không liên kết với bất kỳ một cấu trúc vật lý nào, hay nói cách khác
patent có thể cấp cho CTMT ngay cả khi nó tồn tại ở dạng vô hình.
Bởi vậy, tác giả đề xuất có thể ban hành quy định bảo hộ sáng chế đối với ba loại CTMT sau:
1. Hệ điều hành (Operating System), bởi vì nó
là một phần mềm cần thiết để người dùng quản lý hệ thống và chạy các
phần mềm ứng dụng khác trên hệ thống. Nó không chỉ có nghĩa là "phần
lõi" tương tác trực tiếp với phần cứng mà còn cả các thư viện cần thiết
để các chương trình quản lý và điều chỉnh hệ thống.
2. Hệ thống nhúng (Embedded System), bởi vì nó
là một hệ thống có khả năng tự trị được nhúng vào trong một môi trường
hay một hệ thống mẹ. Đó là các hệ thống tích hợp cả phần cứng và phần
mềm phục vụ các bài toán chuyên dụng trong nhiều lĩnh vực như công
nghiệp, tự động hóa điều khiển, quan trắc và truyền tin.
3. Phần mềm hệ thống (System Software), bởi vì đây là
phần mềm giúp hệ thống máy tính hoạt động, nhiệm vụ của nó là tích hợp,
điều khiển và quản lý các phần cứng riêng biệt của hệ thống máy tính.
Phần mềm hệ thống thực hiện các chức năng như chuyển dữ liệu từ bộ nhớ
vào đĩa, xuất văn bản ra màn hình.
7.1.2. Bảo hộ quyền tác giả đối với CTMT
Ban hành quy định bảo hộ quyền tác giả đối với Phần mềm ứng dụng (Application Software), bởi vì đây là
một loại chương trình có khả năng làm cho máy tính thực hiện trực tiếp
một công việc nào đó theo yêu cầu của người dùng. Phần mềm ứng dụng
không liên kết với phần cứng của máy tính.
7.2. Giải pháp lâu dài
Nên coi CTMT là đối tượng độc lập của quyền SHTT, bởi
vì bảo hộ quyền tác giả cho CTMT hay cấp patent cho nó đều bộc lộ những
bất cập như đã phân tích. Khi coi CTMT là đối tượng độc lập của quyền
SHTT thì phải có quy định riêng để bảo hộ nó, quy định này không phải là
bản sao các quy định của pháp luật quyền tác giả và pháp luật về sáng
chế, nhưng nó phải loại bỏ được những bất hợp lý trong các mục như đã
phân tích ở trên, trong đó nên có những quy định đáp ứng các điểm sau:
- Tách CTMT như một đối tượng độc lập được bảo hộ
quyền SHTT. Thực tế cho thấy, do sự phát triển của khoa học và công
nghệ, nên những năm gần đây mới xuất hiện thêm các đối tượng mới của
quyền SHTT như chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn…
Bởi vậy, CTMT được xuất hiện như một đối tượng mới của quyền SHTT cũng
là điều bình thường.
- Không kéo dài thời hạn bảo hộ quyền tài sản đối với
CTMT là suốt cuộc đời tác giả và được chấm dứt vào năm thứ 50 khi tác
giả (hoặc đồng tác giả cuối cùng qua đời) như quy định hiện hành. Quy
định này có thể kéo lùi sự phát triển của công nghiệp phần mềm, thực
tiễn cho thấy hiện nay ít thấy người còn dùng hệ điều hành Window 95.
Bởi vậy rất cần sự phân loại CTMT để quy định thời hạn bảo hộ quyền tài
sản đối với mỗi loại CTMT cho thích hợp. Tác giả đề xuất, thời hạn bảo
hộ đối với CTMT lớn, các hệ điều hành là 10 năm (có thể gia hạn bảo hộ 1
lần), thời hạn bảo hộ đối với các CTMT còn lại là 5 năm (có thể gia hạn
bảo hộ 1 lần). Việc quy định gia hạn bảo hộ là cần thiết, vì trong thực
tế vòng đời công nghệ của các CTMT có thể khác nhau, tác giả/chủ sở hữu
CTMT chỉ yêu cầu gia hạn bảo hộ nếu CTMT đó còn có ý nghĩa. Sau thời
hạn trên, CTMT thuộc tài sản chung của nhân loại, mọi người có thể sử
dụng và nâng cấp CTMT đó. Rất có thể vòng đời của một CTMT nào đó kết
thúc sớm hơn thời hạn được bảo hộ, nhưng pháp luật cũng khó có thể điều
chỉnh chi tiết đến từng đối tượng cụ thể được, cũng như thời hạn bảo hộ
cho sáng chế là 20 năm, nhưng có nhiều công nghệ được bảo hộ là sáng chế
đã bị tiêu vong sớm hơn 20 năm.
- Tham khảo điều 117 Luật quyền tác giả của Hoa Kỳ để
sửa đổi khoản 10 điều 4 Luật SHTT quy định về sao chép, pháp luật phải
cho phép người sử dụng CTMT được quyền lưu giữ bản sao CTMT đề phòng sự
cố kỹ thuật của máy tính. Đề xuất này nên được coi là hiển nhiên, vì
trên thế giới có nhiều nước đã ban hành quy định này, ví dụ điều 26g
Luật quyền tác giả của Thụy Điển quy định: “Bất kỳ người nào có quyền
sử dụng CTMT thì được quyền làm bản sao dự phòng của chương trình đó,
nếu điều này là cần thiết cho mục đích sử dụng chương trình”.
- Cho phép chủ sở hữu hoặc người sử dụng CTMT được
quyền cải tiến, nâng cấp CTMT (mà không bị coi là xâm phạm quyền nhân
thân của những người lập trình trước) và được công nhận là chủ sở hữu
của phần nâng cấp đó. Nếu trong trường hợp, phần nâng cấp chỉ có thể
hoạt động được khi phải sử dụng CTMT gốc thì cần quy định thêm chủ sở
hữu CTMT gốc phải cho phép người nâng cấp sử dụng CTMT gốc (có thu phí).
Khi tham khảo Luật Quyền tác giả của Thụy Điển, ta thấy quy định tại
điều 26g: “Bất kỳ người nào có được quyền sử dụng CTMT thì được quyền
làm bản sao chương trình và tiến hành các cải biên chuyển thể cần thiết
phục vụ cho mục đích sử dụng của bản thân người đó. Điều này cũng áp
dụng đối với các chỉnh sửa lỗi”[23] đã chuyển tải ý tưởng này.
Trên diễn đàn pháp luật quốc tế, Việt Nam nên đóng
góp tiếng nói của mình vào việc yêu cầu phê chuẩn một văn bản pháp luật
đa phương quy định các quốc gia phải tôn trọng quyền tài sản đối với
CTMT do tổ chức hoặc cá nhân của một quốc gia khác làm chủ sở hữu.
* * *
Trên đây là các phân tích và đề xuất bước đầu, tác
giả biết rằng đây là vấn đề pháp lý phức tạp ngay cả đối với các quốc
gia có nền công nghiệp phần mềm tiên tiến. Bởi vậy, vấn đề này nên tiếp
tục được các nhà chuyên môn nghiên cứu sâu thêm.
Tác giả trân trọng và tiếp thu tất cả các ý kiến khác với quan điểm của bài viết này.,.
[1] Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, ISSN 0866-7446, số 11 (295)/2012, tr. 33-42
[2] Tiến sĩ Luật, Chủ nhiệm Khoa Khoa học quản lý,
Chủ nhiệm Bộ môn Sở hữu trí tuệ, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Điện thoại cơ quan: 043.558.6013, di động:
0903.211.972, email: tranhailinhvn@yahoo.com
[3] Nguyễn Đình Huy, Một vài suy nghĩ về bảo hộ phần mềm máy tính ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 8/2002
[4] Nguyễn Thị Phương Thảo, Bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính ở Việt Nam hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Bộ môn SHTT, Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.
[5] Nguyễn Như Hà (Thạc sĩ, giảng viên Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội), Một hướng tiếp cận bảo hộ phần mềm máy tính trong thế giới hội nhập, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 (236) năm 2007
[6] Hoàng Minh Huệ, (Thạc sĩ, cựu học viên cao học Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội), Một số vấn đề về bảo hộ phần mềm máy tính hiện nay, Tạp chí Hoạt động khoa học số 596, 2009
[7] Trần Văn Hải, Chương trình máy tính nên được bảo hộ là đối tượng nào của quyền sở hữu trí tuệ? Tạp chí Hoạt động khoa học số 597, 2009
[8] Aunya Singsangob, The Idea of Software Patent Protections, The Harmonisation of ASEAN Competition Laws and Efficiency of the Judiciary in Thailand, 2007
[9] Đặng Quế Vinh, Kỹ thuật lập trình, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2003, trang 10
[10] Xin tham khảo thêm: Phạm Phi Anh, Trần Văn Hải, Sáng chế và mẫu hữu ích, Bài giảng dành cho chuyên ngành SHTT, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr.36
[11] Khoản 1 điều 10 Hiệp định TRIPS quy định: Computer programs, whether in source or object code, shall be protected as literary works under the Berne Convention (1971).
[12] Điều 4 WCT quy định:
Computer Programs are protected as literary works within the meaning of
Article 2 of the Berne Convention. Such protection applies to computer
programs, whatever may be the mode or form of their expression
[13] Án lệ số 450 U.S. 175 (1981),… acknowledged that some software inventions were patentable subject matter under 35 U.S.C. 101
[14] Regulation for Computer Software Protection (Promulgated on December 20, 2001 by Decree No.339 of the State Council). Article 6: Protection
for software copyright offered by this Regulation may not be extended
to the ideas, processing operations, operating methods or algorithm
concepts for creating the software.
[15] Trích điều 5.8.2.5 Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế (Ban hành kèm theo Quyết định số 487/QĐ-SHTT ngày 31/3/2010 của Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ).
[16] http://www.evolutionnews.org/2007/04/ định nghĩa: “Reverse
engineering is the process of discovering the technological principles
of a device or object or system through analysis of its structure,
function and operation”.
[17] Phạm Phi Anh, Trần Văn Hải (2011), sđd, tr.27
[18] Nguyễn Vân Anh, Định hướng ứng dụng và sáng tạo chương trình máy tính trên cơ sở giải mã công nghệ, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 632, 2012
[19] United States Patent US8195953 (B1): “Computer program with built-in malware protection”.
[20] United States Patent US8196206 (B1): “Network
browser system, method, and computer program product for scanning data
for unwanted content and associated unwanted sites”.
[21] Trích điều 5.8.2.5 Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế, đd
[22] Phạm Phi Anh, Trần Văn Hải (2011), sđd, tr.19-21
[23] Act on Copyright in literary and artistic Works
(Act 1960: 729, of December 30, 1960, as amended up to April 1, 2009).
Article 26g. “Anyone who has acquired the right to use a computer
program is entitled to make such copies of the program and to make such
adaptations of the program which are necessary in order for him to use
the program for its intended purpose. This also applies to corrections
of errors”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét