1. Bất cập của các chế định pháp luật về bảo đảm an toàn tài chính công ty cổ phần, lợi ích của cổ đông và chủ nợ
1.1. Bảo đảm quyền được biết thông tin về hợp đồng vay và mua, bán tài sản
Quan hệ hợp đồng vay tạo cho chủ nợ có quyền lợi
ưu tiên hơn so với cổ đông. Về nguyên tắc, khi công ty không trả được
nợ, chủ nợ sẽ xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Trong trường hợp thỏa
thuận vay không có tài sản bảo đảm thì chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu
Toà án tuyên bố phá sản công ty để thu hồi nợ.
Sự thỏa thuận thu hồi nợ trong hợp đồng và sử
dụng quyền lực của Tòa án để thu hồi nợ đặt các công ty vào tình trạng
bất ổn khi không thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Trong hàng loạt
các giao dịch của mình, không phải giao dịch nào cũng mang lại lợi nhuận
cho công ty, rủi ro trong thực hiện dự án có thể dẫn tới đổ bể công ty
nếu không kịp thời giải quyết vấn đề nợ.
Không phải tất cả cổ đông đều có cơ hội như nhau
trong nắm bắt các thông tin về đầu tư, vay nợ và mua bán tài sản. Trên
thực tế, các cổ đông lớn là cá nhân và người đại diện ủy quyền của cổ
đông pháp nhân thường tham gia vào bộ máy quản lý, điều hành công ty.
Theo Luật DN, cổ đông có thể tiếp cận thông tin tài chính thông qua báo
cáo tình hình kinh doanh của công ty hàng năm, hoặc kết quả trả lời của
Ban kiểm soát (BKS) về kiểm tra, xem xét các vấn đề cụ thể liên quan đến
quản lý, điều hành công ty. Đối với việc quyết định kinh doanh, Đại hội
đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) chỉ quyết định khi đầu tư hoặc bán số tài sản có
giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo
cáo tài chính gần nhất của công ty nếu điều lệ công ty không quy định
một tỉ lệ khác (điểm d khoản 2 Điều 96); còn hợp đồng mua, bán, vay, cho
vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài
sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất thuộc thẩm quyền thông qua
của Hội đồng quản trị (HĐQT - điểm g khoản 2 Điều 108). Ngoài ra, HĐQT
còn có thẩm quyền chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ
hơn 50% tổng giá trị tài sản (khoản 2 Điều 120). Hơn thế nữa, nhằm hạn
chế giao dịch tư lợi, khoản 1 Điều 120 quy định các giao dịch phải được
ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận: (i) Cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ
đông sở hữu trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những
người liên quan đến họ; (ii) Thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc; (iii) Doanh nghiệp có liên quan đến việc sở hữu của thành viên
HĐQT, thành viên BKS, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác
của công ty; doanh nghiệp mà những người liên quan của họ cùng sở hữu
hoặc sở hữu riêng cổ phần hoặc phần vốn góp trên 35% vốn điều lệ. Theo
quy định này, thẩm quyền quyết định để kiểm soát xung đột lợi ích chưa
chắc đã thuộc về ĐHĐCĐ khi điều lệ công ty ghi nhận thẩm quyền này thuộc
HĐQT. Như vậy, quyền quyết định kinh doanh trong CTCP chủ yếu tập trung
cho HĐQT.
Ngoài ra, Luật DN cũng quy định về chế độ công khai thông tin về CTCP khá đơn giản. Điều 129 quy định: CTCP phải gửi
báo cáo tài chính hàng năm đã được ĐHĐCĐ thông qua đến cơ quan nhà nước
có thẩm quyền; tóm tắt nội dung báo cáo tài chính hàng năm phải được
thông báo đến tất cả cổ đông; mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền xem hoặc
sao chép báo cáo tài chính hàng năm của CTCP tại cơ quan đăng ký kinh
doanh có thẩm quyền. Như vậy, theo
cơ chế này, thông thường khi cổ đông và chủ nợ tiếp cận được thông tin
kết quả hoạt động kinh doanh thua lỗ thì cũng đã quá muộn để giúp họ tự
bảo vệ quyền lợi của mình.
Sự phát triển của CTCP về quy mô và cơ cấu cổ
đông đã buộc các CTCP đại chúng phải tuân thủ Luật Chứng khoán (Luật CK)
về nội dung, yêu cầu, trình tự, thủ tục công bố thông tin. Điều 10
Thông tư 52/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 5/4/2012 hướng dẫn về công bố
thông tin trên thị trường chứng khoán cũng quy định cụ thể về việc CTCP
niêm yết và công ty đại chúng quy mô lớn phải công bố báo cáo tài chính
năm được kiểm toán, báo cáo tài chính bán niên đã được soát xét, báo cáo
tài chính quý. Ngoài ra, Điều 101 Luật CK sửa đổi năm 2010 đã bổ sung
về các trường hợp giao dịch vốn và tổn thất tài sản phải công bố thông
tin bất thường. Cụ thể là trong trường hợp: (i) Góp vốn có giá trị từ
10% trở lên tổng tài sản của công ty vào một tổ chức khác, góp vốn có
giá trị từ 50% trở lên tổng vốn góp của công ty nhận vốn góp; (ii) Mua,
bán tài sản có giá trị lớn hơn 15% tổng tài sản của công ty tính theo
bảng cân đối kế toán được kiểm toán gần nhất; (iii) Quyết định vay hoặc
phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn CSH tại thời điểm báo cáo gần
nhất trở lên; và (iv) Bị tổn thất tài sản có giá trị từ 10% vốn của CSH
trở lên. Có thể thấy, quy định trên giúp các nhà đầu tư phán đoán khả
năng sinh lợi của cổ phần và quyết định đầu tư, còn cổ đông thông qua đó
nắm được các hoạt động đầu tư chủ yếu để yêu cầu BKS thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát. So sánh với Luật DN, Luật CK có sự phát triển vượt
bậc, bảo đảm minh bạch thông tin của công ty đại chúng làm cơ sở kiểm
tra, giám sát hành vi quản lý vốn và tài sản của những người quản lý,
điều hành.
Tuy nhiên, trên thực tế, không ít các trường hợp
CTCP rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán với lý do hàng tồn kho,
đầu tư thất bại... nhưng ẩn chứa trong đó là sự tập trung quyền lực cho
HĐQT hoặc người điều hành cùng với hành vi lạm dụng tài sản công ty với
mục đích tư lợi, dẫn tới kết quả công ty kinh doanh thua lỗ và không có
khả năng thu hồi vốn đầu tư[1].
Với chế độ công bố thông tin bất thường theo Luật CK, cổ đông thiểu số
và chủ nợ cũng chỉ có quyền tiếp cận thông tin qua phương tiện thông tin
đại chúng mà không có quyền yêu cầu chi tiết về nội dung thông tin công
bố nên khó có thể kiểm soát được hành vi tư lợi trong giao dịch vốn và
tài sản gắn với các thông tin công bố. Ngoài ra, cơ chế hậu kiểm soát
công bố thông tin định kỳ tạo cho HĐQT và Tổng giám đốc thuận lợi trong
quyết định kinh doanh nhưng lại tạo ra rủi ro cho cổ đông và chủ nợ khi
người quản lý, điều hành thiếu trách nhiệm và không kiểm soát chặt chẽ
sử dụng vốn và tài sản cũng như công khai, minh bạch kết quả kinh doanh.
1.2. Sử dụng thặng dư vốn của chủ sở hữu và bảo vệ quyền lợi của các chủ thể liên quan
Vốn
điều lệ CTCP được hình thành bằng đóng góp của cổ đông. Thông thường,
tăng vốn điều lệ nhằm bổ sung vốn để thực hiện các dự án đầu tư, so với
vay vốn ngân hàng thì tăng vốn điều lệ thường được công ty sử dụng để
tiết kiệm chi phí và tạo ra lợi nhuận cho cổ đông, đặc biệt đối với công
ty có lợi thế chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, đối với công ty huy động
vốn bằng phát hành trái phiếu chào bán ra công chúng, thì đáp ứng yêu
cầu vốn điều lệ tối thiểu là một điều kiện bắt buộc. Ở các nước Anh, Mỹ,
vốn của công ty được coi là phương tiện trả nợ[2].
Quan điểm này cũng giống với ý tưởng lập pháp trong Luật DN nước ta là
ưu tiên thanh toán các khoản nợ đến hạn khi ĐHĐCĐ quyết định chi trả cổ
tức. Tuy nhiên, giao dịch vốn của CSH có ảnh hưởng đến lợi ích của chủ
nợ thì chưa được quy định cụ thể trong Luật DN.
Trên
thực tế, nhiều CTCP phân chia thặng dư vốn dưới hình thức phát hành cổ
phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu tuy tạo lợi ích cho cổ đông nhưng lại
làm giảm giá trị vốn khả dụng của công ty trên sổ sách kế toán. Ngày
10/8/2012, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 130/2012/TT-BTC[3]
(Thông tư 130) thay thế Thông tư 18/2007/TT-BTC ngày 13/3/2007 (Thông
tư 18) có quy định tổng số cổ phiếu thưởng được phát hành theo chương
trình lựa chọn trong mỗi 12 tháng không được vượt quá 5% số cổ phần đang
lưu hành của công ty và mục đích phát hành cổ phiếu thưởng được chỉ
định phân chia cho người lao động, trong khi phát hành cổ phiếu thưởng
theo Thông tư 18 nhằm phân phối cho cổ đông hiện hữu. So với Thông tư
18, Thông tư 130 quy định không rõ về nguồn vốn được sử dụng để phát
hành cổ phiếu thưởng mà chỉ quy định điều kiện là “công ty phải có đủ
nguồn vốn thực hiện căn cứ báo cáo tài chính kỳ gần nhất được kiểm toán
từ các nguồn: thặng dư vốn, quỹ đầu tư phát triển, lợi nhuận sau thuế
chưa phân phối, quỹ khác được sử dụng để bổ sung vốn điều lệ”. Vấn đề
đặt ra là cần phải xác định thế nào là “đủ nguồn vốn” và làm thế nào để
bảo đảm an toàn tài chính của công ty khi sử dụng thặng dư vốn và lợi
nhuận chưa phân phối để phát hành cổ phiếu thưởng. Ngoài ra, Thông tư
130 tạo ra khả năng xung đột lợi ích giữa cổ đông hiện hữu không phải là
người lao động và người lao động không phải là cổ đông. Đây là vấn đề
cần thiết phải làm rõ trong Thông tư 130 cũng như xác định quyền lợi của
người lao động trong Luật DN.
Nhìn
chung, khi duy trì chế độ phát hành cổ phiếu thưởng thì quy định giới
hạn an toàn trong sử dụng thặng dư vốn và lợi nhuận chưa phân phối là
cần thiết, giới hạn này chính là bảo đảm an toàn vốn của công ty và bảo
đảm quyền lợi của chủ nợ, bởi chủ nợ chỉ có quyền yêu cầu công ty trả nợ
chứ không có quyền yêu cầu cổ đông trả nợ.
Ngoài
ra, CTCP có quyền mua lại không quá 30% tổng số cổ phần đã phát hành.
Khi CTCP mua lại cổ phần về thực chất là làm giảm vốn CSH trong tương
quan với vốn nợ. Cũng giống như trường hợp phát hành cổ phiếu thưởng,
công ty quyết định mua lại cổ phần phải đáp ứng điều kiện “đủ nguồn vốn
để mua lại cổ phiếu căn cứ vào báo cáo tài chính kỳ gần nhất được kiểm
toán. Trong trường hợp là công ty mẹ phải đảm bảo đủ nguồn vốn thuộc
quyền sở hữu và sử dụng công ty mẹ trên báo cáo tài chính hợp nhất được
kiểm toán” (Điều 3 Thông tư 30). Quy định này tuy xác định nghĩa vụ của
CTCP là phải đảm bảo đủ nguồn vốn nhưng giới hạn nào là đủ cũng chưa rõ
ràng.
Việc
mua lại cổ phần thuộc thẩm quyền quyết định của ĐHĐCĐ và HĐQT, Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước (UBCK) chỉ xem xét tính đầy đủ và hợp lệ của tài
liệu báo cáo mua lại cổ phiếu của công ty đại chúng, còn công ty đại
chúng sẽ công bố thông tin khi UBCK nhận đủ tài liệu báo cáo (Điều 6
Thông tư 30). Điều này có nghĩa là công bố thông tin chưa chắc đã đảm
bảo tuyệt đối an toàn tài chính của CTCP. Bởi vậy, Luật DN cần bổ sung
quy định về giới hạn an toàn cho các giao dịch vốn của CSH trong CTCP.
1.3. Trách nhiệm quản lý tài chính trong công ty cổ phần
Về
mặt kế toán, các khoản vốn của CSH, vốn vay, các khoản doanh thu, chi
phí trong hoạt động kinh doanh được phản ánh trên hệ thống tài khoản kế
toán và được tổng hợp trong bảng cân đối kế toán khi kết thúc năm tài
chính.
Về
nguyên tắc, cổ đông ủy quyền quản lý kinh doanh cho HĐQT và xác định
các điều kiện để HĐQT bầu ra Tổng giám đốc hoặc Giám đốc. Tổng giám đốc
hoặc Giám đốc, Chủ tịch HĐQT là người có khả năng nắm bắt được thông tin
về lợi nhuận thông qua theo dõi giao kết hợp đồng, thực hiện các dự án
đầu tư, báo cáo kết quả hạch toán kinh doanh trong nội bộ công ty. Bởi
vậy, có thể thấy quyền lợi của cổ đông và chủ nợ có được bảo đảm hay
không phụ thuộc vào thực hiện nghĩa vụ trung thực và cẩn trọng của chính
những người quản lý và điều hành.
Thông
thường, báo cáo của HĐQT và Tổng giám đốc tại ĐHĐCĐ chỉ đề cập đến
những nội dung tổng thể, còn kết quả ghi nhận trên bảng cân đối kế toán
là những “con số tổng” được phân loại theo nguồn vốn, tài sản đầu tư,
lợi nhuận đầu tư trong khi tổng hợp dữ liệu này lại phụ thuộc vào tính
trung thực trong tổ chức hạch toán kế toán và lập bảng cân đối kế toán
trong nội bộ công ty. Việc kiểm tra, xác nhận thông tin trong bảng cân
đối kế toán bởi công ty kiểm toán có ý nghĩa bảo đảm mức độ tin cậy về
thông tin tài chính của CTCP, nhưng trên thực tế, kết quả kiểm toán chưa
chắc được tin cậy khi có hành vi thông đồng gian lận số liệu kế toán
giữa CTCP và công ty kiểm toán. Ngoài ra, chưa kể việc gian lận các số
liệu kế toán từ [V1] phía
CTCP mà chưa được phát hiện bởi công ty kiểm toán. Năm 2011, thị trường
chứng khoán bị “sốc” bởi thông tin chủ nợ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản CTCP Dược Viễn đông (DVD) cũng như thông tin nguyên Tổng giám đốc Lê
Văn Dũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thao túng giá chứng
khoán. Vụ việc này có liên quan đến hàng loạt hành vi vi phạm tài chính
như kinh doanh lòng vòng tạo doanh thu ảo, cung cấp thông tin không đúng
về các hợp đồng có giá trị lớn và doanh thu trong quá trình DVD[V2] chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng công ty kiểm toán không phát hiện được sai phạm[4]. Từ đó có thể thấy rủi ro thông tin khiến cho cả cổ đông và chủ nợ đều có thể bị thiệt hại và có khả năng mất vốn.
Thông
thường, thông tin về vốn của CSH, tổng giá trị tài sản của công ty và
các thông tin về phù hợp giữa tài sản dài hạn và nợ dài hạn, tài sản
ngắn hạn và nợ ngắn hạn trong bảng cân đối kế toán là căn cứ đánh giá
mức độ an toàn tài chính của công ty. Tuy nhiên, tại thời điểm cho vay,
chủ nợ không thể biết hết các thông tin tài chính như tình trạng biến
động về tài sản, cơ cấu nợ trong công ty, bởi vậy, khi ngân hàng cho vay
vốn hoặc công ty cho mua chịu vật tư, hàng hóa phải có thỏa thuận về
bảo đảm tài sản để tự bảo vệ chính mình.
Trong
thời gian qua, không ít trường hợp HĐQT và Tổng giám đốc các CTCP đề
xuất ĐHĐCĐ quyết định chi trả cổ tức, nhưng việc chi trả lại không được
thực hiện. HĐQT và Tổng giám đốc nhiều công ty dựa vào nhiều lý do khác
nhau như thiếu hụt vốn lưu động, khách hàng chậm trả nợ... để hoãn trả
cổ tức cho cổ đông, thậm chí còn trả chậm một vài năm[5].
Lý do chậm trả cổ tức do các công ty đưa ra dường như có vẻ chính đáng
và cổ đông “bất đắc dĩ” phải chấp nhận thiệt hại để ưu tiên duy trì hoạt
động của công ty, tuy nhiên, “hậu trường” của việc chưa trả cổ tức cho
thấy, còn có nhiều nghi vấn về kết quả kinh doanh trên bảng cân đối kế
toán. Tình trạng này xuất hiện do kết quả kinh doanh và đầu tư chưa được
hạch toán đầy đủ và chính xác trong đó phải kể đến trách nhiệm của Tổng
giám đốc và Kế toán trưởng[6]. Trong khi đó, Luật DN chưa xác định vị trí của Kế toán trưởng trong bộ máy quản trị nội bộ CTCP.
Vì
vậy, cần sửa đổi Luật DN một cách tổng thể, nhằm minh bạch hóa hoạt
động quản lý và điều hành trong CTCP giúp cho cổ đông cũng như chủ nợ tự
bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Một số đề xuất sửa đổi Luật Doanh nghiệp
2.1. Bảo đảm an toàn tài chính của công ty cổ phần
Thua lỗ, phá sản là người bạn đồng hành của
doanh nghiệp, chủ nợ có thể yêu cầu thu hồi vốn trước thời hạn khi phát
hiện việc doanh nghiệp sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc yêu cầu Tòa
án tuyên bố phá sản khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán khoản
nợ đến hạn. Điều 16 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cho phép doanh
nghiệp có lỗ được chuyển lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu
nhập chịu thuế; thời hạn chuyển lỗ không quá 5 năm kể từ năm tiếp theo
năm phát sinh lỗ. Quy định này cho phép công ty kinh doanh thua lỗ vẫn
được tồn tại. Thực chất, khi CTCP kinh doanh không có lãi, cổ đông là
người bị ảnh hưởng quyền lợi trực tiếp vừa không được nhận cổ tức, vừa
có khả năng mất vốn nếu công ty bị tuyên bố phá sản. Bảo đảm an toàn tài
chính CTCP cũng chính là bảo vệ cổ đông và uy tín của công ty trên thị
trường. Luật DN cần bổ sung quy định về nghĩa vụ và nguyên tắc trích lập
các quỹ trong CTCP bằng lợi nhuận sau thuế và mức tối thiểu trích lập,
giới hạn an toàn sử dụng thặng dư vốn và lợi nhuận chưa phân phối để tạo
cơ sở pháp lý cho cổ đông, chủ nợ bảo vệ quyền của mình cũng như làm
căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các hành vi vi
phạm của thành viên HĐQT, Tổng giám đốc và Kế toán trưởng.
2.2. Sửa đổi quy định nghĩa vụ công khai thông tin và quyền yêu cầu thông tin trong Luật Doanh nghiệp
Như đề cập ở trên, Luật DN hiện hành chỉ quy
định sơ lược về nghĩa vụ công khai thông tin của CTCP và thiếu những quy
định về nội dung thông tin công bố và quyền yêu cầu thông tin của chủ
nợ.
Với cơ chế công bố thông tin hiện nay, cổ đông
và chủ nợ khó có thể nắm bắt chính xác thực trạng tài chính của công ty
để quyết định mua, bán cổ phần để đầu tư hoặc thu hồi vốn vay trước thời
hạn khi nhận thấy tình trạng không an toàn về tài chính của công ty.
Vì vậy, Luật DN cần quy định nội dung công bố
thông tin góp vốn của CTCP theo tỉ lệ vốn góp/vốn điều lệ mà không nên
quy định tỉ lệ vốn góp/tổng tài sản như trong Luật CK 2010, bởi lẽ giới
hạn an toàn tài chính cần xác định dựa trên vốn thực có của công ty.
Đồng thời, Luật DN cần bổ sung quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông
tin của chủ nợ liên quan đến hoạt động đầu tư, vay vốn để thực hiện dự
án, thông tin về phát hành cổ phiếu thưởng và mua lại cổ phần có ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của công ty.
2.3. Quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và hoàn thiện cơ chế giám sát trong công ty cổ phần
Buộc
chấm dứt hành vi vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại là một trong
những nguyên tắc bảo vệ quyền dân sự được ghi nhận trong Điều 9 Bộ luật
Dân sự. Luật DN cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối
với công ty trong trường hợp hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu khi được
giao kết hoặc thực hiện mà chưa được chấp thuận (khoản 4 Điều 120).
Ngoài ra, Điều 165 quy định áp dụng chung đối với người vi phạm các quy
định của Luật DN, theo đó, tùy tính chất và mức độ vi phạm mà người vi
phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định của pháp luật; trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích
của doanh nghiệp, chủ sở hữu, thành viên, cổ đông, chủ nợ của doanh
nghiệp hoặc người khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Những quy định trên có ý nghĩa xác định trách nhiệm trong quản lý điều
hành của thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc... khi xảy ra hành
vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm dân sự trong
Luật DN chưa đề cập đến bảo vệ lợi ích của bên thứ ba khi có các hành vi
vi phạm liên quan đến hoạt động tài chính của CTCP, chẳng hạn: vi phạm
do các thành viên HĐQT, Tổng giám đốc đề xuất chia cổ tức dựa trên báo
cáo tài chính không trung thực hoặc là gian lận thông tin tài chính để
ký kết các hợp đồng vay dẫn đến tình trạng công ty không trả được khoản
nợ đến hạn... Bởi vậy, Luật DN cần quy định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của người quản lý, điều hành và các thành viên khác trong tổ chức
nội bộ công ty thành một điều khoản bao quát đầy đủ các trường hợp vi
phạm sẽ có ý nghĩa phòng ngừa cũng như khôi phục các thiệt hại về tài
sản xảy ra đối với công ty, cổ đông và chủ nợ.
Hơn
thế nữa, trong hoạt động công ty, Kế toán trưởng có vai trò quan trọng
trong tổ chức kế toán và xem xét tính hợp lý, hợp pháp của các khoản
thu, chi được HĐQT và Tổng giám đốc quyết định. Theo ông Đặng Văn Thanh,
Chủ tịch Hội kế toán, kiểm toán Việt Nam thì “hiện tượng người làm kế
toán trưởng phải chấp nhận một chứng từ kế toán không đúng nguyên tắc
hoặc bị vô hiệu hóa để phục vụ cho lợi ích nhóm là khá phổ biến”[7].
Trong tình trạng này, nếu BKS không kiểm tra xem xét kịp thời sẽ khó có
thể phát hiện vi phạm khi có sự thông đồng giữa HĐQT, Tổng giám đốc và
Kế toán trưởng. Bởi vậy, Luật DN cần quy định nghĩa vụ bắt buộc thành
lập tổ chức kiểm toán nội bộ trong CTCP quy mô lớn để kiểm tra, giám sát
việc sử dụng vốn và tài sản theo cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm. Ngoài
ra, Luật DN cần sửa đổi, bổ sung quy định điều kiện để trở thành thành
viên BKS để tất cả các thành viên BKS phải có chuyên môn về kế toán,
kiểm toán nhằm nâng cao trách nhiệm chuyên môn trong kiểm tra, giám sát
tài chính trong CTCP.
CTCP
có quy mô và đặc trưng khác nhau nên dẫn tới sự khác biệt trong hình
thành tổ chức quản trị nội bộ, Luật DN cần quy định về cơ chế kiểm tra,
giám sát tài chính phù hợp với quy mô vốn hoặc yêu cầu về công khai
thông tin để các CTCP có thể lựa chọn tổ chức phù hợp với khả năng đáp
ứng về chi phí trong CTCP quy mô nhỏ - CTCP phi đại chúng cũng như yêu
cầu bảo vệ quyền lợi của cổ đông và chủ nợ trong CTCP đại chúng.
An
toàn tài chính của công ty không chỉ là sự mong đợi của cổ đông, chủ nợ
mà còn là sự mong đợi các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nói
chung. Sự tồn tại của CTCP vượt ra khỏi mục đích ban đầu là phương tiện
để huy động vốn giúp tìm kiếm lợi nhuận cho cổ đông, nó đã trở thành tập
hợp tài sản ràng buộc lợi ích của công ty với CSH, chủ nợ, Nhà nước,
người tiêu dùng và người lao động. Pháp luật ghi nhận quyền tự do kinh
doanh nhằm hướng các doanh nghiệp hoạt động tạo ra lợi ích cho các chủ
thể. Khi các quy định pháp luật chưa đầy đủ, thiết chế giám sát chưa đủ
mạnh thì khó có thể ngăn ngừa vi phạm pháp luật của người quản lý, điều
hành. Bởi vậy, cần đứng trên quan điểm bảo vệ lợi ích cổ đông và chủ nợ
song hành cùng với bảo vệ tài sản của công ty. Sửa đổi các quy định
trong Luật DN thực sự là cần thiết giúp cho cổ đông và chủ nợ có thể bảo
vệ quyền của mình, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ pháp luật của
người quản lý điều hành, giúp cho CTCP khẳng định vị trí ưu việt và tạo
niềm tin đối với xã hội nói chung./.
[1]
Năm 2010, CTCP Đầu tư tổng hợp Hà Nội (Hanic) phát hành cổ phần mới
bằng chào bán ra công chúng và đã được công khai mục đích sử dụng. Trong
khi vốn CSH là 364 tỉ đồng và tổng tài sản là 590 tỉ đồng nhưng đã cho
vay với công ty Beta trong hợp đồng hợp tác kinh doanh với tổng giá trị
cho vay hơn 100% vốn điều lệ và bằng 64,3% tổng tài sản nhưng không được
ĐHĐCĐ chấp thuận. Sau khi xuất hiện tình trạng không thu hồi được nợ,
Hanic mới giải trình cho Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tham khảo thêm: Uyên Phạm “Hanic bên bờ vực phá sản: Lãnh đạo doanh nghiệp vô can”, Đầu tư chứng khoán 21/3/2012 tr 8,18.
[2]
Tham khảo thêm Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung: Công ty - vốn, quản
lý và tranh chấp theo Luật DN 2005. NXB Tri thức 2009, tr 130.
[3] Thông tư hướng dẫn việc mua lại cổ phiếu, bán cổ phiếu quỹ và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng.
[4] Xem thêm Nhật Minh: Ủy ban Chứng khoán; “Thủ đoạn làm giá DVD quá tinh vi”, ngày 13/9/2011 tải từ http://vnexpress.net.
[5] CTCP Tập đoàn Hòa Phát (HPG) công bố lùi thời hạn chi trả cổ tức năm 2011 từ quý II năm 2012 sang 6
tháng cuối năm 2012 do cổ tức được chi trả bằng cổ phiếu, Tổng công ty
Sông Đà 7 (SD7) và CTCP chiếu xạ An Phú (APC) nợ cổ tức do thiếu hụt vốn
huy động với tình trạng nợ ngắn hạn vượt quá tài sản ngắn hạn.
[6]
Kế toán trưởng với tư cách là người giám đốc tài chính, vừa là người tổ
chức hệ thống thông tin tài chính đồng thời là người tổ chức và kiểm
soát các nguồn lực tài chính.
[7] Thy Nga, “Cần trao quyền phủ quyết cho Kế toán trưởng”, Thời báo Tài chính ngày 26/9/2012 tr 13.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét