Hiển thị các bài đăng có nhãn luật doanh nghiệp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn luật doanh nghiệp. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2013

Sửa đổi Luật Doanh nghiệp để bảo đảm an toàn tài chính công ty cổ phần, lợi ích của cổ đông và chủ nợ

Công ty cổ phần (CTCP) nói riêng và doanh nghiệp nói chung không thể tồn tại và hoạt động lâu dài, hiệu quả nếu thiếu sự hợp tác của chủ sở hữu (CSH), chủ nợ và người quản lý, điều hành. Để điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong quá trình quản lý, sử dụng vốn và tài sản của CTCP, không chỉ giải quyết hậu quả phát sinh mà phải ngăn ngừa nguy cơ xảy ra vi phạm hoặc hạn chế tối đa thiệt hại có khả năng xảy ra. Bài viết phân tích những bất cập của các chế định pháp luật về bảo đảm an toàn tài chính CTCP, lợi ích của cổ đông và chủ nợ; kiến nghị sửa đổi một số nội dung Luật Doanh nghiệp (Luật DN). 
1. Bất cập của các chế định pháp luật về bảo đảm an toàn tài chính công ty cổ phần, lợi ích của cổ đông và chủ nợ
1.1. Bảo đảm quyền được biết thông tin về hợp đồng vay và mua, bán tài sản
Quan hệ hợp đồng vay tạo cho chủ nợ có quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông. Về nguyên tắc, khi công ty không trả được nợ, chủ nợ sẽ xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Trong trường hợp thỏa thuận vay không có tài sản bảo đảm thì chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản công ty để thu hồi nợ.
Sự thỏa thuận thu hồi nợ trong hợp đồng và sử dụng quyền lực của Tòa án để thu hồi nợ đặt các công ty vào tình trạng bất ổn khi không thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Trong hàng loạt các giao dịch của mình, không phải giao dịch nào cũng mang lại lợi nhuận cho công ty, rủi ro trong thực hiện dự án có thể dẫn tới đổ bể công ty nếu không kịp thời giải quyết vấn đề nợ.
Không phải tất cả cổ đông đều có cơ hội như nhau trong nắm bắt các thông tin về đầu tư, vay nợ và mua bán tài sản. Trên thực tế, các cổ đông lớn là cá nhân và người đại diện ủy quyền của cổ đông pháp nhân thường tham gia vào bộ máy quản lý, điều hành công ty. Theo Luật DN, cổ đông có thể tiếp cận thông tin tài chính thông qua báo cáo tình hình kinh doanh của công ty hàng năm, hoặc kết quả trả lời của Ban kiểm soát (BKS) về kiểm tra, xem xét các vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành công ty. Đối với việc quyết định kinh doanh, Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) chỉ quyết định khi đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu điều lệ công ty không quy định một tỉ lệ khác (điểm d khoản 2 Điều 96); còn hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất thuộc thẩm quyền thông qua của Hội đồng quản trị (HĐQT - điểm g khoản 2 Điều 108). Ngoài ra, HĐQT còn có thẩm quyền chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá trị tài sản (khoản 2 Điều 120). Hơn thế nữa, nhằm hạn chế giao dịch tư lợi, khoản 1 Điều 120 quy định các giao dịch phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận: (i) Cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ đông sở hữu trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người liên quan đến họ; (ii) Thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; (iii) Doanh nghiệp có liên quan đến việc sở hữu của thành viên HĐQT, thành viên BKS, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác của công ty; doanh nghiệp mà những người liên quan của họ cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng cổ phần hoặc phần vốn góp trên 35% vốn điều lệ. Theo quy định này, thẩm quyền quyết định để kiểm soát xung đột lợi ích chưa chắc đã thuộc về ĐHĐCĐ khi điều lệ công ty ghi nhận thẩm quyền này thuộc HĐQT. Như vậy, quyền quyết định kinh doanh trong CTCP chủ yếu tập trung cho HĐQT.
 Ngoài ra, Luật DN cũng quy định về chế độ công khai thông tin về CTCP khá đơn giản. Điều 129 quy định: CTCP phải gửi báo cáo tài chính hàng năm đã được ĐHĐCĐ thông qua đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tóm tắt nội dung báo cáo tài chính hàng năm phải được thông báo đến tất cả cổ đông; mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền xem hoặc sao chép báo cáo tài chính hàng năm của CTCP tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Như vậy, theo cơ chế này, thông thường khi cổ đông và chủ nợ tiếp cận được thông tin kết quả hoạt động kinh doanh thua lỗ thì cũng đã quá muộn để giúp họ tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Sự phát triển của CTCP về quy mô và cơ cấu cổ đông đã buộc các CTCP đại chúng phải tuân thủ Luật Chứng khoán (Luật CK) về nội dung, yêu cầu, trình tự, thủ tục công bố thông tin. Điều 10 Thông tư 52/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 5/4/2012 hướng dẫn về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán cũng quy định cụ thể về việc CTCP niêm yết và công ty đại chúng quy mô lớn phải công bố báo cáo tài chính năm được kiểm toán, báo cáo tài chính bán niên đã được soát xét, báo cáo tài chính quý. Ngoài ra, Điều 101 Luật CK sửa đổi năm 2010 đã bổ sung về các trường hợp giao dịch vốn và tổn thất tài sản phải công bố thông tin bất thường. Cụ thể là trong trường hợp: (i) Góp vốn có giá trị từ 10% trở lên tổng tài sản của công ty vào một tổ chức khác, góp vốn có giá trị từ 50% trở lên tổng vốn góp của công ty nhận vốn góp; (ii) Mua, bán tài sản có giá trị lớn hơn 15% tổng tài sản của công ty tính theo bảng cân đối kế toán được kiểm toán gần nhất; (iii) Quyết định vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn CSH tại thời điểm báo cáo gần nhất trở lên; và (iv) Bị tổn thất tài sản có giá trị từ 10% vốn của CSH trở lên. Có thể thấy, quy định trên giúp các nhà đầu tư phán đoán khả năng sinh lợi của cổ phần và quyết định đầu tư, còn cổ đông thông qua đó nắm được các hoạt động đầu tư chủ yếu để yêu cầu BKS thực hiện quyền kiểm tra, giám sát. So sánh với Luật DN, Luật CK có sự phát triển vượt bậc, bảo đảm minh bạch thông tin của công ty đại chúng làm cơ sở kiểm tra, giám sát hành vi quản lý vốn và tài sản của những người quản lý, điều hành.
Tuy nhiên, trên thực tế, không ít các trường hợp CTCP rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán với lý do hàng tồn kho, đầu tư thất bại... nhưng ẩn chứa trong đó là sự tập trung quyền lực cho HĐQT hoặc người điều hành cùng với hành vi lạm dụng tài sản công ty với mục đích tư lợi, dẫn tới kết quả công ty kinh doanh thua lỗ và không có khả năng thu hồi vốn đầu tư[1]. Với chế độ công bố thông tin bất thường theo Luật CK, cổ đông thiểu số và chủ nợ cũng chỉ có quyền tiếp cận thông tin qua phương tiện thông tin đại chúng mà không có quyền yêu cầu chi tiết về nội dung thông tin công bố nên khó có thể kiểm soát được hành vi tư lợi trong giao dịch vốn và tài sản gắn với các thông tin công bố. Ngoài ra, cơ chế hậu kiểm soát công bố thông tin định kỳ tạo cho HĐQT và Tổng giám đốc thuận lợi trong quyết định kinh doanh nhưng lại tạo ra rủi ro cho cổ đông và chủ nợ khi người quản lý, điều hành thiếu trách nhiệm và không kiểm soát chặt chẽ sử dụng vốn và tài sản cũng như công khai, minh bạch kết quả kinh doanh.
1.2. Sử dụng thặng dư vốn của chủ sở hữu và bảo vệ quyền lợi của các chủ thể liên quan
Vốn điều lệ CTCP được hình thành bằng đóng góp của cổ đông. Thông thường, tăng vốn điều lệ nhằm bổ sung vốn để thực hiện các dự án đầu tư, so với vay vốn ngân hàng thì tăng vốn điều lệ thường được công ty sử dụng để tiết kiệm chi phí và tạo ra lợi nhuận cho cổ đông, đặc biệt đối với công ty có lợi thế chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, đối với công ty huy động vốn bằng phát hành trái phiếu chào bán ra công chúng, thì đáp ứng yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu là một điều kiện bắt buộc. Ở các nước Anh, Mỹ, vốn của công ty được coi là phương tiện trả nợ[2]. Quan điểm này cũng giống với ý tưởng lập pháp trong Luật DN nước ta là ưu tiên thanh toán các khoản nợ đến hạn khi ĐHĐCĐ quyết định chi trả cổ tức. Tuy nhiên, giao dịch vốn của CSH có ảnh hưởng đến lợi ích của chủ nợ thì chưa được quy định cụ thể trong Luật DN.
Trên thực tế, nhiều CTCP phân chia thặng dư vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu tuy tạo lợi ích cho cổ đông nhưng lại làm giảm giá trị vốn khả dụng của công ty trên sổ sách kế toán. Ngày 10/8/2012, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 130/2012/TT-BTC[3] (Thông tư 130) thay thế Thông tư 18/2007/TT-BTC ngày 13/3/2007 (Thông tư 18) có quy định tổng số cổ phiếu thưởng được phát hành theo chương trình lựa chọn trong mỗi 12 tháng không được vượt quá 5% số cổ phần đang lưu hành của công ty và mục đích phát hành cổ phiếu thưởng được chỉ định phân chia cho người lao động, trong khi phát hành cổ phiếu thưởng theo Thông tư 18 nhằm phân phối cho cổ đông hiện hữu. So với Thông tư 18, Thông tư 130 quy định không rõ về nguồn vốn được sử dụng để phát hành cổ phiếu thưởng mà chỉ quy định điều kiện là “công ty phải có đủ nguồn vốn thực hiện căn cứ báo cáo tài chính kỳ gần nhất được kiểm toán từ các nguồn: thặng dư vốn, quỹ đầu tư phát triển, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, quỹ khác được sử dụng để bổ sung vốn điều lệ”. Vấn đề đặt ra là cần phải xác định thế nào là “đủ nguồn vốn” và làm thế nào để bảo đảm an toàn tài chính của công ty khi sử dụng thặng dư vốn và lợi nhuận chưa phân phối để phát hành cổ phiếu thưởng. Ngoài ra, Thông tư 130 tạo ra khả năng xung đột lợi ích giữa cổ đông hiện hữu không phải là người lao động và người lao động không phải là cổ đông. Đây là vấn đề cần thiết phải làm rõ trong Thông tư 130 cũng như xác định quyền lợi của người lao động trong Luật DN.
Nhìn chung, khi duy trì chế độ phát hành cổ phiếu thưởng thì quy định giới hạn an toàn trong sử dụng thặng dư vốn và lợi nhuận chưa phân phối là cần thiết, giới hạn này chính là bảo đảm an toàn vốn của công ty và bảo đảm quyền lợi của chủ nợ, bởi chủ nợ chỉ có quyền yêu cầu công ty trả nợ chứ không có quyền yêu cầu cổ đông trả nợ.
Ngoài ra, CTCP có quyền mua lại không quá 30% tổng số cổ phần đã phát hành. Khi CTCP mua lại cổ phần về thực chất là làm giảm vốn CSH trong tương quan với vốn nợ. Cũng giống như trường hợp phát hành cổ phiếu thưởng, công ty quyết định mua lại cổ phần phải đáp ứng điều kiện “đủ nguồn vốn để mua lại cổ phiếu căn cứ vào báo cáo tài chính kỳ gần nhất được kiểm toán. Trong trường hợp là công ty mẹ phải đảm bảo đủ nguồn vốn thuộc quyền sở hữu và sử dụng công ty mẹ trên báo cáo tài chính hợp nhất được kiểm toán” (Điều 3 Thông tư 30). Quy định này tuy xác định nghĩa vụ của CTCP là phải đảm bảo đủ nguồn vốn nhưng giới hạn nào là đủ cũng chưa rõ ràng.
Việc mua lại cổ phần thuộc thẩm quyền quyết định của ĐHĐCĐ và HĐQT, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) chỉ xem xét tính đầy đủ và hợp lệ của tài liệu báo cáo mua lại cổ phiếu của công ty đại chúng, còn công ty đại chúng sẽ công bố thông tin khi UBCK nhận đủ tài liệu báo cáo (Điều 6 Thông tư 30). Điều này có nghĩa là công bố thông tin chưa chắc đã đảm bảo tuyệt đối an toàn tài chính của CTCP. Bởi vậy, Luật DN cần bổ sung quy định về giới hạn an toàn cho các giao dịch vốn của CSH trong CTCP.
1.3. Trách nhiệm quản lý tài chính trong công ty cổ phần
Về mặt kế toán, các khoản vốn của CSH, vốn vay, các khoản doanh thu, chi phí trong hoạt động kinh doanh được phản ánh trên hệ thống tài khoản kế toán và được tổng hợp trong bảng cân đối kế toán khi kết thúc năm tài chính.
Về nguyên tắc, cổ đông ủy quyền quản lý kinh doanh cho HĐQT và xác định các điều kiện để HĐQT bầu ra Tổng giám đốc hoặc Giám đốc. Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Chủ tịch HĐQT là người có khả năng nắm bắt được thông tin về lợi nhuận thông qua theo dõi giao kết hợp đồng, thực hiện các dự án đầu tư, báo cáo kết quả hạch toán kinh doanh trong nội bộ công ty. Bởi vậy, có thể thấy quyền lợi của cổ đông và chủ nợ có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào thực hiện nghĩa vụ trung thực và cẩn trọng của chính những người quản lý và điều hành.
Thông thường, báo cáo của HĐQT và Tổng giám đốc tại ĐHĐCĐ chỉ đề cập đến những nội dung tổng thể, còn kết quả ghi nhận trên bảng cân đối kế toán là những “con số tổng” được phân loại theo nguồn vốn, tài sản đầu tư, lợi nhuận đầu tư trong khi tổng hợp dữ liệu này lại phụ thuộc vào tính trung thực trong tổ chức hạch toán kế toán và lập bảng cân đối kế toán trong nội bộ công ty. Việc kiểm tra, xác nhận thông tin trong bảng cân đối kế toán bởi công ty kiểm toán có ý nghĩa bảo đảm mức độ tin cậy về thông tin tài chính của CTCP, nhưng trên thực tế, kết quả kiểm toán chưa chắc được tin cậy khi có hành vi thông đồng gian lận số liệu kế toán giữa CTCP và công ty kiểm toán. Ngoài ra, chưa kể việc gian lận các số liệu kế toán từ [V1] phía CTCP mà chưa được phát hiện bởi công ty kiểm toán. Năm 2011, thị trường chứng khoán bị “sốc” bởi thông tin chủ nợ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản CTCP Dược Viễn đông (DVD) cũng như thông tin nguyên Tổng giám đốc Lê Văn Dũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thao túng giá chứng khoán. Vụ việc này có liên quan đến hàng loạt hành vi vi phạm tài chính như kinh doanh lòng vòng tạo doanh thu ảo, cung cấp thông tin không đúng về các hợp đồng có giá trị lớn và doanh thu trong quá trình DVD[V2]  chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng công ty kiểm toán không phát hiện được sai phạm[4]. Từ đó có thể thấy rủi ro thông tin khiến cho cả cổ đông và chủ nợ đều có thể bị thiệt hại và có khả năng mất vốn.
Thông thường, thông tin về vốn của CSH, tổng giá trị tài sản của công ty và các thông tin về phù hợp giữa tài sản dài hạn và nợ dài hạn, tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn trong bảng cân đối kế toán là căn cứ đánh giá mức độ an toàn tài chính của công ty. Tuy nhiên, tại thời điểm cho vay, chủ nợ không thể biết hết các thông tin tài chính như tình trạng biến động về tài sản, cơ cấu nợ trong công ty, bởi vậy, khi ngân hàng cho vay vốn hoặc công ty cho mua chịu vật tư, hàng hóa phải có thỏa thuận về bảo đảm tài sản để tự bảo vệ chính mình.
Trong thời gian qua, không ít trường hợp HĐQT và Tổng giám đốc các CTCP đề xuất ĐHĐCĐ quyết định chi trả cổ tức, nhưng việc chi trả lại không được thực hiện. HĐQT và Tổng giám đốc nhiều công ty dựa vào nhiều lý do khác nhau như thiếu hụt vốn lưu động, khách hàng chậm trả nợ... để hoãn trả cổ tức cho cổ đông, thậm chí còn trả chậm một vài năm[5]. Lý do chậm trả cổ tức do các công ty đưa ra dường như có vẻ chính đáng và cổ đông “bất đắc dĩ” phải chấp nhận thiệt hại để ưu tiên duy trì hoạt động của công ty, tuy nhiên, “hậu trường” của việc chưa trả cổ tức cho thấy, còn có nhiều nghi vấn về kết quả kinh doanh trên bảng cân đối kế toán. Tình trạng này xuất hiện do kết quả kinh doanh và đầu tư chưa được hạch toán đầy đủ và chính xác trong đó phải kể đến trách nhiệm của Tổng giám đốc và Kế toán trưởng[6]. Trong khi đó, Luật DN chưa xác định vị trí của Kế toán trưởng trong bộ máy quản trị nội bộ CTCP.
Vì vậy, cần sửa đổi Luật DN một cách tổng thể, nhằm minh bạch hóa hoạt động quản lý và điều hành trong CTCP giúp cho cổ đông cũng như chủ nợ tự bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Một số đề xuất sửa đổi Luật Doanh nghiệp
2.1. Bảo đảm an toàn tài chính của công ty cổ phần
Thua lỗ, phá sản là người bạn đồng hành của doanh nghiệp, chủ nợ có thể yêu cầu thu hồi vốn trước thời hạn khi phát hiện việc doanh nghiệp sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán khoản nợ đến hạn. Điều 16 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có lỗ được chuyển lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế; thời hạn chuyển lỗ không quá 5 năm kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ. Quy định này cho phép công ty kinh doanh thua lỗ vẫn được tồn tại. Thực chất, khi CTCP kinh doanh không có lãi, cổ đông là người bị ảnh hưởng quyền lợi trực tiếp vừa không được nhận cổ tức, vừa có khả năng mất vốn nếu công ty bị tuyên bố phá sản. Bảo đảm an toàn tài chính CTCP cũng chính là bảo vệ cổ đông và uy tín của công ty trên thị trường. Luật DN cần bổ sung quy định về nghĩa vụ và nguyên tắc trích lập các quỹ trong CTCP bằng lợi nhuận sau thuế và mức tối thiểu trích lập, giới hạn an toàn sử dụng thặng dư vốn và lợi nhuận chưa phân phối để tạo cơ sở pháp lý cho cổ đông, chủ nợ bảo vệ quyền của mình cũng như làm căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các hành vi vi phạm của thành viên HĐQT, Tổng giám đốc và Kế toán trưởng.
2.2. Sửa đổi quy định nghĩa vụ công khai thông tin và quyền yêu cầu thông tin trong Luật Doanh nghiệp
Như đề cập ở trên, Luật DN hiện hành chỉ quy định sơ lược về nghĩa vụ công khai thông tin của CTCP và thiếu những quy định về nội dung thông tin công bố và quyền yêu cầu thông tin của chủ nợ.
Với cơ chế công bố thông tin hiện nay, cổ đông và chủ nợ khó có thể nắm bắt chính xác thực trạng tài chính của công ty để quyết định mua, bán cổ phần để đầu tư hoặc thu hồi vốn vay trước thời hạn khi nhận thấy tình trạng không an toàn về tài chính của công ty.
Vì vậy, Luật DN cần quy định nội dung công bố thông tin góp vốn của CTCP theo tỉ lệ vốn góp/vốn điều lệ mà không nên quy định tỉ lệ vốn góp/tổng tài sản như trong Luật CK 2010, bởi lẽ giới hạn an toàn tài chính cần xác định dựa trên vốn thực có của công ty. Đồng thời, Luật DN cần bổ sung quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của chủ nợ liên quan đến hoạt động đầu tư, vay vốn để thực hiện dự án, thông tin về phát hành cổ phiếu thưởng và mua lại cổ phần có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của công ty.
2.3. Quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và hoàn thiện cơ chế giám sát trong công ty cổ phần
Buộc chấm dứt hành vi vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại là một trong những nguyên tắc bảo vệ quyền dân sự được ghi nhận trong Điều 9 Bộ luật Dân sự. Luật DN cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với công ty trong trường hợp hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu khi được giao kết hoặc thực hiện mà chưa được chấp thuận (khoản 4 Điều 120). Ngoài ra, Điều 165 quy định áp dụng chung đối với người vi phạm các quy định của Luật DN, theo đó, tùy tính chất và mức độ vi phạm mà người vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; trường hợp gây thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp, chủ sở hữu, thành viên, cổ đông, chủ nợ của doanh nghiệp hoặc người khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Những quy định trên có ý nghĩa xác định trách nhiệm trong quản lý điều hành của thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc... khi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm dân sự trong Luật DN chưa đề cập đến bảo vệ lợi ích của bên thứ ba khi có các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động tài chính của CTCP, chẳng hạn: vi phạm do các thành viên HĐQT, Tổng giám đốc đề xuất chia cổ tức dựa trên báo cáo tài chính không trung thực hoặc là gian lận thông tin tài chính để ký kết các hợp đồng vay dẫn đến tình trạng công ty không trả được khoản nợ đến hạn... Bởi vậy, Luật DN cần quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người quản lý, điều hành và các thành viên khác trong tổ chức nội bộ công ty thành một điều khoản bao quát đầy đủ các trường hợp vi phạm sẽ có ý nghĩa phòng ngừa cũng như khôi phục các thiệt hại về tài sản xảy ra đối với công ty, cổ đông và chủ nợ.
Hơn thế nữa, trong hoạt động công ty, Kế toán trưởng có vai trò quan trọng trong tổ chức kế toán và xem xét tính hợp lý, hợp pháp của các khoản thu, chi được HĐQT và Tổng giám đốc quyết định. Theo ông Đặng Văn Thanh, Chủ tịch Hội kế toán, kiểm toán Việt Nam thì “hiện tượng người làm kế toán trưởng phải chấp nhận một chứng từ kế toán không đúng nguyên tắc hoặc bị vô hiệu hóa để phục vụ cho lợi ích nhóm là khá phổ biến”[7]. Trong tình trạng này, nếu BKS không kiểm tra xem xét kịp thời sẽ khó có thể phát hiện vi phạm khi có sự thông đồng giữa HĐQT, Tổng giám đốc và Kế toán trưởng. Bởi vậy, Luật DN cần quy định nghĩa vụ bắt buộc thành lập tổ chức kiểm toán nội bộ trong CTCP quy mô lớn để kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn và tài sản theo cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm. Ngoài ra, Luật DN cần sửa đổi, bổ sung quy định điều kiện để trở thành thành viên BKS để tất cả các thành viên BKS phải có chuyên môn về kế toán, kiểm toán nhằm nâng cao trách nhiệm chuyên môn trong kiểm tra, giám sát tài chính trong CTCP.
CTCP có quy mô và đặc trưng khác nhau nên dẫn tới sự khác biệt trong hình thành tổ chức quản trị nội bộ, Luật DN cần quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát tài chính phù hợp với quy mô vốn hoặc yêu cầu về công khai thông tin để các CTCP có thể lựa chọn tổ chức phù hợp với khả năng đáp ứng về chi phí trong CTCP quy mô nhỏ - CTCP phi đại chúng cũng như yêu cầu bảo vệ quyền lợi của cổ đông và chủ nợ trong CTCP đại chúng.
An toàn tài chính của công ty không chỉ là sự mong đợi của cổ đông, chủ nợ mà còn là sự mong đợi các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nói chung. Sự tồn tại của CTCP vượt ra khỏi mục đích ban đầu là phương tiện để huy động vốn giúp tìm kiếm lợi nhuận cho cổ đông, nó đã trở thành tập hợp tài sản ràng buộc lợi ích của công ty với CSH, chủ nợ, Nhà nước, người tiêu dùng và người lao động. Pháp luật ghi nhận quyền tự do kinh doanh nhằm hướng các doanh nghiệp hoạt động tạo ra lợi ích cho các chủ thể. Khi các quy định pháp luật chưa đầy đủ, thiết chế giám sát chưa đủ mạnh thì khó có thể ngăn ngừa vi phạm pháp luật của người quản lý, điều hành. Bởi vậy, cần đứng trên quan điểm bảo vệ lợi ích cổ đông và chủ nợ song hành cùng với bảo vệ tài sản của công ty. Sửa đổi các quy định trong Luật DN thực sự là cần thiết giúp cho cổ đông và chủ nợ có thể bảo vệ quyền của mình, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ pháp luật của người quản lý điều hành, giúp cho CTCP khẳng định vị trí ưu việt và tạo niềm tin đối với xã hội nói chung./.




[1] Năm 2010, CTCP Đầu tư tổng hợp Hà Nội (Hanic) phát hành cổ phần mới bằng chào bán ra công chúng và đã được công khai mục đích sử dụng. Trong khi vốn CSH là 364 tỉ đồng và tổng tài sản là 590 tỉ đồng nhưng đã cho vay với công ty Beta trong hợp đồng hợp tác kinh doanh với tổng giá trị cho vay hơn 100% vốn điều lệ và bằng 64,3% tổng tài sản nhưng không được ĐHĐCĐ chấp thuận. Sau khi xuất hiện tình trạng không thu hồi được nợ, Hanic mới giải trình cho Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tham khảo thêm: Uyên Phạm “Hanic bên bờ vực phá sản: Lãnh đạo doanh nghiệp vô can”, Đầu tư chứng khoán 21/3/2012 tr 8,18.
[2] Tham khảo thêm Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung: Công ty - vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật DN 2005. NXB Tri thức 2009, tr 130.
[3] Thông tư hướng dẫn việc mua lại cổ phiếu, bán cổ phiếu quỹ và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng.
[4] Xem thêm Nhật Minh: Ủy ban Chứng khoán; “Thủ đoạn làm giá DVD quá tinh vi”, ngày 13/9/2011 tải từ http://vnexpress.net.
[5] CTCP Tập đoàn Hòa Phát (HPG) công bố lùi thời hạn chi trả cổ tức năm 2011 từ quý II năm 2012 sang  6 tháng cuối năm 2012 do cổ tức được chi trả bằng cổ phiếu, Tổng công ty Sông Đà 7 (SD7) và CTCP chiếu xạ An Phú (APC) nợ cổ tức do thiếu hụt vốn huy động với tình trạng nợ ngắn hạn vượt quá tài sản ngắn hạn.
[6] Kế toán trưởng với tư cách là người giám đốc tài chính, vừa là người tổ chức hệ thống thông tin tài chính đồng thời là người tổ chức và kiểm soát các nguồn lực tài chính.
[7] Thy Nga, “Cần trao quyền phủ quyết cho Kế toán trưởng”, Thời báo Tài chính  ngày 26/9/2012 tr 13.  

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

Quy định về vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam-dưới một góc nhìn so sánh


1.  Vị trí và vai trò của vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp các nước.
Vốn (capital) có vai trò cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ nhà đầu tư nào trên thế giới khi ra thương trường. Nhận xét về vai trò của đồng vốn ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống ngân hàng, Barrios (2003) khẳng định vốn đối với các ngân hàng có vai trò quyết định để đánh giá khả năng tài chính dài hạn và khả năng thanh toán của các ngân hàng cũng như niềm tin của công chúng vào hoạt động của các ngân hàng.[1]Có thể nói, vốn là yêu cầu quan trọng hàng đầu để nhà đầu tư gia nhập thị trường mà các quốc gia đang phát triển kinh tế thị trường không thể không quan tâm. Tuy nhiên, điều đặt ra là ngưỡng vốn tối thiểu bao nhiêu để cho phép nhà đầu tư gia nhập thị trường lại là một vấn đề không đơn giản mà pháp luật doanh nghiệp nhiều nước phải cân nhắc để có những điều chỉnh cho phù hợp. Vì thế, vốn pháp định (legal capital) khi thành lập doanh nghiệp đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của pháp luật doanh nghiệp ở nhiều nước. Pháp luật doanh nghiệp của Trung Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Indonesia, Hàn Quốc, Anh, Hoa Kỳ, Pháp, ..kể cả Việt Nam, cũng đều có những quy phạm pháp luật nhất định để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến vốn pháp định. Mặt khác, sự cần thiết phải áp dụng vốn pháp định đối với doanh nghiệp cũng là đề tài được tranh luận nhiều giữa các nhà khoa học trong thời gian vừa qua. Jennifer Payne (2008) đã luận bàn về vai trò của vốn pháp định ở Anh quốc trong tương quan với quy định vốn pháp định áp dụng tại các quốc gia khác ở Châu Âu sau sự kiện nước Anh ban hành Luật Công ty 2006.[2] Còn John Armour (2006) cũng nêu lên sự cần thiết ở một khía cạnh nhất định vai trò của vốn pháp định áp dụng đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế.[3] Ngay cả Báo cáo thường niên của Ngân hàng Thế giới (WB) về Môi trường kinh doanh toàn cầu bao giờ cũng dành một nội dung quan trọng để nói về sự ”tăng trưởng” hay sụt giảm của cơ chế áp dụng vốn pháp định ở các nền kinh tế trên thế giới.[4] Nhiều năm qua, Ngân hàng Thế giới cũng xác định việc lấy vốn pháp định làm một trong những tiêu chí đánh giá mức độ thông thoáng trong thủ tục thành lập doanh nghiệp cũng như tính hiệu quả của chương trình cải cách thủ tục hành chính ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Luận bàn về vai trò của vốn pháp định, chúng ta thấy rằng ở một số nước, nhà nước kiểm soát hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhà đầu tư, đặc biệt là năng lực tài chính của họ dựa trên mức vốn tối thiểu nhà nước ấn định khi thành lập doanh nghiệp (vốn pháp định), đây được xem là biện pháp cần thiết để đánh giá đúng thực lực và quy mô của nền kinh tế, hạn chế tình trạng nhà đầu tư ra thương trường theo dạng ”tay không ra trận” gây rủi ro cho nền kinh tế nói chung và các đối tác của họ nói riêng. Vốn pháp định được xác định như là một ”ngưỡng” tài chính tối thiểu mà nhà nước yêu cầu nhà đầu tư phải đáp ứng và chứng minh bằng các phương thức khác nhau rồi mới được phép hoạt động kinh doanh. Vốn pháp định là vấn đề phức tạp trong pháp luật doanh nghiệp nhiều nước, vì suy cho cùng quy định vốn pháp định ít nhiều đụng chạm đến quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và việc cải cách thủ tục hành chính trong nền kinh tế. Khi đánh giá về vai trò và phạm vi áp dụng vốn pháp định, do có sự khác biệt về quan điểm chính trị pháp lí và điều kiện kinh tế - xã hội mà các quốc gia cũng nhìn nhận vấn đề vốn pháp định dưới các khía cạnh khác nhau. Thậm chí người ta còn chỉ ra rằng một trong những điểm khác biệt giữa trường phái pháp luật Anh – Mỹ và Châu Âu lục địa thể hiện ở mức độ áp dụng vốn pháp định đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ở các nước theo trường phái Thông luật Anh – Mỹ thì vốn pháp định không phổ biến như là biện pháp để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, chẳng hạn, ở Hoa Kỳ, hầu hết các bang của nước này đều bãi bỏ vốn pháp định như bang California[5] hoặc chỉ còn tồn tại rất ít[6] ở một số tiểu bang như bang Delaware hay NewYork.[7] Ở Anh Quốc, vốn pháp định chỉ áp dụng cho mô hình công ty cổ phần, chứ không áp dụng cho các loại hình công ty khác.[8] Ngược lại, ở các nước Châu Âu lục địa khác thì vốn pháp định vẫn chiếm một vai trò quan trọng trong pháp luật doanh nghiệp.[9]
Ở Việt Nam, quy định về vốn pháp định có quá trình hình thành và phát triển hơn 20 năm từ khi Việt Nam mở cửa kinh tế thị trường.[10] Dù trải qua những giai đoạn thăng trầm nhất định nhưng vốn pháp định vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam suốt từ năm 1990 cho đến nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế cùng với tiến trình cải cách thủ tục hành chính đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì việc nhìn nhận và đánh giá lại pháp luật điều chỉnh vốn pháp định ở Việt Nam trong tương quan với quy định vốn pháp định ở các nền kinh tế khác trên thế giới lại có y nghĩa hơn bao giờ hết, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà những vấn đề về vốn pháp định cho hoạt động của doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản ở Việt Nam vẫn còn đọng lại nhiều vướng mắc, bất cập đòi hỏi phải nhanh chóng và hoàn thiện trong thời gian sớm nhất để tạo ra sự ổn định cho kinh tế nước nhà phát triển bền vững, thoát ra thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế mà Việt Nam đang phải nếm trải suốt từ năm 2008 đến nay.
2. Vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam – Những điểm tương đồng và khác biệt với thế giới
Ở Việt Nam, vốn pháp định  được hiểu là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định pháp luật để thành lập DN.[11] Đó còn được hiểu như là một biện pháp kiểm tra khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp (solvency test).[12] Bất kỳ NĐT nào khi thành lập DN đều phải có một khối lượng tài sản nhất định, tức là họ phải có năng lực tài chính. Nếu DN kinh doanh ngành, nghề mà nhà nước không đòi hỏi phải chứng minh năng lực tài chính thì vốn của DN sẽ do NĐT đăng kí và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của số vốn đó.[13] Như đã phân tích ở trên, việc tồn tại vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp không chi riêng Việt Nam có mà pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng có đề cập đến quy định này ở các góc độ khác nhau. Nhìn chung, quy định vốn pháp định giữa pháp luật doanh nghiệp Việt Nam với các quốc gia khác trên có những điểm tương đồng và khác biệt thể hiện ở những nội dung cơ bản sau :
Thứ nhất, vốn pháp định ở Việt Nam được xác định theo từng ngành, nghề kinh doanh cụ thể, không áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp như hầu hết các nước trên thế giới đã và đang thực hiện..
Khoản 3 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005 và Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010 để quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 2005 đã xác định vốn pháp định với tư cách là mức vốn ”sàn” đối với doanh nghiệp ở Việt Nam không áp dụng đại trà trong nền kinh tế, mà chỉ áp dụng cho từng ngành, nghề kinh doanh cụ thể do pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Có thể nói, lịch sử phát triển của vốn pháp định ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhất định nhưng tất cả đều thống nhất ở chỗ : vốn pháp định ở Việt Nam chưa bao giờ áp dụng theo từng loại hình doanh nghiệp như nhiều nước khác đã và đang làm. Giai đoạn từ  năm 1991 – 1999 vốn pháp định áp dụng tràn lan trong nhiều ngành nghề theo yêu cầu của Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990. Mỗi ngành, nghề Chính phủ Việt Nam đều ấn định một một mức vốn nhất định buộc doanh nghiệp ở Việt Nam phải đáp ứng bằng cách có xác nhận của Ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản hoặc xác nhận của Phòng Công chứng nhà nước về tài sản góp vốn bằng hiện vật khi thành lập. Nhìn chung, vốn pháp định áp dụng trong nhiều ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp giai đoạn 1991-1999 không đem lại hiệu quả trên thực tế mà nguyên nhân là do nhà nước quy định mức vốn tối thiểu quá thấp đã làm mất hết y nghĩa của việc quy định về mức vốn pháp định là nhằm đảm bảo tối thiểu về tài sản của chủ doanh nghiệp đối với việc kinh doanh và đối với khách hàng.[14]  Khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời thì vốn pháp định chỉ còn lại trong số rất ít ngành nghề kinh doanh. Đến thời điểm năm 2003, cả nước chỉ còn một số ngành, nghề DN phải chứng minh vốn pháp định như kinh doanh tiền tệ- tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán và kinh doanh vàng.[15] Sau này khi Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành thì vốn pháp định tiếp tục áp dụng cho một số ngành, nghề như : kinh doanh tiền tệ - tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê, kinh doanh dịch vụ bảo vệ, kinh doanh vận chuyển hàng không, kinh doanh cảng hàng không, kinh doanh cung cấp dịch vụ hàng không, kinh doanh sản xuất phim, kinh doanh Sở giao dịch hàng hoá và kinh doanh dịch vụ kiểm toán độc lập. Chẳng hạn, để kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê thì phải có ít nhất là 2 tỷ VND, kinh doanh bất động sản thì phải có vốn tối thiểu là 6 tỷ VND,....[16] Thực ra, việc tiếp cận vốn pháp định để áp dụng trong từng ngành nghề kinh doanh cụ thể của Việt Nam có nét tương đồng với pháp luật doanh nghiệp của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào khi mà quốc gia này cũng quy định vốn pháp định theo từng ngành, nghề kinh doanh cụ thể.[17]
Trong khi đó, ở nhiều nước, vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp họ lại có cách tiếp cận khác, đó là quy định vốn pháp định áp dụng theo từng loại hình doanh nghiệp, hoặc một mức thống nhất cho doanh nghiệp, chứ không áp dụng theo từng ngành, nghề kinh doanh cụ thể như tại Việt Nam và Lào. Điều này được thể hiện qua các dẫn chứng sau : Ở Phần Lan, vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp mà quốc gia này quy định chung là 2.500 euro.[18] Ở Cộng hòa Dominican từ năm 2011 họ yêu cầu NĐT phải có ít nhất 100.000 Dominican Pesos (khoảng 2.855 USD) để thành lập một công ty TNHH.[19] Ở Indonesia, để thành lập công ty TNHH thì họ bắt buộc NĐT phải có ít nhất 50 triệu rupiah.[20] Ở Hàn Quốc, một công ty cổ phần trong lĩnh vực đầu tư phải có vốn tối thiểu 1 tỷ won,[21] còn trong lĩnh vực thương mại thì vốn pháp định đối với một công ty TNHH là 10 triệu won, trong đó giá trị mỗi phần vốn góp ít nhất là 5.000 won, còn đối công ty cổ phần là 50 triệu won và giá trị danh nghĩa của mỗi cổ phiếu thấp nhất là 100 won.[22] Ở Trung Quốc, để thành lập công ty TNHH một thành viên phải có vốn pháp định là 100.000 yuan, đối với công ty cổ phần là 5.000.000 yuan, còn đối với công ty TNHH hai thành viên là 30.000 yuan.[23] Ở Đức, thành lập công ty TNHH thì họ quy định phải có tối thiểu 25.000 euro, công ty cổ phần là 50.000 euro.[24] Ở Anh Quốc, thành lập công ty cổ phần thì phải có tối thiểu 50.000 euro[25] và ít nhất ¼ trong số đó phải được thành toán đủ khi thành lập.[26] Ở Pháp, để thành lập công ty hợp danh hữu hạn (Société à responsabilité limitée - SARL) thì phải có vốn tối thiểu là 7.500 euro, còn nếu thành lập công ty cổ phần (La Société Anonyme) thì phải có ít nhất 37.000 euro.[27] Ở Romania, để thành lập công ty cổ phần thì phải có ít nhất là 1 triệu ROL.[28] Chính việc không quy định mức vốn pháp định cụ thể áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp hoặc một ngưỡng thống nhất chung cho tất cả các doanh nghiệp như nhiều nước đang làm điều đó có nghĩa là về mặt pháp lí nhà đầu tư ở Việt Nam khi thành lập doanh nghiệp có thể chỉ đăng kí với mức vốn khiêm tốn 1.000 VND vẫn được ! Qua đó, việc gia nhập thị trường của nhà đầu tư sẽ được nhiều thuận lợi hơn, phù hợp với chủ trương phát huy nội lực, giải phóng sức sản xuất trong nhân dân mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện. Theo thống kê, trong năm 2010, cả nước Việt Nam đã có khoảng 85.000 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 500 nghìn tỷ đồng trên phạm vi 63 tỉnh, thành. Bình quân vốn đăng kí của mỗi doanh nghiệp đạt gần 6 tỷ đồng.[29]
Thứ hai, việc quy định mức vốn vốn pháp định cụ thể ở Việt Nam chủ yếu được xác định thông qua các văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành, trong khi ở hầu hết các nước  vốn pháp định của họ lại thường được được điều chỉnh trong các đạo luật có giá trị pháp lí cao hơn do cơ quan lập pháp ban hành.
 Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 thì ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định được xếp vào dạng ngành nghề kinh doanh có điều kiện, theo đó, chỉ có Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ mới có quyền quy định về điều kiện kinh doanh áp dụng trong các ngành nghề nhất định theo luật định. Điều đó có nghĩa là vốn pháp định có thể tồn tại trong các văn bản luật do Quốc hội ban hành hoặc trong các văn bản dưới luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành. Thực tế, ở Việt Nam, danh mục ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định hầu như chỉ được liệt kê trong các Nghị định do Chính phủ ban hành, còn luật và pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chỉ đóng vai trò hết sức mờ nhạt, mang tính định hướng là cơ bản. Chẳng hạn, Luật Kinh doanh Bất động sản do Quốc hội ban hành ngày 29/06/2006 chỉ khẳng định kinh doanh bất động sản là ngành nghề phải có vốn pháp định, nhưng không quy định cụ thể mức vốn đó là bao nhiêu, mà vốn pháp định cho kinh doanh bất động sản lại được ”chuyển tiếp” qua Điều 3 Nghị định 153/2007/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 15/10/2007. Trong khi đó, ở các quốc gia khác nếu có quy định vốn pháp định thì họ lại xác định rõ mức vốn cụ thể trong đạo luật về doanh nghiệp mà cơ quan lập pháp đã ban hành. Ở Trung Quốc, mức vốn pháp định cho các doanh nghiệp  được xác định cụ thể tại các Điều luật số 26, 59 và 81 của Luật Công ty 2005,[30] ở Anh Quốc cũng vậy – Điều 768 Luật Công ty 2006 của họ quy định rõ mức vốn pháp định áp dụng đối với công ty cổ phần là 50.000 euro. Sự khác biệt này có thể dễ dàng giải thích là do xuất phát của vốn pháp định ở Việt Nam áp dụng trong ngành, nghề kinh doanh cho nên các điều luật trong một đạo luật ở Việt Nam cũng không thể liệt kê bao quát hết tất cả các ngành nghề phải có vốn pháp định mà dành việc đó cho các văn bản dưới luật chuyên ngành điều chỉnh cũng là điều hợp lí, trong khi ở các nước khác vốn pháp định thường được quy định chung thống nhất cho một loại hình doanh nghiệp cụ thể hoặc chung cho tất cả các doanh nghiệp thì việc xác định mức vốn tối thiểu trong văn bản luật là điều hết sức phù hợp và dễ dàng thực hiện. Chính việc quy định vốn pháp định trong các văn bản dưới luật cũng dẫn đến hệ quả là so với nhiều nước trên thế giới thì vốn pháp định ở Việt Nam không có tính ổn định cao bằng, đó là điều tất yếu. Ở Trung Quốc, việc điều chỉnh vốn pháp định đối với công ty cổ phần từ con số 10 triệu yuan theo Luật Công ty 1993 xuống còn 5 triệu yuan theo Luật Công ty 2005 phải mất đến 12 năm.[31] Trong khi ở Việt Nam, đối với lĩnh vực ngân hàng hết sức quan trọng nhưng sự điều chỉnh vốn pháp định trong các Nghị định của Chính phủ lại diễn ra hết sức chóng vánh, khiến cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cũng hết sức lúng túng từ con số 50 (70) tỷ đồng theo Nghị định 82/1998/NĐ-CP lên 1.000 tỷ đồng theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP vào thời điểm năm 2008 rồi đến 3.000 tỷ đồng cũng theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP vào thời điểm năm 2010, dự kiến còn có thể tăng lên đến 5.000 tỷ (năm 2012) và 10.000 tỷ đồng (năm 2015) theo định hướng của Chính phủ đã gây xáo trộn lớn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, làm cho cung cầu tiền tệ trên thị trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng, buộc DN phải ”cõng” thêm thủ tục hành chính mà lẽ ra chúng phải được giảm trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế như : doanh nghiệp phải làm thủ tục xin phép Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho phát hành chứng khoán để tăng vốn trên thị trường chứng khoán, phải làm thủ tục xin phép Ngân hàng Nhà nước phê duyệt phương thức tăng vốn, phải làm đơn xin Nhà nước lùi thời hạn tăng vốn pháp định suốt hơn 2 năm qua khiến nhiều ngân hàng cảm thấy mệt mỏi với thủ tục hành chính ”ăn theo” việc tăng vốn này. Hơn nữa, việc quy định vốn pháp định và thay đổi mức vốn nhiều lần trong thời gian ngắn cũng gây bức xúc cho doanh nghiệp. Điều đó thể hiện chính sách thiếu nhất quán mang tính lâu dài trong công tác quản lí nhà nước cho vấn đề vốn pháp định. Tính đến thời điểm tháng 12/2010, có đến 9 ngân hàng thương mại không đáp ứng đủ vốn pháp định 3.000 tỷ đồng, buộc Chính phủ phải cho gia hạn thời hạn tăng vốn pháp định thêm 1 năm nữa đến ngày 31/12/2011, thay cho ngày 31/12/2010 như Nghị định 141/2006/NĐ-CP đã quy định.[32]
Thứ ba, trong khi hầu hết các nước trên thế giới đang có xu hướng giảm bớt vai trò và ảnh hưởng của vốn pháp định đối với doanh nghiệp thì ở Việt Nam vốn pháp định lại đang có chiều hướng gia tăng trở lại trong nhiều ngành nghề
Trên thế giới, phạm vi áp dụng vốn pháp định hiện có nhiều quan điểm khác nhau. Đề xuất của Uỷ ban Châu Âu (EC) nhằm đơn giản hoá Chỉ thị số 02 về vấn đề vốn của doanh nghiệp,[33] mà đang được triển khai mạnh mẽ nhưng cũng tiếp tục gây tranh luận về khả năng mở rộng phạm vi áp dụng vốn pháp định trên diện rộng trong tương lai nữa hay không.[34]
Trong Báo cáo thường niên của Ngân hàng Thế giới (WB) về Môi trường kinh doanh toàn cầu 2011 thì Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia không có quy định vốn pháp định áp dụng trong thành lập doanh nghiệp cùng với một số quốc gia khác trên thế giới như Canada, Bangladesh, Tunisia, Belarus, Colombia.[35] Thực ra, nếu chỉ nhìn vào Báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì các nhà đầu tư dễ hiểu nhầm là ở Việt Nam không áp dụng mức vốn ”sàn” trong thành lập doanh nghiệp. Ngược lại, do đặc thù vốn pháp định ở Việt Nam không áp dụng cho doanh nghiệp như đa phần các quốc gia trên thế giới đã và đang thực hiện, trong từng ngành nghề kinh doanh cụ thể thì nhà nước Việt Nam sẽ có những quy định riêng để điều chỉnh về vấn đề này. Nhưng ở đây có điều cần luận bàn là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh thu hút đầu tư nhiều quốc gia đang tiến tới thu hẹp bớt vai trò của vốn pháp định bằng cách loại bỏ hoàn toàn quy định về vốn pháp định ra khỏi nền kinh tế hoặc điều chỉnh lại vốn pháp định theo hướng giảm xuống để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư gia nhập thị trường. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) thì Bulgaria, Đan Mạch, Kazakhstan, Thụy Điển, Syria, Ukraine, Zambia là những quốc gia đi tiên phong trong việc bãi bỏ hoặc giảm yêu cầu về vốn pháp định trong thành lập doanh nghiệp, trong số đó Zambia đã chính thức bãi bỏ vốn pháp định đối với doanh nghiệp, còn Syria thì giảm bớt yêu cầu vốn pháp định xuống gần 2/3 so với trước, Bulgaria đã giảm mức vốn pháp định từ 5.000 leva (tương đương 3250 USD) xuống chỉ còn 2 leva (tương đương 1.30 USD) để cho sự ra đời của một doanh nghiệp ở xử sở hoa hồng này.[36]Còn Kazkhstan đã giảm mức vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp ở quốc gia này chỉ còn  100 tenge (tương đương 0.70 USD) – những con số chủ yếu chỉ mang tính tượng trưng là cơ bản.[37] Ngay cả Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, nơi nổi tiếng có truyền thống bảo thủ, nhưng năm 2005 họ đã ban hành mới Luật Công ty với nhiều quy định thông thoáng bằng cách loại bỏ hoàn toàn vốn pháp định khi thành lập DN nhằm khuyến khích nhà đầu tư ra thương trường nhiều hơn.[38]Trong khi đó, ở Việt Nam, dù dưới góc nhìn của cộng đồng quốc tế qua đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì không áp dụng vốn pháp định nhưng thực chất vốn pháp định ở Việt Nam lại có dấu hiệu  ”tăng trưởng” âm ỉ trong nhiều ngành, nghề kinh doanh, đặc biệt trong khoảng thời gian từ năm 2006 trở về sau. Đến thời điểm tháng 10/2010, cả nước có khoảng 16 ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định,[39] đó là chưa kể đến ngành nghề kinh doanh dịch vụ kiểm toán độc lập theo Luật Kiểm toán độc lập 2010 phải có vốn pháp định nhưng chờ Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật này quy định mức vốn cụ thể cho nhà đầu tư khi kinh doanh dịch vụ kiểm toán độc lập.
Nếu như vào thời điểm năm 2003, cả nước chỉ có khoảng 3-4 ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định, thì tại thời điểm năm 2011, số lượng ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định đã tăng từ 5-6 lần so với thời điểm năm 2003 và chưa có dấu hiệu dừng lại trong thời gian tới. Sự gia tăng các ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định ở Việt Nam cũng gây nhiều lo ngại cho doanh nghiệp và đi ngược lại tiến trình cải cách thủ tục hành chính mà Nhà nước Việt Nam đang tiến hành. Bởi lẽ, song song với quy định vốn pháp định đó thì hàng loạt các thủ tục hành chính ”ăn theo” vốn pháp định sẽ gắn chặt với doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải có thêm nhiều loại giấy tờ khi thành lập bằng các phương thức khác nhau như xác nhận của ngân hàng về số dư trên tài khoản, đem báo cáo tài chính của doanh nghiệp đi kiểm toán hoặc phải có chứng thư định giá của công ty định giá chuyên nghiệp.[40] Thậm chí, trong một số trường hợp vốn pháp định ở Việt Nam còn được sử dụng để tạo lực cản cho nhà đầu tư gia nhập thị trường, đây là điều mà hiếm khi xuất hiện trong pháp luật doanh nghiệp các nước khác. Chẳng hạn, dẫu biết rằng kinh doanh dịch vụ đòi nợ phải có vốn pháp định 2 tỷ VND nhưng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này không được kinh doanh các ngành, nghề và dịch vụ khác ngoài dịch vụ đòi nợ.[41] Quy định này khiến cho nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thu hồi nợ tại Việt Nam cảm thấy bất ngờ vì chúng xâm hại đến quyền tự do kinh doanh dành cho nhà đầu tư mà Hiến pháp 1992 và Luật Doanh nghiệp 2005 đã công nhận, đồng thời phản ánh sự khác biệt rất lớn trong cách hiểu và vận dụng quy định vốn pháp định ở Việt Nam và phần còn lại của thế giới. Thử hình dung thế này, nếu doanh nghiệp chỉ ”ôm” ít nhất 2 tỷ VND và chỉ được kinh doanh một ngành, nghề duy nhất là đòi nợ thuê, mà đây lại là ngành nghề dịch vụ, không đòi hỏi chi phí lớn thì liệu có hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn vào lĩnh vực này không ? hay điều kiện kinh doanh khắt khe đó chỉ tạo ra rào cản loại bỏ nhà đầu tư ở Việt Nam ra khỏi ngành, nghề kinh doanh đang rất thịnh hành trong nền kinh tế này ? Thực tiễn này đã đặt các nhà hoạch định chính sách pháp luật liên quan đến doanh nghiệp ở Việt Nam phải xem xét, đánh giá lại quy định vốn pháp định để chúng thực sự phát huy được hiệu quả trên thực tế chứ không phải là rào cản cho quyền tự do kinh doanh của người dân như dẫn chứng trên đã phân tích.
3. Thay lời kết
Vốn pháp định ở Việt Nam đã có bề dày phát triển đáng ghi nhận qua hơn 20 năm đổi mới kinh tế. Từng giai đoạn lịch sử nhất định, phạm vi áp dụng quy định về vốn pháp định ở Việt Nam có những mức độ đậm nhạt khác nhau, nhưng nhìn chung, đối với các ngành, nghề kinh doanh đòi hỏi vốn lớn và cần bảo hiểm rủi ro thì việc duy trì vốn pháp định ở Việt Nam là điều cần thiết.[42] Trên thế giới, do sự khác biệt về nhận thức cũng như các quan điểm chính trị, pháp lí khác nhau nên cơ chế áp dụng vốn pháp định đối với doanh nghiệp có nhiều khác biệt so với Việt Nam cũng là điều dễ hiểu. Về cơ bản, vốn pháp định ở Việt Nam chỉ áp dụng trong những ngành, nghề kinh doanh cụ thể do văn bản dưới luật chuyên ngành điều chỉnh quy định cụ thể mức vốn, không như đa phần các nước khác là vốn pháp định áp dụng theo loại hình doanh nghiệp và được điều hẳn trong văn bản luật về doanh nghiệp. Bài báo khoa học chỉ phác họa những nét chấm phá chung về sự khác biệt giữa quy định pháp lí về vốn pháp định ở Việt Nam so với phần còn lại của thế giới để qua đó giúp cho các độc giả có cái nhìn toàn diện hơn ở vấn đề này. Đồng thời, qua bài báo khoa học này, những trăn trở của Tác giả về cơ chế áp dụng vốn pháp định ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, vướng mắc ảnh hưởng đến hoạt động kinh đoanh của doanh nghiệp cũng được phản ánh ở khía cạnh chung nhất, với hy vọng rằng các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam sẽ sớm có biện pháp hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp nói chung và quy định vốn pháp định nói riêng trong thời gian tới để vốn pháp định tồn tại có thực chất, là công cụ bảo vệ lợi ích của bạn hàng và chủ nợ của công ty.[43]


[1] Xem : Victor E. Barrios, Juan M.Blanco “The Effectiveness of bank capital Adequacy Regulation : A Theoretical  and Emperical Approach”Journal of Banking & Finance, 2003, Volume 27, Issue 10, Page 1935.
[2] Xem Jennifer Payne : “Legal capital in UK Following theo Companies Act 2006” in J.Armour and J. Payne (eds) Rationality in company law: Essays in Honour D D Prentice, Working Paper No 13, 2008,  Hart Publishing 2008
[3] Xem : John Armour : “Legal capital : An outdated concept ?”, European Business Organization Law Review, Volume 7, 2006.
[4] Xem : World Bank : “Doing Business 2011 : Making a difference for Entrepreneurs” Publisher : World Bank Publications, 10/2010, Pages 20-22
[5] Xem : Luật Công ty Trách nhiệm hữu hạn của Bang California ban hành năm 2005. Trong đó, không khống chế số vốn tối thiểu mà DN thành lập tại tiểu bang lớn nhất của Hoa Kỳ.
[6] Xem : John Armour – Center for Business Research, University of Cambridge : “Legal Capital : An outdated Concept ?”, Working Paper No. 320, 03/2006, Page 19
[7] Xem : Dr. Andreas Engert, LL.M “Life without Legal capital : Lessons from Americn Law” Working Paper, 01/2006, Page 19
[8] Xem : Company Act 1985, 88, 118 : “Minimum capital requiment stated to apply only to public company”. Một CTCP tại Anh quốc phải có vốn pháp định là 25.000 bảng Anh (Xem 77/91 EEC Article 6.1)
[9] Xem : John Armour – Center for Business Research, University of Cambridge : “Legal Capital : An outdated Concept ?”, Working Paper No. 320, 03/2006, Page 1
[10] Vốn pháp định được chính thức áp dụng đối với doanh nghiệp ở Việt Nam theo quy định tại Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 và được quy định cụ thể chi tiết tại  Nghị định 221/1991/NĐ-HĐBT và Nghị định 222/1991/NĐ-CP do Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành vào ngày 23 tháng 07 năm 1991 để quy định chi tiết thi hành Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990.
[11] Xem Khoản 7 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005
[12] Xem : “High level group of company Law experts, a model regulatory framework for  Company Law in Europe 87-88 (2002)
[13]Nếu kê khai vốn đăng kí không đúng thực tế, theo quy định tại Nghị định 53/2007/NĐ-CP do Chính phủ ban hành vào ngày 04 tháng 07 năm 2007 thì DN có thể bị phạt hành chính từ 10 – 15 triệu đồng.
[14] Xem : TS. Hoàng Thế Liên (Chủ biên), Đinh Mai Phương, Nguyễn Xuân Anh, Chu Thị Hoa, Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Tuấn Anh : “Một số điểm mới cơ bản của của Luật Doanh nghiệp 1999”, Thông tin Khoa học Pháp lí, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lí (Bộ Tư pháp), 2000, Trang 35.
[15]Kinh doanh vàng  áp dụng quy định vốn pháp định đến tháng 08/2003 thì bị bãi bỏ theo quy định tại Nghị định số 64/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11 tháng 06 năm 2003
[16] Xem : Điều 13 Nghị định 104/2007/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 14/06/2007 về kinh doanh dịch vụ đòi nợ  và Điều 3 Nghị định 153/2007/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 15/10/2007 để quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh Bất động sản 2006
[17] Xem : Điều 20 Luật Doanh nghiệp của CHDCND Lào ban hành ngày 07/12/2005 và Điều 7 Luật Doanh nghiệp Việt Nam ban hành ngày 29/11/2005
[18] Xem Luật Công ty Phần Lan (Finnish Companies Act) thông qua ngày 02/09/2005, áp dụng từ ngày 01/09/2006
[20] Xem Khoản 1 Điều 32 Luật Công ty Trách nhiệm hữu hạn  của Indonesia, thông qua ngày 16 tháng 08 năm 2007
[21] Xem : Điều 5 Luật Công ty Đầu từ Hàn Quốc số 8635 ban hành ngày 29/03/2004 và được sửa đổi, bổ sung vào ngày 29/02/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 04/02/2009.
[22] Xem : Khoản 1 và Khoản 2 Điều 546 Bộ luật Thương mại Hàn Quốc ban hành vào ngày 20/01/1962, được sửa đổi, bổ sung lần thứ 12 vào ngày 29/12/2001.
[23] Xem : Điều 26 và Điều 59 và Điều 81 Luật Công ty của CHDCND Trung Hoa thông qua ngày 27/10/2005, áp dụng từ ngày 01/01/2006.
[24] Xem “Giấc mơ về nửa triệu DN và một đạo luật chung : Luật DN từ một góc nhìn so sánh” của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7 (219) năm 2006, Trang 52.
[25] Xem : Companies Act 2006, Section 763
[26] Xem : Companies Act 2006, Section 586 (formerly Companies Act 1985, section 101)
[27] Xem : Christophe Estay “Setting up Businesses in France and USA : A Cross Cultural Analysis”, European Management Journal, 2004, Volume 22, No 4, Page 457
[28] Xem : Điều 8 Luật Doanh nghiệp Romania ban hành ngày 19/11/1990.
[29]Nguồn : Báo cáo của  Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trình bày về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam  năm 2010 tại kỳ họp Quốc hội Khoá XII vào ngày 20/10/2010 tại Hà Nội
[30]Xem : Luật Công ty Cộng hòa Dân chủ nhân dân Trung Hoa do Quốc hội Trung Quốc ban hành năm 2005 và có hiệu lực thực thi từ ngày 01 tháng 01 năm 2006
[31]Xem : Điều 78 Luật Công ty Trung Quốc 1993 và Điều 81 Luật Công ty Trung Quốc 2005
[32] Nguồn : Số liệu do Ngân hàng Nhà nước công bố vào tháng 12 năm 2010.
[33] Xem : European Commission, Proposal for a Directive of the European Parliament and the Council Amending Council Directive 77/91 EEC, as regards the formation of public limited liability companies and the Maitenance and alterration of their capital, COM (2004), final Brussels, 21/09/2004.
[34] Xem : European Commission, Modernising Company Law and Enhancing Corporate Governance in the European Union – A plan to move forward, COM (2003) 284 final, Brussels, 21/05/2003, 17-18, see generally Rickford et.al. (2004); Ferran (2005).
[35] Xem : World Bank : “Doing Business 2011 : Making a difference for Entrepreneurs” Publisher : World Bank Publications, 09/2010, Page 21
[36] Xem : World Bank : “Doing Business 2011 : Making a difference for Entrepreneurs” Publisher : World Bank Publications, 09/2010, Pages : 19, 135
[37] Xem : World Bank : “Doing Business 2011 : Making a Difference for Entrepreneurs” Publisher : World Bank Publications, 09/2010, Page : 138
[38]Xem : Luật Công ty Nhật Bản do Nghị viện Nhật Bản thông qua ngày 29/06/2006, có hiệu lực thực thi từ ngày 01/05/2006 để thay thế cho Luật Công ty 1994. Trước ngày 01/05/2006, để thành lập một công ty cổ phần tại Nhật Bản thì phải có vốn pháp định 10 triệu JPY nhưng nay chỉ cần tượng trưng 1 JPY là có thể thành lập công ty cổ phần tại Nhật Bản.
[39]Nguồn : Truy cập vào địa chỉ  http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Vuong-ve-yeu-cau-xac-nhan-von-phap-dinh-trong-thu-tuc-dang-ky-kinh-doanh/20107/33884.vgp, đăng ngày 21/07/2010.
[40] Xem : Thông tư 13/2008/TT-BXD do Bộ Xây dựng ban hành ngày 21/05/2008  về hướng dẫn thi hành Nghị định 153/2007/NĐ-CP trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Theo đó, một doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải trải qua thủ tục chứng minh vốn pháp định bằng nhiều phương thức khác nhau khá phức tạp, trong khi mức vốn pháp định thì quá thấp (chỉ có 6 tỷ đồng), khiến vốn pháp định chỉ tồn tại mang tính hình thức nhưng thủ tục hành chính thì lại là thực tế khó khăn mà doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải “cõng” thêm.
[41] Xem : Khoản 2 Điều 4 Nghị định 104/2007/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2007 về kinh doanh dịch vụ đòi nợ
[42] Xem : PGS.TS Trần Thị Minh Châu : “Về chình sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam”,  Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Tháng 12/2007, Trang 146
[43] Xem : TS. Trang Thị Tuyết : “Một số giải pháp hoàn thiện quản lí nhà nước đối với doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Tháng 06/2006, Trang 140

Nguồn: Phapluatkinhdoanh