Thứ Năm, 30 tháng 9, 2010

MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG VIỆC THỪA NHẬN QUYỀN LẬP DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ – CHỒNG

Nhiều luật gia ủng hộ cho quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung, thay vì mỗi bên chỉ được lập di chúc cá nhân. Vấn đề tưởng chừng như đơn giản và không có gì phải bàn cãi, vì quan điểm ấy không chỉ được bênh vực bởi luân lý mà còn được thừa nhận cả về mặt pháp lý. Nhưng qua công tác nghiên cứu, giảng dạy cũng như qua tiếp cận với thực tiễn pháp lý về di chúc chung của vợ, chồng đã cho thấy, đây là một vấn đề khá phức tạp mà luật hiện hành chưa qui định đầy đủ, rõ ràng. Các thiếu sót, bất cập của luật, đã dẫn tới hậu quả là, làm cho vấn đề này càng trở nên rắc rối thêm, thậm chí còn tạo ra nhiều mâu thuẫn so với các qui định khác có liên quan. Từ đó, đòi hỏi cần phải lật lại vấn đề: liệu BLDS 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung của họ hay không?
1. Lịch sử vấn đề và những thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ – chồng
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề
Xem xét trong Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long thì không thấy có qui định về vấn đề này. Đối chiếu với Luật La Mã cũng như Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp thì thấy họ cũng không thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ – chồng 1.
Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ – chồng lại được thừa nhận trong tục lệ của ta từ lâu. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thức di chúc thông dụng và việc vợ – chồng cùng nhau lập di chúc chung, là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ 2. Quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ – chồng và luôn muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích việc vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung, và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ – chồng.
Luật thực định thời cận đại cũng đã bắt đầu ủng hộ giải pháp mang tính luân lý đó. Nghiên cứu các Bộ Dân luật của các chế độ trước, thì thấy các Bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung đều thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ – chồng 3. Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 cũng cho phép vợ – chồng cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung4.
Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có quyền lập di chúc chung. Thông tư 81-TANDTC ngày 24/71981 đã từng nhắc đến di chúc chung của vợ, chồng. Pháp lệnh Thừa kế 1990 tuy không trực tiếp qui định về di chúc chung của vợ, chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung5. Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng được qui định khá rõ trong BLDS 1995 và BLDS 2005 6. Các qui định này trong BLDS 2005 đã có nhiều sửa đổi so với qui định của BLDS 1995 7. Mặc dù vậy, việc qui định về di chúc chung trong BLDS 2005 vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, bất cập và chưa phù hợp với thực tế.
Có thể nói, pháp luật cận đại và luật hiện hành Việt Nam thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ – chồng là thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nhưng như vậy sẽ gây ra sự mâu thuẫn với các quy định khác về di chúc làm nảy sinh nhiều bất cập không thể giải quyết được, thậm chí, còn làm phá vỡ tính hệ thống của chế định quyền thừa kế.
1.2. Quyền lập di chúc chung của vợ – chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân trong việc lập di chúc
Điều 646 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Di chúc không thể là giao dịch dành cho mọi chủ thể hay một cộng đồng chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế di sản là vấn đề pháp lý liên quan tới thân trạng và quyền lợi vật chất của một cá nhân, được tiến hành sau khi cá nhân chết. Như vậy, Điều 663 qui định di chúc chung của vợ, chồng đã tạo ra sự mâu thuẫn so với Điều 646 nói trên. Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung của vợ chồng sẽ dẫn đến các vấn đề pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ thuật pháp lý. Ví dụ như xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung…
Tuy vậy, nếu thiên về nguyên tắc củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình, thì việc qui định về di chúc chung của vợ, chồng là điều cần thiết. Cũng cần phải nói thêm là, trong quan điểm của tục lệ và pháp luật của các chế độ trước, việc thừa nhận quyền lập di chúc chung không chỉ để củng cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình, mà việc lập di chúc chung, trước hết, là nhằm tạo ra giải pháp phòng ngừa, tạo ra sự chế ước đối với người chủ gia đình, theo quan điểm phụ hệ, để bảo vệ quyền thừa kế của những người thân thích khác trong gia đình8.
1.3. Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ – chồng
- Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Điều 663 BLDS 2005 qui định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc chung là để định đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Sẽ đơn giản, nếu vợ, chồng chỉ có tài sản chung. Nhưng sẽ phức tạp, nếu vợ, chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng, mà họ lại muốn định đoạt cả hai loại tài sản này trong cùng một di chúc. Trong trường hợp đó, sẽ có nhiều vấn đề pháp lý đặt ra rất khó xử lý, như: vấn đề hiệu lực của di chúc chung sẽ được xác định như thế nào; phần di chúc định đoạt tài sản riêng có phải là một di chúc riêng; sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di chúc liên quan tới tài sản riêng của họ có hiệu lực hay chưa… Đây là những vấn đề pháp lý phức tạp mà BLDS 2005 chưa tiên liệu được.
Như vậy, nếu qui định trên được thực hiện đúng, thì vợ, chồng không thể dùng di chúc chung để định đoạt tài sản riêng của mình. Điều này sẽ dẫn tới hai hệ quả là:
(i) Khi vợ, chồng muốn lập di chúc chung thì di chúc đó chỉ được định đoạt tài sản chung. Nếu vợ, chồng muốn định đoạt phần tài sản riêng, thì họ phải lập một tờ di chúc khác. Sẽ phức tạp nếu một người có nhiều sản nghiệp khác nhau (tài sản riêng hoặc tài sản với vợ hay chồng hợp pháp khác). Điều này sẽ gây ra trở ngại tâm lý không nhỏ khi người ta muốn lập di chúc chung, vì như thế sẽ tạo ra thêm nhiều khó khăn cho các bên liên quan, như phải lập nhiều tờ di chúc khác nhau, thay vì chỉ cần duy nhất một tờ di chúc.
(ii) Nếu trong di chúc chung vợ – chồng định đoạt cả tài sản chung và tài sản riêng thì di chúc đó sẽ phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau. Điều này dẫn tới việc, chỉ dựa vào một tờ di chúc, 5 Điều 23 khoản 1 Pháp lệnh Thừa kế 1990: “Trong trường hợp di chúc lập chung, mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần tài sản của người chết trước có hiệu lực”. người ta phải chia thừa kế nhiều lần trên cùng sản nghiệp của một người. Từ đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề khác, như việc xác định người thừa kế bắt buộc, người thừa kế thế vị; sự ra đời của những người mới nằm trong hàng thừa kế, sau khi một bên vợ hoặc chồng chết mà di chúc chung vẫn chưa phát sinh hiệu lực; cơ sở để xác định giá trị một suất di sản bắt buộc… là những vấn đề pháp lý không dễ dàng giải quyết.
- Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ – chồng
BLDS 2005 không qui định rõ những trường hợp bị cấm đoán khi lập di chúc chung. Điều này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử, như việc hai bên lập di chúc để thừa kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực hay không? Di chúc vốn là một loại giao dịch pháp lý đơn phương và không mang tính chất đền bù. Việc cho phép vợ, chồng khi lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau, đã biến loại giao dịch này thành giao dịch pháp lý song phương và mang tính chất có đền bù, làm thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Pháp luật của các chế độ trước tuy có thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, nhưng luôn cấm vợ, chồng lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau. Điều 572 Bộ Dân luật Sài Gòn qui định: “… hai người không thể cùng làm chung một chúc thư… lưỡng tương đắc lợi” (tức thừa kế lẫn nhau – Tác giả chú thích). Việc pháp luật hiện hành không cấm đoán vợ, chồng lập di chúc chung thừa kế lẫn nhau, chẳng những sẽ không đạt được mục đích tăng cường tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, mà có thể còn gây nên nhiều hệ luỵ không thể lường trước được, như: sự thông đồng giữa vợ, chồng lập di chúc giả tạo để che đậy những hành vi trái pháp luật; hoặc làm gia tăng nguy cơ khiến các bên phản bội, lừa dối, giả mạo di chúc, hoặc thậm chí, tạo cơ hội cho các bên thực hiện âm mưu xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau.
- Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc
Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được qui định rõ tại Điều 699 BLDS 2005. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không được hưởng hoặc thực tế được hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Tình huống đặt ra là, di chúc chung chỉ để lại thừa kế cho một số người mà không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt buộc kể trên và cũng không dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì những người đó có được chia thừa kế bắt buộc không? Nếu họ vận dụng qui định tại Điều 699 để xin được hưởng thừa kế bắt buộc thì giải quyết thế nào. Ví dụ: ông A và bà B cùng lập di chúc chung để lại toàn bộ tài sản cho người con cả là C. Di chúc chung của ông A và bà B đã xâm phạm tới quyền được hưởng di sản bắt buộc của các con chưa thành niên khác của ông A và bà B, cũng như của cha, mẹ ông A và cha, mẹ bà B. Vậy, di chúc này có bị vô hiệu một phần không, những người thừa kế bắt buộc này có được khởi kiện đòi chia thừa kế của A, B hay không… là những vấn đề chưa được BLDS 2005 làm rõ, nên chắc chắn sẽ dẫn tới nhiều vướng mắc trong việc thực thi pháp luật. Không loại trừ trường hợp người vợ hay người chồng còn sống, vì lý do nào đó9, đã khởi kiện đòi hưởng thừa kế bắt buộc từ phần di sản của người kia trong di chúc chung thì cũng sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết.
1.4. Hình thức của di chúc chung của vợ – chồng
Di chúc cá nhân được lập theo 1 trong 2 hình thức là di miệng và di chúc viết, theo những thủ tục rất chặt chẽ. Dường như ý chí của nhà làm luật muốn di chúc chung sẽ được lập theo những hình thức tương tự như di chúc cá nhân. Nhưng thực tiễn cho thấy, các hình thức và thủ tục để lập di chúc cá nhân không phải lúc nào cũng có thể áp dụng phù hợp cho di chúc chung của vợ, chồng.
- Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng?
Theo Điều 651, việc lập di chúc miệng chỉ dành cho cá nhân: “Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Do đó, vợ chồng không thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng, vì các lý do:
 Một là, muốn lập di chúc chung, vợ – chồng phải có sự bàn bạc và thống nhất ý chí chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng bị cái chết đe dọa thì điều này là hạn hữu. Khi không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng, thì việc lập di chúc chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và trung thực ý chí cá nhân của mỗi người. Tình trạng này dễ dẫn đến việc một bên quyết định nội dung di chúc chung theo ý chí chủ quan của mình mà không có sự thống nhất ý chí với người kia.
Hai là, thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp trước mặt hai nhân chứng, không cho phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người phát biểu. Vậy, sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu từng người trình bày riêng ý nguyện của mình, thì thực ra, đó là di chúc cá nhân; còn nếu một người đại diện trình bày ý chí chung và người kia chấp nhận toàn bộ, thì cũng giống như đã uỷ quyền lập di chúc, mà như vậy thì lại vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt do cái chết đe dọa cả hai, để một người phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và hoàn toàn đồng ý, là không thực tế.
Ba là, sau 3 tháng kể từ ngày di chúc miệng mà một người chết và một người còn sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan tới người còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Vì theo Điều 651 khoản 1: “Sau 3 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”. Trong khi đó, di chúc chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã chết.
Bốn là, đang lúc hoàn cảnh bối rối trước sự sống, chết của cả 2 người, việc tiếp nhận và ghi nhớ ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ, không chính xác. Ý nguyện của người chết lại không được thể hiện ra thành một dạng vật chất định hình rõ ràng và cố định, rất dễ quên và cũng dễ bị sửa đổi mà lại không có chứng cứ xác đáng thể hiện sự đồng thuận của vợ, chồng. Việc chứng minh được tính chất đồng thuận, tự nguyện của cả hai vợ chồng trong trường hợp này sẽ không bảo đảm được tối đa tính trung thực, khách quan.
Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ trở nên phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của chính người lập di chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.
- Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc viết tay mà không có người làm chứng?
Điều 655 BLDS qui định về lập di chúc viết tay của cá nhân: “Người lập di chúc phải tự tay viết và vào bản di chúc”. Về mặt lôgic, hai người không thể cùng một lúc viết cùng một nội dung trên cùng một tờ di chúc. Vậy phải từng người viết xong, rồi sau đó, từng người ký tên vào bản di chúc đó. Vấn đề đặt ra là di chúc do một người viết và người kia chỉ ký tên hoặc điểm chỉ thì có hiệu lực pháp luật không? Hoặc mỗi người viết một đoạn để nói về những quyết định của mình về từng vấn đề khác nhau, rồi sau đó, cùng ký tên vào di chúc thì có được không? Chúng tôi cho rằng, nếu chỉ một người viết toàn bộ di chúc, rồi cả hai cùng ký vào bản di chúc thì không đảm bảo thủ tục lập di chúc viết tay, dễ dẫn đến sự ngụy tạo chữ ký để giả mạo di chúc chung, mà không có cơ sở để giám định bút tích của người lập di chúc. Nhưng việc cả hai cùng nhau và thay nhau viết bằng chữ viết của chính mình để định đoạt tài sản chung, thì không thể thực hiện được trên thực tế, vì như vậy, tức là hai người phải cùng viết giống nhau về cùng một nội dung, thành 2 đoạn khác nhau trên tờ di chúc, mà như vậy thì giống với di chúc cá nhân nhiều hơn. Một bên cũng không thể “uỷ quyền” cho người kia thay mặt để viết ra toàn bộ di chúc, vì trái với nguyên tắc di chúc viết tay phải được viết trực tiếp bằng chữ viết tay. Mặt khác, làm như vậy giống như là viết hộ di chúc, nên sẽ phải tiến hành theo một thủ tục khác, trước mặt ít nhất hai người đủ điều kiện làm chứng để chứng kiến việc lập di chúc chung.
Tóm lại, pháp luật cần phải qui định hình thức riêng cho di chúc chung của vợ chồng, chứ không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. BLDS 2005 chưa qui định cụ thể vấn đề này là một thiếu sót cần được khắc phục. Tốt nhất, chỉ nên thừa nhận vợ, chồng được lập di chúc bằng hình thức văn bản có người làm chứng hoặc văn bản có công chứng, chứng thực.
1.5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung
Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng phải dựa trên nguyên tắc nhất trí. Khoản 2 Điều 664 BLDS 2005 qui định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Điều này tạo ra sự thống nhất cao cho việc lập di chúc chung cũng như việc sửa đổi, bổ sung… di chúc chung. Tuy vậy, nếu một bên muốn thay đổi quyết định trong di chúc chung mà bên kia không đồng ý, thì các bên cũng không được quyền thay đổi. Qui định này tạo ra những vấn đề bất cập sau:
- Thứ nhất, qui định này xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cũng như vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong việc lập di chúc. Nếu một bên vợ hoặc chồng, vì lý do nào đó mà bắt buộc phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung đã lập, nhưng không được sự đồng ý của người kia, thì việc sửa đổi, bổ sung đó sẽ không được luật chấp nhận. Thiết nghĩ, qui định này đã xâm phạm quyền tự do định đoạt của người có tài sản và xâm phạm tới sự tự nguyện trong việc lập di chúc, thậm chí, xâm phạm tới lợi ích chính đáng của cá nhân khi cấm họ đưa ra những quyết định cá nhân, nhằm bảo đảm lợi ích cho mình. Điều đó cũng không công bằng đối với bên muốn được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung.
- Thứ hai, qui định này cũng tỏ ra thiếu nhất quán vì không cho phép một bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi vợ – chồng còn sống, nhưng lại cho phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình khi một bên vợ hoặc chồng đã chết. Sự thiếu nhất quán trong qui định trên không thể giải thích được, vì thực chất, cả hai trường hợp này đều giống nhau là khi một bên sửa đổi, bổ sung di chúc chung đều không có sự đồng thuận của người kia. Trong khi việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ, chồng cần phải bảo đảm nguyên tắc nhất trí giữa vợ, chồng với tư cách là các đồng sở hữu chủ của tài sản chung. Do đó, nếu đã cho phép một bên được tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi một bên đã chết, thì cũng cần phải công nhận quyền của một bên được tự mình sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan đến tài sản của mình, khi không tìm thấy sự đồng thuận của bên kia.
- Thứ ba, qui định trên cũng chưa dự liệu các khả năng khác khiến di chúc phải bị sửa đổi, bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ, chồng do vợ, chồng đã mâu thuẫn và sống ly thân, ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc chồng còn sống, nhưng đã bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị mất trí, bị bệnh lú lẫn tuổi già… khiến cho họ không còn thể hiện được ý chí cá nhân được nữa. Điều này chưa được qui định rõ ràng trong luật, nên dễ dẫn đến sự lúng túng và thiếu nhất quán trong việc áp dụng và thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề vừa nêu.
Suy cho cùng, lập di chúc chung là sự thể hiện tập trung của nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình. Nhưng việc níu kéo các bên vợ chồng, buộc họ phải nhất trí với nhau, trong hoàn cảnh mâu thuẫn giữa họ không thể dung hoà được nữa, thì việc lập di chúc chung hay cố giữ lại di chúc chung cũng không phải là cách hữu hiệu khiến cho họ trở nên thương yêu, đoàn kết với nhau hơn, mà chưa biết chừng, đó còn là tiền đề làm cho mâu thuẫn giữa các bên càng trở nên trầm trọng thêm, nhất là khi ý nguyện tự do của một bên (muốn sửa đổi, bổ sung di chúc chung) bị bên kia khước từ.
1.6. Hiệu lực của di chúc chung của vợ – chồng
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây ra rất nhiều tranh cãi giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo BLDS 2005. Sở dĩ có sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế10.
Điều 668 BLDS 2005 qui định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải pháp này đã đơn giản hóa việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di chúc chung một lần), so với giải pháp của BLDS 199511. Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại thời điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau đây:
- Thứ nhất, phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng chết trước
Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài sản riêng của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể họ còn có nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực dựa vào “cái chết sau cùng”, thì sẽ có ít nhất hai lần “chia thừa kế” đối với di sản của người vợ hay người chồng chết trước. Lần thứ nhất là chia thừa kế đối với phần di sản là tài sản riêng hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế. Lần thứ hai là chia thừa kế phần di sản định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực. Người thừa kế của bên chết trước sẽ phải mất hai lần yêu cầu phân chia di sản và rất có thể, toà án sẽ phải hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau trên di sản của cùng một người. Điều này không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế 12, thậm chí, có thể còn vi phạm nguyên tắc “nhất sự bất tái cứu” trong tố tụng (vụ việc đã xét xử xong rồi thì toà án không thụ lý, giải quyết lại), vì phải tiến hành xét xử nhiều lần để phân chia di sản của người chết.
- Thứ hai, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh…), làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp của công dân được hiến pháp và pháp luật bảo hộ.
- Thứ ba, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách của người được thừa hưởng di sản
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã quá cố hoặc những người được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau…), thì họ có được thừa kế bắt buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không; hoặc những được chỉ định trong di chúc chung chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, nhưng chết sau thời điểm mở thừa kế của người vợ hay chồng đã quá cố, thì họ có thuộc thừa kế theo di chúc chung hay không… là những vấn đề chưa được qui định trong pháp luật hiện hành, làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc xác định tư cách người thừa kế và các qui định khác có liên quan.
- Thứ tư, làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết trước
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết 10 năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do nào đó, chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo… mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng như những người thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp luật qui định rõ. Vấn đề đã đuợc chúng tôi đề cập trong một bài viết khác về thời hiệu khởi kiện thừa kế 13.
- Thứ năm, nếu tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di sản là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết sức phức tạp, việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung, không đơn giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ ảnh hưởng tới thời hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi những người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những biến động của nó… Qua đó, sẽ làm cho việc chia thừa kế theo di chúc chung trở nên khó khăn, phức tạp thêm.
1.7. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung
Di chúc chung có nhiều tính chất khác biệt so với di chúc cá nhân. Dù vậy, nhà làm luật vẫn không dự liệu các căn cứ riêng biệt đương nhiên làm chấm dứt di chúc chung.
Như đã biết, di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố quan trọng của quan hệ vợ – chồng, đó là tình cảm vợ – chồng và tài sản chung của vợ – chồng. Nếu hai yếu tố này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý nghĩa. Trên thực tế sẽ phát sinh nhiều tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố trên bị thay đổi, như trường hợp: các bên vợ chồng ly hôn; chia tài sản chung trong khi hôn nhân đang tồn tại; một bên mất tích hoặc bị toà án tuyên bố chết và người còn lại đã kết hôn với người khác, sau đó người bị tuyên bố chết còn sống trở về, nhưng không thể tái hợp quan hệ vợ chồng; hoặc sau khi có di chúc chung, vợ chồng lại định đoạt tài sản chung vào một mục đích khác, như tặng cho, bán; vợ hay chồng còn sống đã kết hôn với người khác hoặc có những quyết định làm ảnh hưởng tới hiệu lực hoặc sự tồn tại của di chúc chung (như quyết định sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung của vợ, chồng…). Đây là những trường hợp dẫn đến việc chấm quan hệ vợ – chồng, hoặc chấm dứt tình trạng sở hữu chung đối với tài sản, hoặc trực tiếp làm chấm dứt di chúc chung. Tuy vậy, những tình huống này không được dự liệu của pháp luật, nên sẽ dẫn tới sự lúng túng trong việc thực thi di chúc chung, vì không ai dám chắc là di chúc chung có đương nhiên bị mất hiệu lực, trong những tình huống đó hay không.
2. Những kiến nghị
2.1. Có tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng?
Có thể thấy, pháp luật hiện hành vẫn chưa có giải pháp nào để giải quyết tốt các vấn đề pháp lý phức tạp được đặt ra đối việc lập, sửa đổi, huỷ bỏ di chúc chung và xác định hiệu lực thực thi của di chúc chung. Bản chất của di chúc vốn là giao dịch pháp lý đơn phương của cá nhân. Không thể có sự tham dự ý chí của nhiều cá nhân trong việc lập di chúc. Nếu thừa nhận di chúc chung, pháp luật có thể đạt được mục đích tốt đẹp là hướng các bên trong quan hệ thừa kế cần quan tâm hơn việc tăng cường tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình. Nhưng không nên nhầm lẫn việc tăng cường đoàn kết trong gia đình với việc phải cùng nhau lập di chúc chung. Chưa kể việc lập di chúc chung xong rồi lại bất đồng trong việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung; hay sau khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, nhưng người thừa kế hợp pháp không thể xin phân chia di sản thừa kế hoặc chia thừa kế bắt buộc… thì có thể còn tạo hiệu ứng ngược. Bởi thế, không nên thừa nhận loại hình di chúc chung của vợ chồng và cần qui định minh thị trong luật cấm nhiều người lập di chúc chung, kể cả vợ chồng.
Việc bảo đảm quyền lợi thừa kế của gia đình và của người thân thích không thể trông đợi vào việc lập di chúc chung, mà đã có các giải pháp khác hữu hiệu hơn, như thừa kế bắt buộc, tước quyền thừa kế, thừa kế thế vị, thừa kế theo các hàng thừa kế…
2.2. Trường hợp không thể bãi bỏ các qui định về di chúc chung trong luật thực định, thì cần có những thay đổi toàn diện về vấn đề này trong BLDS 2005
Dường như kiến nghị bãi bỏ qui định di chúc chung của vợ, chồng là không khả thi, vì đây là một thực tiễn pháp lý và tục lệ, đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam. Vấn đề cần thiết hiện nay là, làm sao vẫn duy trì di chúc chung nhưng phải hạn chế tối đa những rắc rối, phức tạp do việc thừa loại di chúc này mang lại. Bởi thế, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau đây phục vụ cho việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật có liên quan tới di chúc chung của vợ, chồng:
- Thứ nhất, cần phải tách vấn đề di chúc chung của vợ chồng ra khỏi di chúc của cá nhân và thiết
kế thành một mục riêng trong chương thừa kế theo di chúc
Như đã phân tích trên, tuy di chúc chung của vợ chồng cũng là một loại di chúc được lập, sửa đổi, bổ sung và phát sinh hiệu lực gần giống như một di chúc thông thường. Nhưng di chúc chung còn có những đặc thù: (i) do hai ý chí cá nhân cùng tham gia định đoạt dựa trên mối quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực; (ii) dùng để định đoạt khối tài sản chung của vợ chồng; (iii) có hiệu lực không đồng thời với thời điểm mở thừa kế của bên chết trước… do đó, cần phải được qui định thành một mục riêng; hoặc chí ít, cũng cần phải định rõ những ngoại lệ của di chúc chung so với di chúc cá nhân, trong các điều luật tương ứng qui định về di chúc cá nhân.
- Thứ hai, nội dung của mục này cần phải làm rõ các vấn đề sau đây:
+ Qui định quyền lập di chúc chung của vợ chồng, khi hôn nhân đang còn tồn tại, phải tuân thủ các qui định chung về năng lực lập di chúc, các yêu cầu để di chúc có hiệu lực cũng tương tự như di chúc của cá nhân;
+ Qui định về hình thức bắt buộc mà di chúc chung phải tuân thủ. Chỉ nên lập di chúc chung bằng thể thức văn bản có người làm chứng (nếu cả hai đủ điều kiện minh mẫn, sáng suốt, không thuộc trường hợp mù chữ hoặc bị khiếm khuyết thể chất liên quan tới chức năng lập, kiểm tra nội dung di chúc); hoặc văn bản công chứng, chứng thực.
+ Qui định quyền được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của một bên, khi vợ chồng còn sống, vẫn phải có sự đồng ý của vợ, chồng. Nhưng nếu một bên cần sửa đổi mà bên kia nhất quyết không đồng ý hoặc không thể biểu lộ ý chí một cách tự nguyện, thì người kia có quyền tự lập di chúc cá nhân hoặc có quyền sửa đổi, bổ sung một phần di chúc chung trong phạm vi phần tài sản của mình. Điều này làm cho các bên vợ, chồng luôn phải tìm thấy sự đồng thuận, kể cả trong việc lập hay sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung; đồng thời cũng nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân với quyền lợi chung của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung. Người ta không thể bị bắt buộc phải lập di chúc chung và càng không thể bị bắt buộc phải giữ nguyên nội dung di chúc chung đã lập, khi không tìm thấy sự đồng thuận ở người bạn đời của mình trong việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung. Cũng cần nói thêm rằng, khi các bên còn sống, di chúc chung vẫn chưa có hiệu lực, và người ta vẫn có nhiều cách để làm mất hiệu lực của di chúc chung, mà không cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế hay huỷ bỏ di chúc chung đó.
+ Luật cần dự liệu các căn cứ cụ thể làm chấm dứt di chúc chung của vợ chồng một cách đương nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các trường hợp tương ứng, tránh gây ra sự lúng túng, thiếu nhất quán hoặc những tranh cãi không cần thiết, khi các bên liên quan tiến hành phân chia di sản dựa trên di chúc chung của vợ – chồng.
+ Cần phải dung hòa giữa quyền của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung với lợi ích chính đáng của những người thừa kế của vợ hay chồng. Thừa nhận thời điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng là thời điểm bên sau cùng chết, nhưng cũng cho phép những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước có quyền xin chia thừa kế đối với phần di sản của vợ, chồng không được định đoạt trong di chúc chung. Đối với phần tài sản đã định đoạt trong di chúc chung thì cho phép các bên thừa kế bắt buộc được nhận phần di sản bắt buộc, nếu việc kéo dài tình trạng không phân chia di sản, theo hiệu lực của di chúc chung, có ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của họ; đồng thời cần phải xác định rõ trong luật khoảng thời gian mà di sản chưa được phân chia thì được trừ vào thời hiệu khởi kiện thừa kế. Và, việc kéo dài thời điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung sẽ chấm dứt, nếu người còn sống kết hôn với người khác hoặc họ đã lập di chúc khác để thay thế, huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung, mà việc đó ảnh hưởng tới sự tồn tại của di chúc chung hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản chung của vợ chồng.
Kết luận
Giữa ý định muốn bỏ định chế di chúc chung của vợ, chồng với việc giữ lại các qui định này, thì quan điểm muốn giữ lại có phần thắng thế do tục lệ, do thực tiễn pháp lý và thực tế đời sống đangđặt ra nhu cầu phải điều chỉnh bằng luật việc vợ, chồng muốn cùng nhau lập di chúc chung. Qua nghiên cứu vấn đề trên cũng cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản. Luật thực định chỉ dùng một hai điều luật ngắn để điều chỉnh vấn đề này, rõ ràng là chưa tương xứng và không đủ liều lượng cần thiết. Việc này cũng giống như dùng chiếc áo trẻ em để mặc cho một cơ thể người lớn. Đó sẽ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bất cập và thiếu nhất quán trong việc thực thi pháp luật về vấn đề liên quan. Bây giờ mà kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung qui định về di chúc chung trong BLDS 2005 là quá sớm, nhưng nghiên cứu vấn đề để chuẩn bị tiền đề tư tưởng phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung nội dung này trong BLDS 2005 là việc nên làm ngay và hoàn toàn không phải là quá sớm.
Tài liệu tham khảo:
1 Điều 968 BLDS của Pháp: “Hai hay nhiều người không được lập di chúc chung để lại di sản cho người thứ ba hay để lại di sản cho nhau”, Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 2005, tr. 611.
2 Vũ Văn Mẫu, Les succesions testamentaires en droit vietnmaien (Thừa kế theo di chúc trong luật Việt Nam), Luận án
Paris, 1948, tr. 67, dẫn theo Nguyễn Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ. TP Hồ Chí Minh, 1999, tr.167.
3 Điều 313 Dân luật Trung kỳ (tương tự, vấn đề cũng được qui định tại Điều 321 Dân luật Bắc): “Người cha được lập chúc thư để xử trí tài sản chung của gia đình tuỳ theo ý mình, nhưng phải có vợ chính đồng ý… Trừ tài sản của vợ chính ra thì người chồng được làm chúc thư để xử trí tài sản của gia đình tùy theo ý mình, không có vợ chính thuận tình cũng được”, Nhà in Viễn Đệ, 1947, tr. 94.
4 Điều 572 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972: “Chúc thư chỉ có thể do một người lập ra; hai người không thể cùng chung một chúc thư lợi tha hay lưỡng tương đắc lợi. Đặc biệt, trong trường hợp chúc thư do hai vợ chồng cùng làm để sử dụng tài sản chung, chúc thư được thi hành riêng về phần di sản của người chết trước, người sống vẫn có quyền huỷ bãi hay thay đổi chúc thư về phần mình”. Nxb. Thần Chung, Sài Gòn. 1973, tr. 150.
6 Xem các Điều 663, Điều 664, Điều 668 BLDS 2005.
7 Xem các Điều 667, Điều 671… BLDS 1995.
8 Xem Nguyễn Ngọc Điện, sđd, tr. 172.
9. Ví dụ: phần tài sản của người còn sống trong tài sản chung của vợ, chồng bị tịch thu hoặc bị toà án phân chia để trả nợ riêng của người đó, làm cho một phần di chúc chung liên quan tới tài sản của họ vô hiệu, thì họ có được quyền xin hưởng thừa kế bắt buộc từ phần di sản còn lại của người chết trước trong di chúc chung được không?
10 “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết” (khoản 1 Điều 634 BLDS 2005). Thời điểm mở thừa kế có
ý nghĩa quan trọng: là thời điểm làm phát sinh quyền thừa kế, là mốc tính thời hiệu khởi kiện, là thời điểm để xác định giá trị di sản, xác định phạm vi những người thừa kế của người chết.
11 Điều 671 BLDS 1995: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực…”. Cũng cần nói thêm là giải pháp này không thoả đáng, vì như thế khác nào thực thi hai di chúc khác nhau của hai cá nhân, làm cho việc phân chia di sản trong khối tài sản chung của vợ, chồng, trên thực tế, trở nên rắc rối và phức tạp.
12 Như việc xác định di sản của người chết, xác định người thừa kế của người chết trước và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nếu người chết có để lại món nợ đối với người thứ ba.
13 Xem: Lê Minh Hùng, Thời hiệu khởi kiện thừa kế – Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2004, tr. 40
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2006

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM

1. Thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật1. Trong điều kiện giao lưu và hợp tác quốc tế, một số quan hệ thừa kế vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật một quốc gia, đó là những quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài2. Về quan hệ thừa kế, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nước ngoài phân biệt thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
2. Trước ngày Bộ luật dân sự (BLDS) Việt Nam có hiệu lực, vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được đề cập trong một số văn bản3. “Tuy nhiên, pháp luật nước ta thời kỳ đó mới chỉ đề cập trên nguyên tắc chung nhất, còn thiếu những quy định chi tiết, đặc biệt là các quy phạm xung đột để làm cơ sở giải quyết đối với những vụ việc cụ thể về thừa kế có yếu tố nước ngoài”4. Từ ngày BLDS có hiệu lực, một loạt quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi các quy phạm xung đột nhưng “chế định thừa kế còn để trống”5. Để đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể của quan hệ dân sự quốc tế, việc hoàn thiện Tư pháp quốc tế Việt Nam về vấn đề này là cần thiết. Một số tác giả đã mạnh dạn yêu cầu hoàn thiện vấn đề này; ví dụ theo tác giả Đoàn Năng “nếu các văn bản pháp luật chuyên ngành đã ban hành mà trong đó chưa có hoặc có những chưa đầy đủ quy phạm xung đột thì nên sớm tiến hành bổ sung vào các văn bản này những quy phạm xung đột cần thiết để áp dụng nhằm bảo đảm có đầy đủ quy phạm hướng dẫn chọn luật điều chỉnh tất cả các loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, quan hệ thừa kế thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự, nhưng Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản khác có liên quan đang hiện hành chưa hề có quy phạm xung đột nào”6.
3. Cuốn Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam thừa nhận sự không hoàn thiện của Bộ luật dân sự nước ta về vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài và tác giả Đoàn Năng mạnh dạn yêu cầu hoàn thiện Tư pháp quốc tế nước ta về vấn đề này, nhưng cả hai đều không đưa ra giải pháp cụ thể nào. Trước sự thiếu vắng này, chúng tôi xin kiến nghị giải pháp cho vấn đề xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam thông qua hai phần: Trong phần thứ nhất, chúng tôi trình bày những giải pháp có thể được sử dụng (I) và, trong phần thứ hai, chúng tôi trình bày giải pháp nên lựa chọn căn cứ vào hoàn cảnh nước ta hiện nay(II).
I- Những giải pháp của xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có thể được sử dụng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam
1. Giải pháp hoàn thiện bằng cách khai thác những quy phạm xung đột đã tồn tại
4. Một trong những quy phạm xung đột đã tồn tại mà chúng ta có thể khai thác là Điều 833, khoản 1, Bộ luật dân sự. Theo điều khoản này, “việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”. Điều 833, khoản 1 không định nghĩa thế nào là “việc xác lập” quyền sở hữu đối với tài sản. Trước sự chung chung và trừu tượng này của Điều 833, khoản 1, thông qua việc giải thích pháp luật, chúng ta có thể coi thừa kế theo pháp luật là một “việc xác lập” quyền sở hữu đối với tài sản. Cách giải thích này có thể được chấp nhận vì theo Điều 176, khoản 5, BLDS, “quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây […]: được thừa kế tài sản”.
5. Vậy, thông qua việc giải thích luật, chúng ta có thể hoàn thiện Tư pháp quốc tế nước ta về vấn đề xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật và nếu chúng ta theo giải pháp này, chúng ta có quy phạm xung đột sau: Vấn đề thừa kế theo pháp luật được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi có tài sản. Đây cũng là giải pháp được thừa nhận tại Mê-hi-cô, Pa-na-ma, U-ru-goay và Vê-nê-du-ê-la7.
6. Để hiểu rõ thêm giải pháp này, chúng tôi xin lấy một ví dụ minh họa. Năm 1975, anh N.V.A sang sống cùng gia đình tại Pháp và sau đó nhập quốc tịch Pháp. Với sự mở cửa, anh N.V.A về Việt Nam cư trú từ năm 1995. Do tai nạn, anh N.V.A qua đời tại Việt Nam năm 2001 và để lại di sản bao gồm: Một ngôi nhà ở ngoại ô Pháp (di sản P); một căn hộ cùng một số động sản tại Hà Nội (di sản V và v); một số động sản quý tại một ngân hàng Thụy Sĩ (di sản t) và một số động sản gửi chị gái đang làm ăn tại Đức (di sản d). Do không tự thỏa thuận được với nhau, con anh N.V.A, quốc tịch Pháp và em trai anh N.V.A quốc tịch Việt Nam yêu cầu Tòa án đứng ra giải quyết vấn đề thừa kế.
7. Áp dụng giải pháp bằng cách giải thích pháp luật, chúng ta dẫn đến kết quả sau: Vấn đề thừa kế nêu trên được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài sản, cụ thể là di sản P được điều chỉnh bợi pháp luật Pháp, di sản t được điều chỉnh bởi pháp luật Thụy Sĩ, di sản d được điều chỉnh bởi pháp luật Đức và di sản V, v được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Ngoài giải pháp khai thác quy phạm xung đột đã tồn tại bằng cách giải thích luật, để hoàn thiện.
Tư pháp quốc tế nước ta về vấn đề xung đột pháp luật về thừa kế, chúng ta có thể xây dựng thêm quy phạm xung đột mới để điều chỉnh vấn đề này.
2. Giải pháp hoàn thiện bằng cách thiết lập quy phạm xung đột mới
Khi hoàn thiện Tư pháp quốc tế nước ta bằng cách thiết lập quy phạm xung đột mới, hai loại giải pháp sau có thể được sử dụng:
a- Không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản
8. Giải pháp thứ nhất có thể sử dụng khi không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản là chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế. Đây là giải pháp được thừa nhận tại An-ba-ni (trừ trường hợp khi di sản là bất động sản ở An-ba-ni, An-giê-ri, Đức (nhưng luật Đức có thể được chọn để áp dụng khi di sản là bất động sản ở Đức), Andora, Áo, Bun-ga-ri, Cuba, Ai Cập, Tây-ban- nha, Phần Lan, Gha-na, Hy Lạp, Hung-ga-ri, In-đô-nê-xi-a, I-ran, Ý, Nhật, Gioóc-đa-ni, Li- băng, Ma-li, Ma-rốc, Mô-ri-ta-ni, Ni-giê-ri-a, Phi-líp-pin, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Xê-nê-gan, Xlo-va-ki, Thụy Điển, Xi-ri, Tiệp Khắc, Thổ Nhĩ Kỳ (trừ trường hợp di sản là bất động sản ở Thổ Nhĩ Kỳ), Va-ti-căng, Nam Tư (cũ)…8. Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên, chúng ta có kết luận sau: Pháp luật Pháp sẽ là pháp luật điều chỉnh vấn đề thừa kế vì người để lại thừa kế có quốc tịch Pháp. Điều đó có nghĩa là pháp luật Pháp sẽ điều chỉnh di sản tại Pháp cũng như di sản ở Đức, ở Thụy Sĩ và ở Việt Nam ngay cả đối với bất động sản V.
9. Giải pháp thứ hai có thể sử dụng khi không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản là chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng để điều chỉnh vấn đề thừa kế. Đây là giải pháp được thừa nhận tại Ac-hen-ti-na, Bra-xin, Cô-xta Ri-ca (trừ trường hợp đối với di sản là bất động sản ở Cô-xta Ri-ca), Chi lê, Cô-lôm- bia, Đan Mạch, Ê-cua-đo, En-Sa-va-đô, Ai-xlen, Na Uy, Pa-ra-goay (trừ trường hợp đối với di sản là bất động sản ở Pa-ra-goay), Mông Cổ, Nga (trừ trường hợp đối với di sản là bất động sản ở Nga), Thụy Sĩ9. Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên, chúng ta có kết luận sau: Pháp luật Việt Nam là pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế vì người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam. Điều đó có nghĩa là pháp luật Việt Nam sẽ điều chỉnh di sản V và v ở Việt Nam, di sản t ở Thụy Sĩ, di sản d ở Đức và di sản P tại Pháp ngay cả khi di sản P là bất động sản.
b- Phân biệt di sản là động sản hay bất động sản 10. Giải pháp thứ nhất có thể sử dụng khi phân biệt di sản là động sản hay bất động sản là chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh di sản là động sản và pháp luật của nước nơi có tài sản điều chỉnh di sản là bất động sản. Giải pháp này được thừa nhận tại Nam Phi, Úc, Ba-ha-ma, Bỉ, Ca-na-da, Trung Phi, Trung Quốc, Công-gô, Bờ biển Ngà, Mỹ, Pháp, Ga-bông, Ma-li, Ấn Độ, Ix-ra-en, Ai-len, Luýchc-xăm-bua, Ma-đa-gát-xca, Ca-lê-đô-ni, Anh, Xu-đăng, U-ru-goay…10. Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên, chúng ta có kết luận sau: Di sản là bất động sản được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài sản, cụ thể ở đây là di sản P ở Pháp được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp và di sản V ở Việt Nam được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Đối với di sản là động sản, pháp luật Việt Nam là pháp luật điều chỉnh vì nơi cư trú cuối cùng của người để lại thừa kế là Việt Nam, cụ thể là pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di sản d ở Đức, di sản t ở Thụy Sĩ và di sản v ở Việt Nam.
11. Giải pháp thứ hai có thể sử dụng khi phân biệt di sản là động sản hay bất động sản là chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh thừa kế đối với di sản là động sản và pháp luật nơi có tài sản để điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di sản là bất động sản. Đây là giải pháp được thừa nhận tại Ca-mơ-run, Mô-na-cô, Thái Lan, Ru-ma-ni…11.
II- Giải pháp của xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật nên lựa chọn trong Tư pháp quốc tế Việt Nam
1. Phương hướng của việc chọn giải pháp cho xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam
12. Phương hướng thứ nhất: Trong Tư pháp quốc tế, khi chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chúng ta sẽ chọn hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với loại quan hệ cần giải quyết. Vậy, trong lĩnh vực mà chúng ta nghiên cứu, chúng ta cũng sẽ chọn hệ thống pháp luật có quan hệ gắn bó với những vấn đề của thừa kế theo pháp luật. Thông thường, việc định hình hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với loại quan hệ cần điều chỉnh khá dễ dàng, ví dụ: Pháp luật có quan hệ mật thiết với tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng thường là pháp luật nơi thực hiện hợp đồng12. Tuy vậy, trong lĩnh vực mà chúng ta đang đề cập, việc định hình hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với những vấn đề của thừa kế theo pháp luật lại khá phức tạp vì những vấn đề này có thể liên quan đến một vài hệ thống pháp luật khác nhau. Thứ nhất, vì có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của người để lại thừa kế cho người còn sống, quan hệ thừa kế là một quan hệ tài sản và do đó có quan hệ với pháp luật nơi có tài sản. Thứ hai, vì có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của người để lại thừa kế cho người còn sống trên cơ sở huyết thống, quan hệ thừa kế là một quan hệ nhân thân và do đó có quan hệ với pháp luật nhân thân của người để lại thừa kế. Thứ ba, khi chết, người để lại thừa kế có thể chưa chấm dứt các quan hệ dân sự thiết lập với các đối tác khác (người thứ ba), nhất là quan hệ dân sự trong hợp đồng và quan hệ dân sự ngoài hợp đồng, do vậy quan hệ thừa kế theo pháp luật cũng là quan hệ tài sản đối với người thứ ba. Nói tóm lại, quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài là một quan hệ phức tạp, có quan hệ gắn bó với nhiều hệ thống luật khác nhau, do đó, khi chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh, chúng ta không nên bỏ qua ba bản chất này của quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài.
13. Phương hướng thứ hai: Trong Tư pháp quốc tế các nước, khi chọn một hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, các luật gia thường đưa ra một tiêu chí mà theo đó pháp luật của Tòa án là pháp luật sẽ thường xuyên được áp dụng để giải quyết trong thực tế. Lý do thứ nhất của xu hướng này là Tòa án biết rõ pháp luật nước mình hơn pháp luật nước ngoài về thừa kế, do đó việc áp dụng thường xuyên pháp luật của Tòa án sẽ làm giảm khó khăn trong công tác xét xử. Lý do thứ hai của xu hướng này là, nếu cho phép pháp luật nước ngoài là pháp luật áp dụng để giải quyết vấn đề thừa kế theo pháp luật, Tòa án cũng như các bên trong quan hệ thừa kế phải biết nội dung của pháp luật nước ngoài. Để biết nội dung pháp luật nước ngoài, Tòa án hoặc các bên trong tranh chấp sẽ tự tìm hiểu và do không biết nội dung pháp luật nước ngoài nên Tòa án cũng như các bên trong tranh chấp phải thuê chuyên gia về luật nước ngoài, đây là một việc khó và tốn kém. Chính vì hai lý do căn bản trên mà các nước sử dụng tiêu chí chọn luật khác nhau để làm sao pháp luật của Tòa án có nhiều cơ hội áp dụng hơn pháp luật nước ngoài. Ví dụ, vì Pháp là nước có nhiều dân nhập cư và ít dân di cư nên người để lại thừa kế thường là người có nơi cư trú cuối cùng ở Pháp và do đó việc cho phép pháp luật nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật sẽ dẫn đến một thực tế là pháp luật Pháp thường xuyên được sử dụng. Theo chúng tôi, vì sự hiểu biết nội dung pháp luật nước ngoài của Tòa án có giới hạn và việc thuê chuyên gia về pháp luật nước ngoài rất đắt, chúng ta nên đi theo xu hướng này, cụ thể là làm thế nào để pháp luật Việt Nam thường xuyên được sử dụng trong thực tế đối với vấn đề thừa kế theo pháp luật.
14. Phương hướng thứ ba: Vì di sản ở nước ngoài nên bản án của Tòa án sẽ có thể phải được thừa nhận ở nước nơi có di sản, nhất là khi di sản là bất động sản. Các nước đều đưa ra điều kiện để thừa nhận bản án nước ngoài, do đó việc chọn pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nên tính đến việc làm thế nào để bản án của Tòa án có nhiều cơ hội được thừa nhận ở nước ngoài nơi có di sản, nếu không việc đưa ra bản án cũng vô ích. Mặt khác, khi di sản ở nước ngoài, công tác xét xử đôi khi phải dùng đến biện pháp ủy thác tư pháp, do đó nên có chút thiện chí với hệ thống pháp luật nước ngoài nơi có di sản để các biện pháp ủy thác có thể gặp thuận tiện. Vậy phương hướng thứ ba mà chúng ta nên làm là sử dụng một tiêu chí chọn pháp luật mà theo đó bản án của Tòa án nước ta có nhiều cơ hội được thừa nhận ở nước nơi có di sản và các biện pháp ủy thác tư pháp không gặp nhiều bất lợi.
15. Giải pháp kiến nghị lựa chọn cho xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam 15. Nếu sử dụng giải pháp khai thác quy phạm xung đột đã tồn tại, chúng ta có quy phạm xung đột về thừa kế theo pháp luật là: Thừa kế theo pháp luật được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có di sản. Giải pháp này có thể được chấp nhận vì chúng ta đã thấy rằng quan hệ thừa kế là một quan hệ tài sản đồng thời đơn giản vì chỉ cần giải thích rộng Điều 833 khoản 1 BLDS. Song theo chúng tôi, chúng ta không nên theo giải pháp này vì nó dẫn đến một thực tế rất phức tạp, chẳng hạn hậu quả của việc chọn luật cho ví dụ nêu trong phần số 6 là di sản P được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp, di sản t được điều chỉnh bởi pháp luật Thụy Sĩ, di sản d được điều chỉnh bởi pháp luật Đức và di sản V, v được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Vậy vấn đề thừa kế của anh N.V.A được điều chỉnh bởi bốn luật khác nhau: pháp luật của Pháp, pháp luật của Đức, pháp luật của Thụy Sĩ và pháp luật Việt Nam. Việc cho phép nhiều pháp luật khác nhau để điều chỉnh một vấn đề thừa kế theo pháp luật là không nên vì quá phức tạp và tốn kém, đi ngược lại với phương hướng thứ hai trình bày trong phần số 13. Vậy giải pháp thiết lập quy phạm xung đột mới cần được nghiên cứu.
16. Nếu theo giải pháp thứ nhất khi không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản đề cập trong phần số 8 thì chúng ta có kết luận sau: Pháp luật điều chỉnh thừa kế là pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch. Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên chúng ta có kết quả là pháp luật Pháp sẽ là pháp luật điều chỉnh vấn đề thừa kế vì người để lại thừa kế có quốc tịch Pháp. Điều đó có nghĩa là pháp luật Pháp sẽ điều chỉnh di sản tại Pháp cũng như di sản ở Đức, ở Thụy Sĩ và ở Việt Nam ngay cả đối với bất động sản V. Về mặt kinh phí, giải pháp này có nhiều ưu điểm hơn giải pháp trước vì chúng ta chỉ phải đầu tư vào nghiên cứu pháp luật Pháp. Nhưng giải pháp này vẫn còn một số nhược điểm: Thứ nhất, giải pháp này quá tôn trọng bản chất nhân thân và bỏ qua bản chất tài sản của quan hệ thừa kế theo pháp luật. Ở đây, chúng ta sẽ không cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh di sản này, cụ thể trong ví dụ là không cho phép pháp luật Việt Nam điều chỉnh di sản là bất động sản ở Việt Nam. Điều này đi ngược lại với xu thế chung của pháp luật Việt Nam. Trong thực tế, vì quan hệ về tài sản là bất động sản liên quan mật thiết với hệ thống pháp luật của nước nơi có bất động sản, pháp luật Việt Nam có xu hướng cho phép pháp luật nơi có tài sản điều chỉnh bất động sản13. Cũng cần nói thêm là việc không cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh quan hệ thừa kế liên quan đến di sản này có thể gây ra phản ứng không hay của nước nơi có di sản đối với một số biện pháp ủy thác hay đối với việc thừa nhận bản án của Tòa án nước ta trên nước này. Phát triển ví dụ trong phần 6, nếu anh N.V.A có một bất động sản ở Mỹ, áp dụng giải pháp này sẽ không cho phép pháp luật Mỹ điều chỉnh quan hệ thừa kế liên quan đến động sản này và do đó có thể gây phản ứng không hay của chính quyền Mỹ. Thứ hai, giải pháp này bất lợi đối với đối tác, người thứ ba, mà người để lại thừa kế thiết lập quan hệ trước khi chết vì thông thường những người này sống ở nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng14 và họ không có sự hiểu biết pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch, cụ thể trong ví dụ nghiên cứu phần lớn người thứ ba này ở Việt Nam và không có sự hiểu biết pháp luật Pháp. Vậy chúng ta không nên theo giải pháp này.
17. Nếu chúng ta theo giải pháp thứ hai khi không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản thì chúng ta có kết luận sau: Pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật là pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng. Áp dụng vào ví dụ nghiên cứu trong phần số 6 chúng ta có kết luận là pháp luật Việt Nam là pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế vì người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam. Điều đó có nghĩa là pháp luật Việt Nam sẽ điều chỉnh di sản V và v ở Việt Nam, di sản t ở Thụy Sĩ, di sản d ở Đức và di sản P tại Pháp ngay cả khi di sản P là bất động sản. Giải pháp này cũng như giải pháp vừa nghiên cứu có ưu điểm là chỉ có một pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế đồng thời giải pháp này không làm thiệt hại đến người thứ ba và tránh được những khó khăn trong việc xác định quốc tịch của người để lại thừa kế. Nhưng cũng như giải pháp vừa nghiên cứu, giải pháp này không cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh quan hệ thừa kế liên quan đến di sản này, điều này có thể làm phát sinh những bất lợi liên quan đến một số biện pháp ủy thác cũng như vấn đề công nhận bản án tại nước nơi có di sản. Vậy chúng ta cũng không nên theo giải pháp này và nên phân biệt di sản là động sản hay bất động sản.
18. Trong trường hợp chúng ta phân biệt di sản là động sản và bất động sản chúng ta có giải pháp cho di sản là bất động sản như sau: Pháp luật nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật về di sản này. Đối với quan hệ thừa kế theo pháp luật về di sản là động sản, chúng ta có hai giải pháp: Vấn đề này được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hoặc bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng. Theo chúng tôi, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, chúng ta nên cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật về động sản. Giải pháp mà theo đó chúng ta cho phép pháp luật nơi có di sản điều chỉnh quan hệ thừa kế về bất động sản và pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật về động sản có hai nhược điểm cơ bản. Thứ nhất, giải pháp này dẫn đến phân chia di sản thành phần nhỏ và dẫn đến việc áp dụng hai hay nhiều pháp luật vào một quan hệ thừa kế theo pháp luật, nhất là khi người để lại thừa kế có di sản là bất động sản ở nhiều nước khác nhau. Song trong thực tế, trường hợp người để lại thừa kế có di sản là bất động sản ở nhiều nước khác nhau ít xảy ra, vậy nhược điểm này không cản trở nhiều cho giải pháp mà chúng tôi kiến nghị lựa chọn. Thứ hai, giải pháp này buộc chúng ta phải phân biệt di sản là động sản và bất động sản trong khi đó “các phạm trù động sản và bất động sản không phải đã được hiểu một cách thống nhất trong các hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới”15. Sự khác nhau về khái niệm động sản và bất động sản trong pháp luật các nước dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật về xác định, định danh, xung đột khái niệm pháp lý hay còn được gọi là xung đột kín tùy theo thuật ngữ sử dụng cho hiện tượng xung đột này16. Tuy nhiên, hiện tượng xung đột này không gây cản trở lớn cho giải pháp mà chúng tôi kiến nghị vì loại xung đột này đã có giải pháp: Theo khoản 3, Điều 833 BLDS Việt Nam, “việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó”.
19. Theo chúng tôi, giải pháp vừa nêu trên là một giải pháp phù hợp nhất trong bối cảnh nước ta hiện nay vì nó có nhiều ứu điểm so với những giải pháp đã nghiên cứu.
Thứ nhất, giải pháp này tôn trọng bản chất tài sản và bản chất nhân thân của quan h quan hệ thừa kế. Ở đây, chúng ta tôn trọng bản chất tài sản của quan hệ thừa kế vì pháp luật nơi có di sản điều chỉnh quan hệ thừa kế về bất động sản, điều đó có thể tránh được những phản ứng không tốt của nước có di sản là bất động sản cho những biện pháp ủy thác cũng như việc thừa nhận bản án của Tòa án Việt Nam đối với tài sản này vì ở đây chúng ta áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản. Chúng ta tôn trọng bản chất nhân thân của quan hệ thừa kế vì di sản là động sản được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch, tức là pháp luật nhân thân của người để lại thừa kế.
Thứ hai, giải pháp này sẽ cho phép pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng trong thực tế:
Hiện nay nhiều người dân nước ta sang làm ăn sinh sống ở nước ngoài nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam và khi chế để lại di sản ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam. Mặt khác, do chiến tranh, một số người Việt Nam sang sống ở nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài, nhất là quốc tịch Mỹ và Pháp, và hiện nay về Việt Nam cư trú. Nếu cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh di sản là động sản, pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng. Đối với trường hợp thứ nhất, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng đối với di sản là động sản vì chúng ta cho phép pháp luật nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh di sản là động sản. Đối với trường hợp thứ hai, lúc đầu chúng ta có thể kết luận là pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng thường xuyên vì người để lại thừa kế có quốc tịch nước ngoài. Thế nhưng, theo chúng tôi, nếu áp dụng linh hoạt Tư pháp quốc tế nước ta và chỉ cần một chút kiến thức về Tư pháp quốc tế nước ngoài, chúng ta sẽ cho phép pháp luật Việt Nam áp dụng thường xuyên, cụ thể là chúng ta sẽ sử dụng kỹ thuật dẫn chiếu trở lại trong Tư pháp quốc tế nước ta và các quy phạm xung đột của Tư pháp quốc tế nước ngoài về quan hệ thừa kế theo pháp luật. Theo Điều 827, khoản 3 BLDS Việt Nam, “Trong trường hợp việc áp dụng pháp luật nước ngoài được […] quy định hoặc […] viện dẫn, thì pháp luật nước ngoài được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài; nếu pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vậy, nếu Tư pháp quốc tế nước ta cho phép pháp luật nước ngoài quyền điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật nhưng pháp luật nước này từ chối và dẫn chiếu ngược lại thì chúng ta sẽ áp dụng pháp luật nước ta. Kỹ thuật này tạo cơ hội cho pháp luật Việt Nam được áp dụng đồng thời vẫn được lòng các cơ quan pháp luật nước ngoài vì chúng ta đã cho pháp luật nước họ thẩm quyền điều chỉnh nhưng pháp luật nước họ lại dẫn ngược lại pháp luật nước ta. Để minh họa cho vấn đề này, chúng tôi xin lấy ví dụ trường hợp mà theo đó người để lại thừa kế là gốc Việt, có quốc tịch Pháp hay Mỹ và có nơi cư trú cuối dùng tại Việt Nam (giả thiết này sẽ thường xuyên xảy ra trong thực tế Việt Nam vì nhiều Việt kiều về cư trú ở Việt Nam và vẫn giữ quốc tịch Pháp hay Mỹ). Nếu giải pháp mà chúng tôi kiến nghị được sử dụng thì pháp luật điều chỉnh thừa kế về động sản đối với di sản mà những người này để lại là pháp luật của nước mà họ có quốc tịch, ở đây là pháp luật Pháp hay pháp luật Mỹ. Nhưng trong phần số10, chúng ta thấy Tư pháp quốc tế của hai nước này đều cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh di sản là động sản, điều đó có nghĩa là pháp luật Pháp và Mỹ cho phép pháp luật Việt Nam điều chỉnh và thông qua kỹ thuật dẫn chiếu trở lại chúng ta áp dụng pháp luật nước ta. Vậy, thông qua kỹ thuật dẫn chiếu trở lại, giải pháp mà chúng tôi kiến nghị sẽ tạo thêm cơ hội cho phép pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ thừa kế thường xuyên hơn, điều đó đáp ứng được phương hướng thứ hai mà chúng tôi trình bày trong phần 13.
Theo chúng tôi, nếu cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh quan hệ thừa kế về di sản này như chúng tôi kiến nghị, pháp luật Việt Nam cũng có thêm cơ hội được áp dụng trong thực tế và không làm phật lòng các cơ quan pháp luật của nước nơi có di sản. Trong phần số 8 và số 9, chúng ta thấy rằng Tư pháp quốc tế một số nước không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản và cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh, điều đó có nghĩa là pháp luật các nước này cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh di sản là bất động sản. Vận dụng kỹ thuật dẫn chiếu trở lại như phần trên, chúng ta có thể tạo thêm cơ hội áp dụng pháp luật Việt Nam trong thực tế. Để minh họa, chúng tôi xin trích hai ví dụ: Ví dụ thứ nhất, trường hợp một người Việt Nam sang làm ăn ở Tây Ban Nha hay Phi-lip-pin và có một bất động sản ở đó khi chết. Nếu giải pháp mà chúng tôi kiến nghị được áp dụng, pháp luật điều chỉnh di sản này là pháp luật Tây Ban Nha hay Phi-lip-pin (pháp luật của nước nơi có vật), nhưng trong phần số 8, chúng ta thấy pháp luật hai nước này dẫn chiếu trở lại pháp luật nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch, ở đây là pháp luật Việt Nam. Vậy, chúng ta có thêm cơ hội áp dụng luật Việt Nam trong trường hợp này. Ví dụ thứ hai, một người gốc Việt về Việt Nam cư trú sau một thời gian làm ăn sinh sống ở Thụy Sĩ và khi chết để lại một bất động sản ở Thụy Sĩ. Nếu giải pháp mà chúng tôi kiến nghị được áp dụng, pháp luật Thụy Sĩ là pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế về bất động sản này (pháp luật của nước nơi có vật), nhưng trong phần số 9, chúng ta thấy pháp luật nước này dẫn chiếu trở lại pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng, ở đây là pháp luật Việt Nam. Vậy, áp dụng kỹ thuật dẫn chiếu trở lại, chúng ta cũng tạo thêm cơ hội cho pháp luật Việt Nam được áp dụng đồng thời vẫn có thiện chí với pháp luật của nước nơi có bất động sản.
Có thể nói, chấp nhận giải pháp mà chúng tôi kiến nghị và vận dụng linh hoạt kỹ thuật dẫn chiếu trở lại, chúng ta được cả “tiếng” lẫn “miếng”. Chúng ta được “miếng” vì pháp luật nước ta được áp dụng thường xuyên trong thực tế và chúng ta được “tiếng” là vì chúng ta có thiện chí với pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay của nước nơi có di sản là bất động sản: Ở đây chúng ta cho pháp luật nước ngoài thẩm quyền điều chỉnh nhưng thực tế chúng ta lại áp dụng pháp luật nước ta và lý do của thực tế này là vì pháp luật nước ngoài cho phép chúng ta áp dụng pháp luật nước ta.
Một khó khăn khi dùng tiêu chí dẫn chiếu quốc tịch một cá nhân là đôi khi chúng ta không xác định được quốc tịch của cá nhân này. Nếu hoàn cảnh này xảy ra, theo chúng tôi, chúng ta nên quy định thêm như sau: Trong trường hợp không xác định được quốc tịch thì pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế về động sản là pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cứ trú cuối cùng và, trong trường hợp không xác định được quốc tịch cũng như nơi cư trú cuối cùng, pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật về động sản là pháp luật của Tòa án, tức là pháp luật Việt Nam. Giải pháp luân phiên này cũng cho phép pháp luật nước ta có cơ hội được áp dụng thường xuyên.
20. Nói tóm lại, với hoàn cảnh nước ta hiện nay, giải pháp hợp lý nhất trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật là phân biệt di sản thành động sản và bất động sản và việc điều chỉnh hai loại di sản này là như sau:
Thừa kế về bất động sản được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi có tài sản.
Thừa kế về động sản được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch. Trong trường hợp không xác định được quốc tịch thì pháp luật điều chỉnh quan
hệ thừa kế về động sản là pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng và, trong trường hợp không xác định được quốc tịch cũng như nơi cư trú cuối cùng, pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật về động sản là pháp luật của Tòa án.
Để đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, chúng ta nên luật hóa giải pháp trình bày ở trên và trong khi chờ đợi, Tòa án tối cao có thể thừa nhận giải pháp này thông qua thông tư hoặc công văn hướng dẫn áp dụng luật như đã làm trong những vấn đề khác17 hoặc sử dụng một vụ việc cụ thể để làm án lệ18.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Về khái niệm thừa kế, xem thêm: Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 1997, tập II, tr. 239; Nguyễn Ngọc Điệp, 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, NXB TP. HCM, 1997, tr. 45; Từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 1999, tr. 486.
2 Quan hệ mà “trong đó: ít nhất có một người bên để lại di sản hoặc bên nhận thừa kế có quốc tịch nước ngoài; tài sản thừa kế tồn tại ở nước ngoài; di chúc được lập ở nước ngoài”, Từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 1999, tr. 486.
3 Ví dụ: Theo Điều 37 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990, “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền thừa kế của người nước ngoài đối với tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam theo quy chế về người
nước ngoài tại Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận”.
4 Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2001, tr. 180.
5 Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2001, tập III, tr. 368.
6 Đoàn Năng, Vấn đề hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột hướng dẫn chọn pháp luật điều chỉnh các quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 11/1998, tr. 50 và 51; Đoàn Năng, Một số vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 226.
7 Xem thêm G.A.L. DROZ và M. REVILLARD, Juris-Classeur, Droit international, Facr. 557-10 (2002), n.8.
8 Xem thêm G.A.L DROZ và M. REVILLARD, Juris-Classeur, Droit international, Fasc. 557-10 (2002), n 6;
H. BATIFFOL và P. LAGARDE, Droit international privé, NXB L.G.D.J, 1983, tập II, n 641; Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2001, tr. 174.
9 Xem thêm G.A.L DROZ và M. REVILLARD, Juris-Classeur, Droit international, Fasc. 557-10 (2002), n 7;
Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2001, tr. 175.
10 Xem thêm G.A.L DROZ và M. REVILLARD, Juris-Classeur, Droit international, Fasc. 557-10 (2002), n
10; H. BATIFFOL và P. LAGARDE, Droit international privé, NXB L.G.D.J, 1983, tập II, n 641; Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2001, tr. 173.
11 Xem thêm G.A.L DROZ và M. REVILLARD, Juris-Classeur, Droit international, Fasc. 557-10 (2002), n
11.
12 Chính vì vậy mà theo Điều 843, khoản 2 BLDS Việt Nam “quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng dân sự được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”.
13 Ví dụ theo Điều 833, khoản 1 BLDS Việt Nam, “Việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó”. Vậy khi tài sàn là bất động sản
ở Việt Nam thì pháp luật Việt Nam điều chỉnh và ở nước ngoài thì pháp luật nước ngoài này điều chỉnh. Quan
điểm này được nhấn mạnh lại trong Điều 104, khoản 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2002: “Việc giải quyết
tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó” và Điều 934, khoản 3 BLDS Việt Nam: “Hợp đổng dân sự liên quan đến bất động sản ở Việt Nam phải tuân theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
14 Theo cuốn Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2001, tập III, tr. 16: “Nơi
cư trú cuối cùng thường là nơi người có tài sản, nơi tập trung các giao dịch dân sự của người để lại di sản khi còn sống, nơi phát sinh các quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người đó, nơi người đó thực hiện quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản”.
15 Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2001, tr. 121.
16 Xem thêm về vấn đề xung đột này: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công
an nhân dân, 2001, tr. 121 và 174; Đoàn Năng, Một số vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế, NXB Chính
trị quốc gia, 2001, tr. 84 và tiếp theo; Đỗ Văn Đại, Xung đột pháp luật về xác định, định danh trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, tháng 10/2002, tr. 53 và tiếp theo.
17 Theo Điều 19, khoản 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 2 tháng 4 năm 2002, “Tòa án nhân dân tối cao
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án”. Xem tương tự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 3 tháng 7 năm 1981, Điều 20, khoản 2 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 6 tháng 10 năm 1992, Điều 18, khoản 1.
18 Xem thêm về vai trò của Tòa án trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung và Tư pháp quốc tế Việt Nam nói riêng: Pháp luật TP. HCM, Việt Nam cần có án lệ (Trang web http://vnexpress.net, ngày 19 tháng 4 năm 2002); Đỗ Văn Đại, Tư pháp quốc tế và vấn đề xây dựng “quy phạm pháp luật” bởi Tòa án ở Pháp và Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, 7 (14)/2002, tr. 45 và tiếp theo.
Ts Đỗ Văn Đại

TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THỪA KẾ NHÀ Ở

A. Thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở
1. Về hồ sơ thừa kế nhà ở bao gồm:


- Một trong các giấy tờ thừa kế nhà ở như: di chúc hợp pháp, Biên bản phân chia di sản thừa kế, Bản án của toà án, bản khai di sản thừa kế có công chứng Nhà nước);
- Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà ở của người chết
- Bản sao Giấy khai sinh của người thừa kế nếu là con của người chết hoặc bản sao Giấy đăng ký kết hôn nếu người nhận thừa kế là vợ (chồng) của người chết làm cơ sở để miễn nộp nghĩa vụ tài chính.
- Giấy chứng tử;
- Bản khai nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất và Bản khai nộp lệ phí trước bạ nhà, đất (do cơ quan quản lý nhà ở cung cấp tại nơi tiếp nhận hồ sơ).
Đối với người được tặng cho là Việt kiều phải có thêm giấy tờ như Hộ chiếu hợp lệ chưa hết hạn do Việt Nam cấp hoặc Giấy xác nhận gốc là công dân Việt Nam…
2. Về trình tự, thủ tục thừa kế nhà ở


- Bước 1: Bên thừa kế nộp hồ sơ tại cơ quan quản lý nhà ở cấp huyện (nếu là cá nhân), cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh (nếu là tổ chức).
Nếu bên thừa kế không có di chúc hoặc bản án thì phải đến công chứng lập thủ tục kê khai di sản thừa kế hoặc chứng nhận biên bản phân chia di sản thừa kế. Trường hợp có tranh chấp thì phải giải quyết xong tranh chấp.
- Bước 2: Căn cứ vào hồ sơ, cơ quan quản lý nhà ở sẽ kiểm tra, xác định vị trí thửa đất và gửi cho cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính (nếu có);
- Bước 3: Sau khi có thông báo của cơ quan thuế, cơ quan quản lý nhà ở sẽ gửi thông báo nộp thuế để chủ nhà đi nộp nghĩa vụ tài chính tại cơ quan thuế (nếu chủ nhà không thuộc diện phải nộp hoặc được miễn nộp nghĩa vụ tài chính thì không có bước này).
- Bước 4: Sau khi đã nộp thuế, chủ nhà nộp biên lai thu thuế, lệ phí trước bạ cho cơ quan quản lý nhà ở để nhận Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.


Thời gian làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho người mua tối đa là 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Thời gian này không tính vào thời gian chủ nhà đi nộp các nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước.
B. Thừa kế nhà ở không có quyền sử dụng đất ở
1. Về hồ sơ thừa kế nhà ở bao gồm:
- Một trong các giấy tờ thừa kế nhà ở như: di chúc hợp pháp, Biên bản phân chia di sản thừa kế, Bản án của toà án, bản khai di sản thừa kế có công chứng Nhà nước);


- Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở của người chết
- Giấy chứng tử;
- Bản khai nộp nghĩa vụ tài chính.
Đối với người được tặng cho là Việt kiều phải có thêm giấy tờ như Hộ chiếu hợp lệ chưa hết hạn do Việt Nam cấp hoặc Giấy xác nhận gốc là công dân Việt Nam…
2. Về trình tự, thủ tục thừa kế nhà ở


Trình tự, thủ tục thừa kế nhà ở trong trường hợp này được thực hiện như quy định đối với trường hợp thừa kế nhà ở gắn với quyền sử dụng đất ở nêu tại phần a trên đây.
Bên nhận thừa kế nhà ở không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất mà chỉ phải nộp lệ phí trước bạ nhà ở (bằng 1% giá trị nhà ở theo quy định).
Bên thừa kế nhà ở chỉ được quyền sở hữu nhà ở theo thời hạn ghi trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Nguồn: Cục Quản lý nhà – BỘ XÂY DỰNG

CHỌN LUẬT ĐỂ ĐIỀU CHỈNH THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Chọn luật nào để điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam? Trong số các phương án được đưa ra và phân tích trong bài viết, theo tác giả, giải pháp hợp lý nhất là phân biệt di sản thànhđộng sản và bấtđộng sản. Hai loại di sản này được điều chỉnh như sau: thừa kế về bất động sản theo pháp luật của nước nơi có tài sản; thừa kế về động sản theo pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch, hoặc của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng, hoặc pháp luật của Toà án
Trước ngày Bộ luật Dân sự Việt Nam có hiệu lực, vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài ở nước ta được đề cập trong một số văn bản nhưng cũng mới trên nguyên tắc chung nhất, còn thiếu những quy định chi tiết, đặc biệt là các quy phạm giải quyết xung đột pháp luật. Từ ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực, một loạt quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi các quy phạm xung đột nhưng chế định thừa kế còn “để trống”.
Phương hướng chọn luật
Thứ nhất, trong tư pháp quốc tế, khi chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chúng ta sẽ họn hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với loại quan hệ cần giải quyết. Cụ thể ở đây là hệ thống pháp luật có quan hệ gắn bó với những vấn đề của thừa kế theo pháp luật. Thông thường, việc định hình hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với loại quan hệ cần điều chỉnh khá dễ dàng, ví dụ: pháp luật có quan hệ mật thiết với tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng thường là pháp luật nơi thực hiện hợp đồng1.
Tuy vậy, trong lĩnh vực mà chúng ta đang đề cập, việc định hình hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với những vấn đề của thừa kế theo pháp luật lại khá phức tạp vì những vấn đề này có thể liên quan đến một vài hệ thống pháp luật khác nhau. Khi chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh, chúng ta không nên bỏ qua ba yếu tố sau của quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài:
Do có sự chuyển dịch quyền sở hữu tàisản của người để lại thừa kế cho người còn sống, quan hệ thừa kế là một quan hệ tài sản và do đó có quan hệ với pháp luật nơi có tài sản. Do có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của người để lại thừa kế cho người còn sống trên cơ sở huyết thống, quan hệ thừa kế là một quan hệ nhân thân và do đó có quan hệ với pháp luật nhân thân của người để lại thừa kế.
Khi chết, người để lại thừa kế có thể cha chấm dứt các quan hệ dân sự thiết lập với các đối tác khác (người thứ ba), nhất là quan hệ dân sự hợp đồng và quan hệ dân sự ngoài hợp đồng, do vậy quan hệ thừa kế theo pháp luật cũng là quan hệ tài sản đối với người thứ ba.
Thứ hai, trong tư pháp quốc tế các nước, khi chọn một hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, các luật gia thường đưa ra một tiêu chí mà theo đó pháp luật của Toà án là pháp luật sẽ thường xuyên được áp dụng để giải quyết trong thực tế. Lý do thứ nhất của xu hướng này là Toà án biết rõ pháp luật nước mình hơn pháp luật nước ngoài về thừa kế, do đó việc áp dụng thường xuyên pháp luật của Toà án sẽ làm giảm khó khăn trong công tác xét xử. Lý do thứ hai của xu hướng này là, nếu cho phép pháp luật nước ngoài áp dụng để giải quyết vấn đề thừa kế theo pháp luật, Toà án cũng như các bên trong quan hệ thừa kế phải biết nội dung của pháp luật nước ngoài. Để biết nội dung pháp luật nước ngoài, Toà án hoặc các bên trong tranh chấp sẽ tự tìm hiểu và do không biết nội dung pháp luật nước ngoài nên Toà án cũng như các bên trong tranh chấp phải thuê chuyên gia về luật nước ngoài, đây là một việc khó và tốn kém. Chính vì hai lý do căn bản trên mà các nước sử dụng tiêu chí chọn luật khác nhau để làm sao pháp luật của Toà án có nhiều cơ hội áp dụng hơn pháp luật nước ngoài. Ví dụ: vì Pháp là nước có nhiều dân nhập c và ít dân di c nên người để lại thừa kế thường là người có nơi cư trú cuối cùng ở Pháp và do đó việc cho phép pháp luật nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật sẽ dẫn đến một thực tế là pháp luậtư pháp thường xuyên được sử dụng. Theo chúng tôi, vì sự hiểu biết nội dung pháp luật nước ngoài của Toà án có giới hạn và việc thuê chuyên gia về pháp luật nước ngoài rất đắt, chúng ta nên đi theo xu hướng này, cụ thể là làm thế nào để pháp luật Việt Nam thường xuyên được sử dụng trong thực tế đối với vấn đề thừa kế theo pháp luật.
Thứ ba, đối với di sản ở nước ngoài, bản án của Toà án sẽ có thể phải được thừa nhận ở
nước nơi có di sản, nhất là khi di sản là bất động sản. Các nước đều đưa ra điều kiện để thừa nhận bản án nước ngoài, do đó việc chọn pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nên tính đến việc làm thế nào để bản án của Toà án có nhiều cơ hội được thừa nhận ở nước ngoài nơi có di sản, nếu không việc đưa ra bản án cũng vô ích. Mặt khác, khi di sản ở nước ngoài, công tác xét xử đôi khi phải dùng đến biện pháp uỷ thác tư pháp, do đó nên có chút thiện chí với hệ thống pháp luật nước ngoài nơi có di sản để các biện pháp uỷ thác có thể gặp thuận tiện.
Vậy phương hướng thứ ba mà chúng ta nên làm là sử dụng một tiêu chí chọn pháp luật mà theo đó bản án của Toà án nước ta có nhiều cơ hội được thừa nhận ở nước nơi có di sản và các biện pháp uỷ thác tư pháp không gặp nhiều bất lợi.
Giải pháp chọn luật
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, để hoàn thiện tư pháp quốc tế về vấn đề xung độtư pháp luật về thừa kế theo pháp luật, chúng ta có thể sử dụng hai phương pháp sau: Thứ nhất, khai thác những quy phạm xung độtư pháp luật đã tồn tại để đưa quan hệ thừa kế theo pháp luật vào phần phạm vi của chúng; thứ hai, thiết lập quy phạm xung đột mới để điều chỉnh vấn đề này (Xem hộp 1).
Sau đây chúng tôi sẽ phân tích từng phương án chọn luật áp dụng theo các phương án này, qua đó nhận biết được  phương án nào là hợp lý nhất đối với Việt Nam hiện nay
Không phân biệt di sản động sản hay bất động sản
Trong trường hợp này, chúng ta có các phương án sau:
a) Nếu sử dụng giải pháp khai thác quy phạm xung đột đã tồn tại, chúng ta có quy phạm xung đột về thừa kế theo pháp luật là: thừa kế theo pháp luật được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có di sản. Giải pháp này có thể được chấp nhận vì chúng ta đã thấy rằng quan hệ thừa kế là một quan hệ tài sản, đơn giản vì chỉ cần giải thích rộng Khoản 1, Điều 833 của BLDS (Xem hộp 1). Song theo chúng tôi, chúng ta không nên theo giải pháp này vì việc cho phép nhiều pháp luật khác nhau để điều chỉnh một vấn đề thừa kế theo pháp luật sẽ là quá phức tạp và tốn kém, đi ngợc lại với phương hướng thứ hai đã trình bày. Vậy giải pháp thiết lập quy phạm xung đột mới cần được nghiên cứu. Trong trường hợp này cũng sẽ có một vài phương án.
=========================================================================
Hộp 1:
Khai thác những quy phạm xung đột đã tồn tại
Xin nêu ví dụ về một trong những quy phạm xung đột đã tồn tại mà chúng ta có thể khai thác là quy phạm tại Khoản 1, Điều 833 của Bộ luật Dân sự (BLDS). Theo điều khoản này, “việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”. Khoản 1, Điều 833, không định nghĩa thế nào là “việc xác lập” quyền sở hữu đối với tài sản. Trước sự chung chung và trừu tợng này, thông qua việc giải thích pháp luật, chúng ta có thể coi thừa kế theo pháp luật là một “việc xác lập” quyền sở hữu đối với tài sản. Cách giải thích này có thể được chấp nhận vì theo Khoản 5, Điều 176 của BLDS, “quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây [...]: được thừa kế tài sản”.
Và chúng ta có quy phạm xung đột sau: vấn đề thừa kế theo pháp luật được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi có tài sản.
Thiết lập quy phạm xung đột mới
Khi hoàn thiện tư pháp quốc tế nước ta bằng cách thiết lập quy phạm xung đột mới, hai loại giải pháp sau có thể được sử dụng:
Nếu không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản, thì hoặc áp dụng pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế; hoặc áp dụng pháp luật của nước mà người để lại thừa kế cư trú để điều chỉnh vấn đề thừa kế. Nếu phân biệt di sản là động sản hay bất động sản, thì hoặc áp dụng pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi c trú cuối cùng điều chỉnh di sản là động sản và pháp luật của nước nơi có tài sản điều chỉnh di sản là bất động sản; hoặc áp dụng pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh thừa kế đối với di sản là động sản và pháp luật nơi có tài sản để điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di sản là bất động sản.
==============================================================
b) Pháp luật điều chỉnh thừa kế pháp luật của nước người để lại thừa kế quốc tịch
Về mặt kinh phí, giải pháp này có nhiều ưu điểm hơn giải pháp trước vì chúng ta chỉ phải đầu tư vào nghiên cứu pháp luật được sử dụng để điều chỉnh vấn đề thừa kế là pháp luật của nước ngoài mà người để lại thừa kế mang quốc tịch. Nhưng giải pháp này vẫn còn một số nhược điểm:
Thứ nhất, giải pháp này quá tôn trọng bản chất nhân thân và bỏ qua bản chất tài sản của quan hệ thừa kế theo pháp luật. ở đây, sẽ không cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh di sản này, cụ thể trong ví dụ là không cho phép pháp luật Việt Nam điều chỉnh di sản là bất động sản ở Việt Nam. Điều này đi ngợc lại với xu thế chung của pháp luật Việt Nam. Trong thực tế, vì quan hệ về tài sản là bất động sản liên quan mật thiết với hệ thống pháp luật của nước nơi có bất động sản, pháp luật Việt Nam có xu hướng cho phép pháp luật nơi có tài sản điều chỉnh bất động sản2. Cũng cần nói thêm là việc không cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh quan hệ thừa kế liên quan đến di sản này có thể gây ra phản ứng không hay của nước nơi có di sản đối với một số biện pháp uỷ thác hay đối với việc thừa nhận bản án của Toà án nước ta trên nước này.
Thứ hai, giải pháp này bất lợi đối với đối tác là người thứ ba mà người để lại thừa kế thiết lập quan hệ trước khi chết vì thông thường những người này sống ở nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng3 và họ không có sự hiểu biết pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch. Vậy, theo chúng tôi, chúng ta không nên theo giải pháp này.
c) Pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật là pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng
Giải pháp này cũng có ưu điểm là chỉ có một pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế đồng thời giải pháp này không làm thiệt hại đến người thứ ba và tránh được những khó khăn trong việc xác định quốc tịch của người để lại thừa kế. Nhưng cũng như giải pháp vừa nghiên cứu, giải pháp này không cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh quan hệ thừa kế liên quan đến di sản này. Điều này có thể làm phát sinh những bất lợi liên quan đến một số biện pháp uỷ thác cũng như vấn đề công nhận bản án tại nước nơi có di sản. Vậy, chúng ta cũng không nên theo giải pháp này.
Phân biệt di sản là động sản và bất động sản
Trong trường hợp chúng ta phân biệt di sản là động sản và bất động sản, chúng ta có giải pháp cho di sản là bất động sản như sau: Pháp luật nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật về di sản này.
Đối với quan hệ thừa kế theo pháp luật về di sản là động sản, chúng ta có hai giải pháp: Vấn đề này được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hoặc bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng.
Theo chúng tôi, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, chúng ta nên cho phép pháp luật của
nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật về động sản. Giải pháp mà theo đó chúng ta cho phép pháp luật nơi có di sản điều chỉnh quan hệ thừa kế về bất động sản và pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế theo pháp luật về động sản có hai nhược điểm cơ bản. Thứ nhất, giải pháp này dẫn đến phân chia di sản thành phần nhỏ và dẫn đến việc áp dụng hai hay nhiều pháp luật vào một quan hệ thừa kế theo pháp luật, nhất là khi người để lại thừa kế có di sản là bất động sản ở nhiều nước khác nhau. Song trong thực tế, trường hợp người để lại thừa kế có di sản là bất động sản ở nhiều nước khác nhau ít xảy ra, vậy nhợc điểm này không cản trở nhiều cho giải pháp mà chúng tôi kiến nghị lựa chọn. Thứ hai, giải pháp này buộc chúng ta phải phân biệt di sản là động sản và bất động sản trong khi đó “các phạm trù động sản và bất động sản không phải đã được hiểu một cách thống nhất trong các hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới”4.
Sự khác nhau về khái niệm động sản bất động sản trong pháp luật các nước dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật về xác định, định danh, xung đột khái niệm pháp lý hay còn được gọi là xung đột kín tuỳ theo thuật ngữ sử dụng cho hiện tượng xung đột này5.
Tuy nhiên, hiện tượng xung đột này không gây cản trở lớn cho giải pháp mà chúng tôi kiến nghị vì loại xung đột này đã có giải pháp: Theo Khoản 3, Điều 833 của BLDS Việt Nam, “việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó”.
Theo chúng tôi, giải pháp vừa nêu trên là một giải pháp phù hợp nhất trong bối cảnh nước ta hiện nay vì nó có nhiều ưu điểm so với những giải pháp đã nghiên cứu.
Thứ nhất, giải pháp này tôn trọng bản chất tài sản và bản chất nhân thân của quan hệ thừa kế. ở đây, chúng ta tôn trọng bản chất tài sản của quan hệ thừa kế vì pháp luật nơi có di sản điều chỉnh quan hệ thừa kế về bất động sản, điều đó có thể tránh được những phản ứng không tốt của nước có di sản là bất động sản cho ngoài cũng như ở Việt Nam. Mặt khác, do chiến tranh, một số người Việt Nam sang sống ở nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài, nhất là quốc tịch Mỹ và Pháp, và hiện nay về Việt Nam cư trú. Nếu cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh di sản là động sản, pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng. Đối với trường hợp thứ nhất, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng đối với di sản là động sản vì chúng ta cho phép pháp luật nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh di sản là động sản. Đối với trường hợp thứ hai, lúc đầu chúng ta có thể kết luận là pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng thường xuyên vì người để lại thừa kế có quốc tịch nước ngoài. Thế nhưng, theo chúng tôi, nếu áp dụng linh hoạt hững biện pháp uỷ thác cũng như việc thừa nhận bản án của Toà án Việt Nam đối với tài sản này vì ở đây chúng ta áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản. Chúng ta tôn trọng bản chất nhân thân của tư pháp quốc tế nước ta và một chút kiến thức về tư pháp quốc tế nước ngoài, chúng ta sẽ cho phép pháp luật Việt Nam áp dụng thường xuyên, cụ thể là chúng ta sẽ sử dụng quan hệ thừa kế vì di sản là động sản được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch, tức là pháp luật nhân thân của người để lại thừa kế.
Thứ hai, giải pháp này sẽ cho phép pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng trong thực tế.
Hiện nay nhiều người dân nước ta sang làm ăn sinh sống ở nước ngoài nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam và khi chết để lại di sản ở nước kỹ thuật dẫn chiếu trở lại trong tư pháp quốc tế nước ta và các quy phạm xung đột của T pháp quốc tế nước ngoài về quan hệ thừa kế theo pháp luật. Theo Khoản 3, Điều 827 của BLDS, “Trong trường hợp việc áp dụng pháp luật nước ngoài được [...] quy định hoặc [...] viện dẫn, thì pháp luật nước ngoài được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài; nếu pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vậy, nếu tư pháp quốc tế nước ta cho phép pháp luật nước ngoài quyền điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật nhưng pháp luật nước này từ chối và dẫn chiếu ngợc lại thì chúng ta sẽ áp dụng pháp luật nước ta. Kỹ thuật này tạo cơ hội cho pháp luật Việt Nam được áp dụng đồng thời vẫn được lòng các cơ quan pháp luật nước ngoài vì chúng ta đã cho pháp luật nước họ thẩm quyền điều chỉnh nhưng pháp luật nước họ lại dẫn ngược lại pháp luật nước ta (Xem hộp 2).
Vậy, thông qua kỹ thuật dẫn chiếu trở lại, giải pháp mà chúng tôi kiến nghị sẽ tạo thêm cơ hội cho phép pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ thừa kế thường xuyên hơn, điều đó đáp ứng được phương hướng thứ hai mà chúng tôi đã trình bày.
================================================================
Hộp 2:
Chúng tôi xin lấy ví dụ trường hợp mà theo đó người để lại thừa kế là gốc Việt, có quốc tịch Pháp hay Mỹ và có nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam (giả thiết này sẽ thường xuyên xảy ra trong thực tế Việt Nam vì nhiều Việt kiều về cư trú ở Việt Nam và vẫn giữ quốc tịch Pháp hay Mỹ). Nếu giải pháp mà chúng tôi kiến nghị được sử dụng, thì pháp luật điều chỉnh thừa kế về động sản đối với di sản mà những người này để lại là pháp luật của nước mà họ có quốc tịch, ở đây là pháp luật tư pháp hay pháp luật Mỹ. Nhưng tư pháp quốc tế của hai nước này đều cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi c trú cuối cùng điều chỉnh di sản là động sản, điều đó có nghĩa là pháp luậtư pháp và Mỹ cho phép pháp luật Việt Nam điều chỉnh và thông qua kỹ thuật dẫn chiếu trở lại chúng ta áp dụng pháp luật nước ta.
===============================================================
Tư pháp quốc tế một số nước không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản và cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh, điều đó có nghĩa là pháp luật các nước này cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh di sản là bất động sản (Xem hộp 3).
Vậy, áp dụng kỹ thuật dẫn chiếu trở lại, chúng ta cũng tạo thêm cơ hội cho pháp luật Việt Nam được áp dụng đồng thời vẫn có thiện chí với pháp luật của nước nơi có bất
động sản. Có thể nói, chấp nhận giải pháp mà chúng tôi kiến nghị và vận dụng linh hoạt kỹ thuật dẫn chiếu trở lại, pháp luật nước ta sẽ được áp dụng thường xuyên trong thực tế và hơn nữa, thể hiện thiện chí với pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay của nước nơi có di sản là bất động sản. ở đây, chúng ta cho pháp luật nước ngoài thẩm quyền điều chỉnh nhưng thực tế chúng ta lại áp dụng pháp luật nước ta và lý do của thực tế này là vì pháp luật nước ngoài cho phép chúng ta áp dụng pháp luật nước ta.
===============================================================
Hộp 3:
· Một người Việt Nam sang làm ăn ở Tây Ban Nha hay Philippin và có một bất
động sản ở đó khi chết. Nếu giải pháp mà chúng tôi kiến nghị được áp dụng, pháp luật
điều chỉnh di sản này là pháp luật Tây Ban Nha hay Philippin (pháp luật của nước nơi có vật), nhưng pháp luật hai nước này dẫn chiếu trở lại pháp luật nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch, ở đây là pháp luật Việt Nam. Vậy, chúng ta có thêm cơ hội áp dụng luật Việt Nam trong trường hợp này.
· Một người gốc Việt về Việt Nam cư trú sau một thời gian làm ăn sinh sống ở Thuỵ Sỹ và khi chết để lại một bất động sản ở Thuỵ Sỹ. Nếu giải pháp mà chúng tôi kiến nghị được áp dụng, pháp luật Thuỵ Sỹ là pháp luậtđiều chỉnh quan hệ thừa kế về bất động sản này (pháp luật của nước nơi có vật), nhưng pháp luật nước này dẫn trở lại pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng, ở đây là pháp luật Việt Nam.
==================================================================
Một khó khăn khi dùng tiêu chí dẫn chiếu quốc tịch một cá nhân là đôi khi chúng ta không xác định được quốc tịch của cá nhân này. Nếu hoàn cảnh này xảy ra, theo chúng tôi, chúng ta nên quy định thêm như sau: Trong trường hợp không xác định được quốc tịch thì pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế về động sản là pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng và, trong trường hợp không xác định được quốc tịch cũng như nơi cư trú cuối cùng, pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật về động sản là pháp luật của Toà án, tức là pháp luật Việt Nam. Giải pháp luân phiên này cũng cho phép pháp luật nước ta có cơ hội được áp dụng thường xuyên.
Kết luận
Nói tóm lại, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, giải pháp hợp lý nhất là phân biệt di sản thành động sản và bất động sản và việc điều chỉnh hai loại di sản này là như sau:
1. Thừa kế về bất động sản được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi có tài sản.
2. Thừa kế về động sản được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch. Trong trường hợp không xác định được quốc tịch thì pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế về động sản là pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng và, trong trường hợp không xác định được quốc tịch cũng như nơi cư trú cuối cùng, pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật về động sản là pháp luật của Toà án.
Để bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, chúng ta nên luật hoá giải pháp trình bày ở trên và trong khi chờ đợi, Toà án tối cao có thể thừa nhận giải pháp này thông qua thông t hoặc công văn hướng dẫn áp dụng luật như đã làm trong những vấn đề khác6 hoặc sử dụng một vụ việc cụ thể để làm án lệ7./.
======================================
1 Chính vậy theo Điều 834, Khoản 2 BLDS Việt Nam, “quyền nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng dân sự
được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thoả thuận khác”.
2 dụ theo điều 833, khoản 1, BLDS Việt Nam, “Việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối
với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi tài sản đó“. Vậy khi tài sản bất động sản Việt Nam
thì pháp luật Việt Nam điều chỉnh nước ngoài thì pháp luật nước ngoài này điều chỉnh. Quan điểm này được
nhấn mạnh lại trong điều 104, khoản 3, Luật hôn nhân gia đình năm 2000: “Việc giải quyết tài sản là bất động
sản nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi bất động sản đó Điều 834, khoản 3, BLDS
Việt Nam: “Hợp đồng dân sự liên quan đến bất động sản Việt Nam phải tuân theo pháp luật Cộng hoà hội
chủ nghĩa Việt Nam”.
3 Theo cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2001, tập III, tr.16: “Nơi cư trú
cuối cùng thường nơi người tài sản, nơi tập trung các giao dịch dân sự của người để lại di sản khi còn sống,
nơi phát sinh các quyền tài sản nghĩa vụ tài sản của người đó, nơi người đó thực hiện quyền tài sản nghĩa vụ
tài sản”.
4 Giáo trình tư pháp quốc tế, Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2001, tr. 121.
5 Xem thêm về vấn đề xung đột này: Giáo trình tư pháp quốc tế, Trường Đại học luật Nội, Nxb Công an nhân
dân, 2001, tr. 121 174; Đoàn Năng, Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia,
2001, tr. 84 tiếp theo; Đỗ Văn Đại, Xung độtư pháp luật về xác định, định danh trong tư pháp quốc tế Việt Nam,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tháng 10/2002.
6 Theo Điều 19, Khoản 1, Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 2 tháng 4 năm 2002, “Tòa án nhân dân tối cao có
những nhiệm vụ quyền hạn sau đây: Hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhấtư pháp luật, tổng kết kinh nghiệm
xét xử của các Tòa án”. Xem tơng tự, Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 3 tháng 7 năm 1981, Điều 20, Khoản 2
Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 6 tháng 10 năm 1992, Điều 18, Khoản 1.
7 Xem thêm về vai trò của Toà án trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung tư pháp quốc tế Việt Nam
nói riêng: Pháp Luật TP HCM, Việt Nam cần có án lệ (Trang Web , ngày 19 tháng 4 năm 2002).
——————————————————————————————————-
(Theo TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 7/2003)