CHƯƠNG I: RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
PHẦN 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1. Khái quát chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
PHẦN 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1. Khái quát chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ
lực để đạt được lợi thế hơn so với các đối thủ. Tuy nhiên, khi phải đối
mặt với cạnh tranh, không ít các doanh nghiệp đã nhìn nhận cạnh tranh
như một mối hiểm họa đối với khả năng thu lợi nhuận cũng như sự tồn vong
của doanh nghiệp. Vì vậy, thay vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao năng lực
cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp
này đã chọn một con đường dễ dàng hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường về giá cả, sản xuất, thị trường,
khách hàng… nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận kinh doanh của các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận.
Hậu quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
sự độc quyền hóa thị trường, theo đó các vấn đề quan trọng của thị
trường như giá cả, sản lượng, khách hàng… không còn tuân thủ theo quy
luật thị trường mà bị khống chế bởi một nhóm các doanh nghiệp tham gia
thỏa thuận. Từ việc khống chế thị trường, hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, vì vậy, thường mang tính chất ―trục lợi‖ (exploitative) hoặc
―ngăn cản, loại bỏ‖ (exclusionary) cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh
tranh như Adam Smith đã phát hiện thấy trong cuốn Sự thịnh vượng của các
quốc gia xuất bản năm 1776:
“…những người trong cùng một nghề thường hiếm khi
gặp nhau, thậm chí để vui vẻ và giải trí, nhưng nếu có thì các cuộc nói
chuyện giữa họ thường kết thúc với âm mưu chống lại công chúng, hoặc
một số thủ đoạn để tăng giá”.
Mặc dù vậy, không phải tất cả các thỏa thuận giữa
các doanh nghiệp đều nhất thiết nhằm mục đích hoặc có tác động làm
phương hại cạnh tranh. Trong một số quốc gia, luật cạnh tranh có quy
định miễn trừ cho một số thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp nếu
các thỏa thuận đó có tác dụng làm tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa
thị trường. Ví dụ, nhiều quốc gia cho phép các doanh nghiệp hợp tác
trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển sản phẩm (R&D), nghiên cứu,
phát triển các tiêu chuẩn thống nhất cho sản phẩm… để kích thích lợi thế
kinh tế qui mô, thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ… mang lại lợi
ích cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế. Từ các đánh giá, nhìn
nhận về tác động tiêu cực của các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
pháp luật cạnh tranh của hầu khắp các nước trên thế giới đều có quy
định điều chỉnh các hành vi thỏa thuận và đều coi pháp luật điều chỉnh
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong ba cột trụ quan trọng
của Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, như đã đề cập trên đây, do không phải
bất kỳ thỏa thuận nào giữa các doanh nghiệp cũng mang ý nghĩa tiêu cực
nên việc phân định rõ các dạng thức thỏa thuận, đánh giá được bản chất,
tác động của các hành vi thỏa thuận có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với việc xây dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh ở các quốc gia.
1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Mặc dù không có một khái niệm chung, thống nhất giữa
các quốc gia về ―thỏa thuận hạn chế cạnh tranh‖, tuy nhiên, từ thực tiễn
thực thi pháp luật, có thể thấy cách hiểu, cách tiếp cận đối với ―thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh‖ ở các quốc gia có nhiều điểm tương đối đồng
nhất.
Ở Châu Âu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy
định tại Điều 101 (Điều 81 cũ) của Hiệp ước thành lập liên minh Châu Âu
như sau: "Mọi thoả thuận giữa các doanh nghiệp, quyết định của hiệp
hội các doanh nghiệp và mọi hành vi liên kết khác có thể ảnh hưởng đến
thương mại giữa các nước thành viên và có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản,
hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường của liên
minh, đều bị coi là đi ngược lại với mục đích thành lập thị trường chung
và bị cấm”.
Tại Nhật Bản, khoản 6, Điều 2, Luật Chống độc quyền
quy định: “Hạn chế thương mại bất hợp lý là các hoạt động kinh doanh mà
thông qua đó bất kỳ doanh nghiệp nào bằng hợp đồng, thỏa thuận hay bất
kỳ các hoạt động thông đồng khác, không phụ thuộc tên gọi, cùng hạn chế
hay tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ theo cách thức cố định
giá, duy trì giá hay tăng giá, hoặc để giới hạn sản xuất, công nghệ, sản
phẩm, cơ sở sản xuất hay khách hàng hoặc giao dịch của các đối tác, gây
ra hạn chế đáng kể đối với cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, đi
ngược lại lợi ích chung”. Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh hiện hành thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh được liệt vào nhóm các hành vi hạn chế cạnh
tranh, theo đó là các hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản
trở cạnh tranh trên thị trường. Khác với pháp luật cạnh tranh của Châu
Âu và Nhật Bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam không đưa ra khái niệm về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà quy định cụ thể về 8 dạng thức (hành
vi) thoả thuận, bao gồm các thỏa thuận như thỏa thuận ấn định giá, phân
chia thị trường, tiết chế sản lượng… quy định tại Điều 8, Luật Cạnh
tranh. Như vậy, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng như của các quốc
gia nêu trên đều không phân biệt hình thức thỏa thuận (công khai hay
ngầm) và đều nhắm vào mục đích/hệ quả hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận.
Tuy nhiên, từ các cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, có thể thấy rằng pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành sử
dụng cách tiếp cận đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hẹp hơn so với
tiếp cận của Châu Âu và Nhật Bản, chí ít trên 2 phương diện:
Ở Việt Nam, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ bao hàm
thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, không bao hàm các quyết định của Hiệp
hội doanh nghiệp hay các hành vi liên kết khác như ở Châu Âu và Nhật
Bản. Chính bởi cách tiếp cận này, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đã không
xem xét vai trò của các hiệp hội trong các vụ việc liên quan đến hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Xuất phát từ cách tiếp cận liệt kê hành vi, ở Việt
Nam, ngoài 8 dạng thỏa thuận được luật hóa tại Điều 8 của Luật, các hạn
chế thương mại bất hợp lý khác hay các hành vi liên kết, thông đồng khác
mặc dù có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy
luật cạnh tranh trên thị trường nhưng nếu không thuộc 8 dạng thỏa thuận
được liệt kê sẽ không bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và không
bị xem xét. Trong các phần sau, báo cáo sẽ phân tích kỹ lưỡng hơn các
điểm tương đồng, dị biệt trong cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh của pháp luật cạnh tranh Việt Nam và của một số
nước khác, đánh giá các ưu, nhược điểm để từ đó có các khuyến nghị phù
hợp.
ĐỌC TOÀN BỘ BÁO CÁO TẠI ĐÂY
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét