Hiển thị các bài đăng có nhãn luật dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn luật dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Quyền sở hữu và quyền chiếm hữu - bài học về tình huống luật xa rời cuộc sống

1. Dẫn nhập
Thoạt nhìn, các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) về quyền sở hữu có nhiều nét tương đồng với các quy định cùng tính chất được ghi nhận tại các BLDS của các nước tiền tiến như Pháp, Đức, Nhật. Đặc biệt, về nội dung của quyền sở hữu, người làm luật Việt Nam thừa nhận quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật (BLDS Điều 164). Sự thừa nhận đó không khác mấy so với sự nhìn nhận của người Pháp về các yếu tố đặc trưng của quyền sở hữu, như được khẳng định tại Điều 544 BLDS Napoléon: “Quyền sở hữu là quyền hưởng dụng và định đoạt tài sản một cách tuyệt đối nhất, miễn là không phạm điều cấm theo luật hoặc theo văn bản lập quy”[1]. Điểm khác biệt đáng chú ý nhất có lẽ là việc cụm từ “quyền chiếm hữu” được ghi nhận trong định nghĩa chính thức về nội dung quyền sở hữu trong BLDS Việt Nam, nhưng không thấy xuất hiện trong điều luật tương ứng của BLDS Pháp.    
Tuy nhiên, chính sự khác biệt ấy đã dẫn đến sự hình thành một chế độ pháp lý về sở hữu rất đặc thù trong luật Việt Nam. Điều này khiến cho một mặt, luật Việt Nam trở nên khó hiểu đối với thế giới, mặt khác, việc thực hiện quyền sở hữu trở nên phức tạp do sự trộn lẫn các quyền năng có tính chất khác biệt trong khuôn khổ một chế định duy nhất.
2. Chiếm hữu và quyền sở hữu   
2.1. Nội dung của quyền sở hữu theo luật của các nước tiền tiến  
Truyền thống La Mã. Từ rất sớm, người La Mã đã phân tích được quyền sở hữu thành một tập hợp của ba nhóm quyền năng, gọi là usus, fructus abusus[2]. Một cách ngắn gọn, usus là quyền sử dụng tài sản, quyền khai thác công năng của tài sản nhằm phục vụ cho nhu cầu của chủ thể; fructus là quyền thu nhận những lợi ích vật chất mà tài sản mang lại, đặc biệt là những lợi ích được nhận dạng dưới hình thức hoa lợi (fruits) của tài sản; còn abusus là quyền định đoạt tài sản, bao gồm định đoạt vật chất (tiêu dùng, tiêu huỷ,...) và định đoạt pháp lý (bán, tặng cho, để thừa kế,…).         
Quan niệm về nội dung của quyền sở hữu như trên được quán triệt trong luật của các nước tiền tiến, đặc biệt là các nước châu Âu, và được sử dụng như một công cụ chủ yếu để phân tích các quyền chủ thể đối với tài sản, nhằm làm rõ bản chất của các quyền ấy, tạo điều kiện cho việc xây dựng, hoàn thiện các chế độ pháp lý liên quan. Chẳng hạn, quyền sở hữu được ghi nhận ở một người khi người đó có đủ ba quyền năng - dùng, thu lợi và định đoạt; người chỉ có quyền dùng và quyền thu lợi được gọi là người hưởng dụng (usufructuary); còn người chỉ có quyền dùng thì được gọi là người sử dụng hoặc người mượn tài sản.          
2.2. Chiếm hữu theo luật của các nước tiền tiến
2.2.1. Tính chất của quan hệ chiếm hữu
Sự nhìn nhận quyền sở hữu theo góc nhìn cuộc sống đời thường. Tình huống điển hình là có một người xuất hiện công khai trong dáng vẻ, tư thế của người có những quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản. Dáng vẻ, tư thế ấy được thể hiện trong cách ứng xử trong mối quan hệ với tài sản, chẳng hạn điều khiển xe chạy trên đường, sinh hoạt trong nhà,… Thông thường, người tỏ ra có quyền đối với tài sản cũng là người thực sự có quyền: họ là chủ, người thuê, người mượn hợp pháp. Nhưng không loại trừ khả năng đó chỉ là một người tự tiện chiếm dụng tài sản, thậm chí là kẻ trộm, cướp. Nói khác đi, quyền năng được thể hiện trên thực tế đối với tài sản không hẳn lúc nào cũng phản ánh trung thực mối quan hệ pháp lý giữa người thực hiện quyền năng và tài sản đó. 
Điều chắc chắn, và hợp lý, hợp tình, là chừng nào người thực hiện quyền năng bề ngoài ấy chưa phải đứng trước một cuộc sát hạch về tư cách pháp lý, chẳng hạn, trong khuôn khổ một vụ tranh chấp trước toà án về quyền sở hữu đối với tài sản, thì người này được và cần được, phải được thừa nhận là người có quyền đối với tài sản đó. Sự thừa nhận ấy thể hiện thành cách ứng xử cụ thể mà người ta dành cho người đang thực hiện quyền năng đối với tài sản. Tuỳ theo tính chất tôn trọng hay không tôn trọng đối với người được cho là có quyền năng, hành vi ứng xử của người khác được cho là đúng mực hay không đúng mực và được pháp luật điều chỉnh một cách tương ứng.      
Bởi vậy mới có một câu chuyện thú vị: A trộm túi xách trong cửa hàng của B. Trên đường về nhà, A bị kẻ cướp chặn đường, giật lấy túi xách. Việc xảy ra trước mắt C, là anh ruột của B. C xông vào can thiệp, giành lại túi xách và trả cho A. Về đến nhà, C nghe nói B đã bị kẻ trộm lẻn vào cửa hàng lấy mất một chiếc túi xách; tuy nhiên, C không biết rằng mình đã có dịp đối mặt với kẻ trộm, thậm chí đã giúp đỡ kẻ ấy giành lại chiếc túi xách, mà suy cho cùng là của em ruột mình.           
Tình trạng thực tế mà trong đó, A trong câu chuyện xuất hiện trước mắt C như một người có quyền sở hữu đối với tài sản và quyền sở đó đang bị người khác xâm hại, được luật học của các nước gọi là chiếm hữu (possession, từ nguyên gốc trong tiếng latinh possessio).
Về phương diện học thuật, chiếm hữu được hiểu là việc một người thể hiện bằng những ứng xử cụ thể các quyền năng đối với một tài sản. Chiếm hữu với tư cách chủ sở hữu là việc một người tỏ ra có các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản.
Trong chừng mực nào đó, chiếm hữu được coi là biểu hiện bề ngoài của quyền sở hữu. Biểu hiện ấy có thể phản ánh trung thực nội dung bên trong của quyền, nghĩa là người tỏ ra có quyền cũng thực sự là người có quyền đó. Nhưng nó cũng có thể hoàn toàn trái ngược với nội dung ấy: trường hợp kẻ trộm túi xách trong câu chuyện nói trên là một ví dụ.      
2.2.2. Thiết lập quan hệ chiếm hữu
Corpus và animus[3]. Quyền sở hữu được xác lập theo những căn cứ như chuyển nhượng, để thừa kế, theo thời hiệu,… Nói chung, khi đề cập đến việc thiết lập quyền sở hữu của một người đối với một tài sản, người ta chú ý cách thức mà những quyền năng của chủ sở hữu được trao cho người này. Điều quan trọng là các cách thức ấy phải hợp lệ thì quyền sở hữu mới được coi là thiết lập hợp pháp và được bảo vệ: hợp đồng mua bán phải có giá trị thì quyền sở hữu mới được chuyển cho người mua; di chúc phải có giá trị thì người thừa kế theo di chúc mới xác lập được quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế;…
Trong khi đó, sự chiếm hữu được ghi nhận trong hoàn cảnh cụ thể và được người ta cảm nhận; sự cảm nhận ấy dẫn dắt người ta đi đến chỗ thừa nhận tư cách của người chiếm hữu mà không bận tâm đến việc tìm hiểu tính xác thực, hợp pháp của tư cách đó. Người can thiệp C trong câu chuyện nói trên không thể biết rằng A đã có được chiếc túi xách ấy nhờ trộm cắp. Trước mắt C là một người có những biểu hiện cho thấy là chủ nhân của một tài sản và quyền sở hữu của người này đối với tài sản đang bị người khác xâm hại.      
Ở góc độ khoa học luật, các biểu hiện ấy được phân tích thành hai nhóm yếu tố cấu thành quan hệ chiếm hữu và được người La Mã lần lượt gọi là corpusanimus. 
Corpus là yếu tố vật chất, còn gọi là yếu tố khách quan của sự chiếm hữu. Yếu tố này biểu hiện thành các hành vi ứng xử cụ thể cho thấy người ứng xử là người có quyền đối với tài sản. Các hành vi ấy có thể mang tính chất vật chất: cất đồ đạc trong tủ, coi sóc nhà cửa, chăm sóc cây cối,…[4]. Nhưng đó cũng có thể là hành vi ứng xử mang tính pháp lý: trả tiền thuế đất cho cơ quan thuế và nhận hoá đơn, giao kết hợp đồng cho mượn, gửi giữ tài sản,…      
Animus là yếu tố ý chí, còn gọi là yếu tố chủ quan. Đó là trạng thái tâm lý thể hiện thành thái độ ứng xử hàm chứa quyền năng của người chiếm hữu đối với tài sản. Thái độ đó khiến người ta ghi nhận ở người chiếm hữu phong độ của một người có quyền đối với tài sản, phân biệt với những người khác thuộc phần còn lại của thế giới.  
Thiết lập quan hệ chiếm hữu theo luật của các nước tiêu biểu. Ở Đức, Pháp và nói chung các nước Tây Âu, sự chiếm hữu được ghi nhận và được thừa nhận trên nguyên tắc, không chỉ trong cuộc sống đời thường mà cả trong luật, một khi có sự hội tụ của corpus animus ở một người.
Có những trường hợp nắm giữ tài sản mà ai cũng biết không thể được coi là chiếm hữu, chẳng hạn, người thợ máy đang loay hoay sửa một chiếc xe bị hỏng hóc kỹ thuật để trong ga ra chắc chắn không phải là người chiếm hữu chiếc xe đó; hoặc người lái xe chở hàng không phải là người chiếm hữu số hàng đó. Nhưng thông thường, một người có hành vi tác động lên một tài sản đồng thời cũng thể hiện quyền năng của mình trong hành vi đó, để cho phép mọi người ghi nhận tư cách người chiếm hữu của người đó đối với tài sản. Trong một tình huống đặc thù, người chiếm hữu với tư cách chủ sở hữu chuyển giao tài sản cho người khác sử dụng theo hợp đồng (mượn, thuê,…). Khi đó, cả hai đều là được coi người chiếm hữu, một người (người mượn, thuê,…) chiếm hữu trực tiếp, còn người kia chiếm hữu gián tiếp.    
2.2.3. Hiệu lực pháp lý của việc chiếm hữu
Bảo vệ sự chiếm hữu. Là một tình trạng thực tế, nhưng chiếm hữu lại phát sinh hiệu lực pháp lý như một quan hệ giữa một người - gọi là người chiếm hữu - và một vật, được pháp luật thừa nhận, điều chỉnh.     
Tư tưởng chủ đạo là sự chiếm hữu được bảo vệ theo một chế độ riêng, phân biệt với chế độ bảo vệ quyền sở hữu. Thông thường, người chiếm hữu cũng đồng thời là chủ sở hữu đích thực, hợp pháp của tài sản[5]. Bởi vậy, một cách hợp lý, người chiếm hữu được luật suy đoán là chủ sở hữu.
Chính vì được suy đoán là chủ sở hữu mà người chiếm hữu trong câu chuyện trộm túi xách nói trên được coi là nạn nhân của một vụ cướp giật trong mắt người đi đường và được bảo vệ. Ứng xử của C trong câu chuyện hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực sống trong xã hội có tổ chức và được khuyến khích như là cách ứng xử cần thiết nhằm góp phần duy trì trật tự xã hội.
Trong khuôn khổ một tranh chấp pháp lý về nội dung của quyền đối với tài sản, người chiếm hữu được miễn trách nhiệm chứng minh: người nào nói rằng người đang chiếm hữu không phải là chủ sở hữu thì phải trưng ra được các bằng chứng thuyết phục về điều mình khẳng định.
Cần nhấn mạnh rằng, sự bảo vệ người chiếm hữu là việc làm cần thiết trước hết nhằm duy trì trật tự xã hội. Đơn giản, việc chiếm hữu đang diễn ra trước mắt mọi người như là một phần của khung cảnh sống bình yên trong xã hội. Việc ai đó có hành vi xâm phạm sự chiếm hữu của người khác bằng kiểu ứng xử lệch chuẩn, thậm chí trái pháp luật, như chiếm đoạt bằng vũ lực, phải bị ngăn chặn, xử lý. Trong câu chuyện túi xách nói trên, giả sử B tình cờ gặp A ở nơi công cộng với chiếc túi xách trong tay, thì B phải báo cho nhà chức trách để có biện pháp xử lý vụ việc theo trình tự, thủ tục đòi lại tài sản do pháp luật quy định. B không được tự tiện xông tới dùng sức mạnh cơ bắp, vũ khí để giành lại tài sản: nếu B làm việc đó, thì trong mắt mọi người, B có hành vi xâm phạm tài sản của người khác, qua đó, xâm phạm trật tự xã hội và phải bị chế tài.
Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Chiếm hữu tài sản một cách liên tục, công khai trong một thời gian dài, người chiếm hữu mà không có quyền rốt cuộc sẽ có được quyền đó. Người chiếm hữu trong tư thế chủ sở hữu, dù không phải là chủ sở hữu đích thực, sau một thời gian, sẽ được thừa nhận là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản.
Để được hưởng sự thừa nhận đó, điều quan trọng là người chiếm hữu phải chiếm hữu trong tư thế và với thái độ tâm lý của người có quyền. Bởi vậy, người nghĩ rằng mình chỉ là một người thuê tài sản và ứng xử phù hợp với suy nghĩ đó, chẳng hạn, bằng cách trả tiền thuê đều đặn, không bao giờ có thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với tài sản, dù việc chiếm hữu tài sản thuê có kéo dài đến bao lâu.                         
Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi cho người chiếm hữu ngay tình. Người chiếm hữu mà không phải là chủ sở hữu tất nhiên có nghĩa vụ giao trả tài sản cho chủ sở hữu đích thực, đặc biệt là sau một vụ kiện đòi lại tài sản hoặc sau một vụ huỷ bỏ hợp đồng chuyển quyền sở hữu tài sản.
Về mặt lý thuyết, khi giao trả tài sản, thì người chiếm hữu cũng phải giao trả cả hoa lợi, lợi tức gắn với tài sản, bởi những thứ đó, theo luật, là của chủ sở hữu tài sản gốc. Vấn đề, đối với người chiếm hữu ngay tình, là khi thu nhận hoa lợi, lợi tức, người này tin tưởng một cách chính đáng rằng chính mình là chủ sở hữu tài sản và cũng là chủ sở hữu hoa lợi, lợi tức phát sinh. Thông thường, hoa lợi, lợi tức là tài sản tiêu hao: một khi được thu nhận, tài sản đó thường được phải tiêu thụ trong thời gian ngắn. Do đó, buộc người chiếm hữu hoàn trả hoa lợi, lợi tức có nghĩa là buộc người này trả nợ bằng tiền. Nếu thời gian chiếm giữ tài sản kéo dài, số tiền có thể rất lớn và thực sự là một gánh nặng đối với người chiếm hữu. Trong trường hợp người chiếm hữu là ngay tình, áp đặt một gánh nặng như thế là không hợp với lẽ phải.            
Bởi vậy, luật các nước quyết định thừa nhận quyền sở hữu của người chiếm hữu ngay tình đối với hoa lợi, lợi tức gắn với tài sản chiếm hữu. Quyền này được thừa nhận chừng nào sự ngay tình còn được duy trì và chấm dứt từ lúc người chiếm hữu biết hoặc buộc phải biết mình không phải là người có quyền sở hữu đối với tài sản. 
3. Quyền sở hữu và chiếm hữu trong luật Việt Nam hiện hành
3.1. Chiếm hữu là một phần nội dung của quyền sở hữu
Quyền sở hữu = quyền chiếm hữu + (usus và fructus) + abusus.  Như đã nói, quyền sở hữu theo luật Việt Nam hiện hành gồm có ba yếu tố - quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Quyền định đoạt có nội hàm tương tự như abusus trong luật La Mã; quyền sử dụng, trong chừng mực nào đó, là sự kết hợp của usus fructus. Còn lại quyền chiếm hữu cần được xây dựng nội hàm thích ứng trong điều kiện luật ở các nước không coi quyền này là một phần nội dung của quyền sở hữu.
Người làm luật Việt Nam giải quyết vấn đề bằng cách, một mặt cố gắng xây dựng một định nghĩa pháp lý chính thức cho quyền chiếm hữu như là một phần nội dung của quyền sở hữu[6], mặt khác, tiếp nhận một phần các giải pháp cho vấn đề hiệu lực pháp lý của quan hệ chiếm hữu được thừa nhận trong luật của các nước. Với cách làm đó, luật Việt Nam có nhiều điểm lạ đáng chú ý.                 
3.2. Hệ quả của cách làm đặc thù
Sự chiếm hữu chỉ được bảo vệ một khi thiết lập được mối liên hệ hợp pháp với quyền sở hữu. Được coi là một phần của quyền sở hữu, quyền chiếm hữu không được bảo vệ theo một chế độ riêng mà được nhập chung với quyền sở hữu, thành đối tượng chung của một chế độ bảo vệ duy nhất, gọi là bảo vệ quyền sở hữu, được quy định tại Chương XV BLDS. Chế độ này được đặc trưng bởi hai quyền cơ bản - Quyền đòi lại tài sản (Điều 256) và quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp (Điều 259).     
Điều kiện để được bảo vệ là việc chiếm hữu phải được xác lập hoặc là có căn cứ pháp luật, hoặc là không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, gọi chung là chiếm hữu hợp pháp[7]. Nói rõ hơn, người chiếm hữu chỉ được hưởng sự bảo vệ của luật pháp, công lực một khi cho thấy sự chiếm hữu là có chính danh, nghĩa là tình trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản là hệ quả của việc thực hiện quyền sở hữu hợp pháp của một người nào đó (có thể là chính mình hoặc một người khác) đối với tài sản.
Trong câu chuyện của A, B, C kể trên, đúng là C sẽ giao chiếc túi xách lại cho A, sau khi giành lại được từ tay kẻ cướp giật, mà không bận tâm đến việc tìm hiểu, rốt cuộc, A là ai, làm sao có được chiếc túi xách đó. Đơn giản, C ứng xử một cách tự nhiên, theo thói quen của một người dân bình thường yêu chuộng công lý, lẽ phải.
Nhưng diễn biến câu chuyện có thể sẽ khác đi, nếu C là nhân viên công lực đang thi hành nhiệm vụ. Khi đó, C sẽ phải tiến hành các việc cần thiết nhằm xử lý vụ vi phạm theo quy định của pháp luật, trong đó có việc giao trả tài sản cho nạn nhân. Trên nguyên tắc, việc giao trả chỉ được thực hiện một khi có căn cứ thoả đáng cho thấy người nhận lại tài sản đích thực là chủ nhân hợp pháp của tài sản đó hoặc là người được chủ nhân hợp pháp chuyển giao quyền sử dụng tài sản một cách hợp lệ. Quá trình kiểm tra bao gồm việc đặt và giải quyết các vấn đề liên quan đến tính chính danh của việc nắm giữ đối với tài sản, rốt cuộc, là các vấn đề liên quan đến nội dung của quyền năng.
Đáng nói nữa là không chỉ trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt bằng hành vi vi phạm pháp luật hình sự, như nói trên, mà cả khi việc chiếm hữu tài sản bị quấy nhiễu trong cuộc sống dân sự, thì để có thể có được hưởng sự bảo vệ của luật pháp, công lực, người chiếm hữu cũng phải trải qua cuộc thẩm tra để làm rõ tư cách trong mối quan hệ với quyền sở hữu. Ví dụ, có một người đang khai thác một phần đất một cách bình yên; một người khác đến cắm dùi bên cạnh rồi bắt đầu tiến hành lấn chiếm; người bị lấn chiếm kiện yêu cầu chấm dứt hành vi lấn chiếm. Trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người khiếu kiện phải chứng minh được rằng mình là người thực sự có đối với tài sản, thì mới được bảo vệ.
Ở các nước, với nguyên tắc suy đoán người chiếm hữu là người có quyền thì trong trường hợp việc chiếm hữu tài sản bị xâm hại, quấy nhiễu bằng hành vi vi phạm pháp luật, người chiếm hữu được bảo vệ theo cách bảo vệ mà luật pháp dành cho chủ sở hữu. Điều cần nhấn mạnh là suy cho cùng người chiếm hữu được bảo vệ không phải vì nhà chức trách tin chắc rằng đó là chủ sở hữu đích thực của tài sản. Đơn giản, việc chiếm hữu đó là một phần của cuộc sống xã hội đang diễn ra một cách bình yên; sự bình yên đó cần được duy trì, bởi nó hàm chứa ít rủi ro xung đột, khủng hoảng xã hội so với tình cảnh mà người xâm hại, quấy nhiễu việc chiếm hữu tạo ra bằng hành vi xâm hại, quấy nhiễu của mình.  
Đâu là điểm dừng của quá trình kiểm tra? Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, không có một loại phương tiện chứng minh nào được chính thức thừa nhận là có khả năng cung cấp bằng chứng tuyệt đối về quyền sở hữu tài sản. Bởi vây, quá trình thẩm tra tư cách pháp lý của người nắm giữ tài sản chỉ có thể dẫn dắt người ta đến một điểm nào đó trên con đường vô tận tìm kiếm thông tin hoàn hảo về quyền năng của một người đối với tài sản. Ở điểm đó, người kiểm tra chỉ có thể lựa chọn một trong ba phương án xử lý vụ việc.
Hoặc, người được kiểm tra tư cách được thừa nhận, theo các bằng chứng được thẩm định đến lúc đó, là người có quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản. Những người khác phải tôn trọng quyền của người này; người nào có hành vi xâm phạm quyền của người này đối với tài sản phải bị chế tài theo quy định của pháp luật.   
Hoặc, người được kiểm tra tư cách không được thừa nhận là người có quyền. Khi đó, lại có hai khả năng. Khả năng thứ nhất là có người khác chứng minh được một cách thuyết phục trước cơ quan chức năng rằng mình là người có quyền đối với tài sản; trong trường hợp này, tài sản phải được giao cho người đó. Khả năng thứ hai là không có ai khác chứng được rằng mình là người có quyền đối với tài sản; trong trường hợp này, cách xử lý duy nhất phù hợp với logic của sự việc là coi tài sản như của vô chủ và nhập vào khối công sản của Nhà nước.     
Điều có thể gây bức xúc, đặc biệt đối với người chiếm hữu tài sản trong trường hợp bị kết luận là người không có quyền đối với tài sản, là: việc chiếm hữu đang được thực hiện một cách bình yên; một ngày nọ, quyền chiếm hữu bị xâm hại, quấy nhiễu, khiến nhà chức trách phải can thiệp và sự can thiệp ấy lại dẫn đến kết cục như thế. Càng bức xúc hơn nữa trong điều kiện bản thân sự kết luận chính thức của nhà chức trách lại không thể có giá trị tuyệt đối, do chẳng bao giờ, trong khung cảnh pháp lý hiện tại, người ta có thể khẳng định một cách chắc nịch và không thể đảo ngược rằng người này, người kia là người có quyền đối với tài sản.   
4. Kết luận
Luật phải phản ánh cuộc sống bình thường. Cần phải viết lại các điều luật liên quan đến quyền sở hữu và chiếm hữu trong BLDS. Điều đó cần thiết để luật Việt Nam không chỉ hiểu được đối với phần còn lại của thế giới, mà còn có thể được mọi người chấp nhận, áp dụng, tuân thủ mà không thắc mắc, bất bình vì có cảm giác bị đối xử không công bằng. Tư tưởng chủ đạo là: có nhiều lúc cần xử sự với nhau trong cuộc sống dân sự, về phương diện pháp lý, dựa theo những gì được thấy, được cảm nhận mà không cần tìm hiểu bản chất bên trong của những điều thấy được, cảm nhận được. Nói khác đi, cần phải để cho cuộc sống bình thường được phản ánh, thừa nhận trong luật, bởi sự bình thường đó là một phần của trật tự, bình ổn xã hội, là cái mà luật phải bảo vệ.    
Cứ hình dung câu chuyện chiếm hữu trong luật là sự khái quát hoá câu chuyện giao tiếp xã hội - pháp lý diễn ra hàng ngày tại một bãi giữ xe máy điển hình của cơ quan công quyền. Tất cả những người dẫn xe máy vào bãi giữ xe đều được người trông giữ đối xử như nhau, như là người có năng lực giao kết hợp đồng gửi giữ: họ giao xe, nhận phiếu gửi, trả phí trông giữ và nhận lại xe sau khi kết thúc công việc cần làm. Người trông giữ không và không cần, cũng như không có quyền hạch hỏi để xem người gửi xe liệu có phải là chủ sở hữu hoặc ít nhất là người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản, rồi từ đó mới có thái độ ứng xử thích hợp. /.



[1] Nguyên văn Điều 544 BLDS Pháp: “La propriété est le droit de jouir et disposer des choses de la manière la plus absolue, pourvu qu’on en fasse pas un usage prohibé par les lois ou par les règlements”.     
[2] Có thể xem, ví dụ: F.Terré và Ph. Simler, Droit civil – Les biens, Précis Dalloz (Paris), 2006, tr. 79 đến 91; Ph. Malaurie và L. Aynès,  Droit civil - Les biens, Cujas (Paris), 2008, tr. 117 đến 121; Gérard Cornu, Droit civil- Introduction. Les personnes. Les biens, Montchrestien, 2001, tr. 327 đến 329.         
[3] Xem, ví dụ, Radulesco, La notion et les éléments constitutifs de la possession en legislation, Luận án tiến sĩ, Paris, 1925. 
[4] Suy cho cùng, chiếm hữu trước hết là sự chiếm hữu vật chất, sự cầm giữ. Đối với động sản, đó là việc nắm giữ tài sản trong tay hoặc ít nhất là trong tầm tay; đối với bất động sản, đó là việc dựng hàng rào làm ranh giới phân biệt với bất động sản khác.      
[5] Bởi nếu thông thường, người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu, thì xã hội đúng là rất mất trật tự.  
[6] Theo BLDS Điều 182, quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản.
[7] Thực ra, khái niệm “chiếm hữu hợp pháp” được người làm luật nhắc đến trong các điều luật liên quan (BLDS Điều 255, 256, 259, 260), nhưng lại không được giải thích. Dẫu sao, có thể nghĩ rằng cả người chiếm hữu gọi là có căn cứ pháp luật theo Điều 183, cũng như người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo Điều 189 cùng được người làm luật đối xử như nhau, đặc biệt là được bảo vệ như nhau. Trong điều kiện đó, có thể coi cả hai là người chiếm hữu hợp pháp.      

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2013

Xây dựng lại hệ thống pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trên cơ sở lý thuyết vật quyền và trái quyền

1.  Một cơ sở lý thuyết lạ lẫm     
Bảo đảm nghĩa vụ là một quan hệ nghĩa vụ. Trong suy nghĩ của người làm luật Việt Nam, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là mối quan hệ pháp lý được thiết lập giữa một bên là người cam kết bảo đảm và bên kia là người thụ hưởng biện pháp bảo đảm. Đó là một quan hệ nghĩa vụ đích thực, nghĩa là, ở góc nhìn của luật latinh, có tác dụng tạo ra một trái quyền mà người thụ hưởng biện pháp bảo đảm được phép thực hiện chống lại người cam kết bảo đảm.
Tính chất đối nhân của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận cả trong trường hợp biện pháp bảo đảm được xác lập trên các tài sản đặc định, gọi là thế chấp hoặc cầm cố. Chủ nợ có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp được thừa nhận có quyền ưu tiên được thanh toán nợ bằng giá bán tài sản cầm cố, thế chấp; tuy nhiên, tính chất ưu tiên của của quyền không được làm rõ trong mối quan hệ với người cầm cố, thế chấp, người mà theo giả thiết là chủ sở hữu tài sản. Riêng trong trường hợp bảo đảm bằng thế chấp tài sản, thì để thực hiện quyền ưu tiên đó, chủ nợ cần có sự hợp tác của chủ sở hữu tài sản: một khi nợ được bảo đảm không được trả, thì chủ nợ nhận thế chấp phải làm động tác yêu cầu chủ sở hữu giao tài sản cho mình xử lý (Bộ luật Dân sự -BLDS- Điều 351 khoản 5). Nếu chủ sở hữu không chịu giao, mà điều này lại thường xảy trong thực tiễn, thì chủ nợ chỉ còn mỗi cách ứng xử phù hợp với pháp luật là gõ cửa toà án để yêu cầu cưỡng chế theo thủ tục chung về tố tụng dân sự, chứ không có cách nào khác.
Trong trường hợp bảo đảm nghĩa vụ bằng cầm cố tài sản, thì luật thừa nhận cho chủ nợ nhận cầm cố một số quyền có thể khiến người ta liên tưởng đến người có vật quyền trong luật latinh[1]. Chẳng hạn, nếu nợ không được trả, thì chủ nợ nhận cầm cố có quyền yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật (BLDS Điều 333 khoản 2), nghĩa là không cần đến vai trò của chủ sở hữu. Tuy nhiên, sự thừa nhận đó không hề có nghĩa rằng, chủ nợ nhận cầm cố có quyền năng tác động trực tiếp lên vật như người có vật quyền. Đơn giản, trong tình huống đặc thù, chủ nợ đang nắm giữ, kiểm soát tài sản về phương diện vật chất và việc nắm giữ đó là hợp pháp, được nhà chức trách bảo vệ. Tình trạng đó làm hình thành lợi thế tự nhiên của chủ nợ trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện việc thu hồi nợ. Người làm luật, về phần mình, chỉ làm mỗi việc là trao cho chủ nợ một số quyền để phát huy lợi thế tự nhiên đó, nhằm giải quyết vấn đề thu hồi nợ  theo cách giản đơn và ít tốn kém nhất.        
Thực ra, người làm luật Việt Nam không thể bị trách móc chỉ với mỗi lý do là không chịu vận dụng các lý thuyết vật quyền và trái quyền của luật phương Tây một cách hợp lý để xây dựng hệ thống luật pháp của mình. Nếu nếu quá trình độc lập tìm kiếm mô hình thích hợp cho Việt Nam dẫn đến việc thiết lập một khung pháp lý chặt chẽ với các giải pháp hợp lý và thoả đáng, phát huy được tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy giao lưu dân sự, thì thậm chí người làm luật còn phải nhận được những lời khen tặng và sự tôn vinh xứng đáng.
Đáng tiếc là sự loay hoay trên một nền tảng học thuyết pháp lý không vững chắc rốt cuộc chỉ cho ra những chế định rối rắm với nhiều giải pháp kỳ lạ, khiến cho luật nhiều khi trở nên phản tác dụng về phương diện thực hiện chức năng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giao lưu minh bạch và sòng phẳng trong cuộc sống dân sự.  
2.  Các vấn đề nổi cộm
 Các vấn đề rắc rối đáng chú ý nhất xoay quanh chế định thế chấp tài sản. Lý do chính là tài sản thế chấp được dùng để bảo đảm việc trả nợ, nhưng vẫn nằm trong tay người thế chấp (đồng thời là chủ sở hữu). Một cách tự nhiên, chủ nợ lo lắng về việc tài sản có thể bị sử dụng dẫn đến suy giảm giá trị, có thể đem thế chấp tiếp cho người khác dẫn đến xung đột quyền lợi giữa các chủ nợ có bảo đảm, thậm chí được chuyển nhượng cho người khác và người được chuyển nhượng không biết gì về việc tài sản được đem thế chấp, rồi gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện quyền đòi nợ sau này.
Quyền lực của chủ nợ nhận thế chấp có vật quyền. Trong các hệ thống pháp lý có xây dựng chế định vật quyền, vấn đề được giải quyết bằng cách thừa nhận cho chủ nợ có bảo đảm đầy đủ các quyền năng của một người có vật quyền đối với tài sản thế chấp[2]. Đặc biệt, với quyền đeo đuổi, chủ nợ có thể thực hiện quyền của chủ nợ có bảo đảm ở thời điểm thích hợp, bao gồm, tiến hành kê biên và bán tài sản, bất kể lúc đó tài sản đang nằm trong tay ai và thuộc về ai. Tất cả mọi người, kể cả chủ sở hữu, người quản lý, người chiếm hữu tài sản, đều phải tôn trọng các quyền đó của chủ nợ có bảo đảm. Với quyền ưu tiên, chủ nợ có quyền bảo đảm được xác lập trước là sẽ được phép lấy trước tiền trả nợ từ tiền bán tài sản, chủ nợ có quyền bảo đảm được xác lập sau phải chấp nhận lấy sau từ những gì còn lại trong giá bán tài sản.
Tất nhiên, để quyền của chủ nợ có bảo đảm được bảo vệ tốt, thì điều kiện tiên quyết là quyền đó phải được xã hội nhận biết. Luật các nước đặt ra chế định đăng ký để tổ chức việc công bố và xếp thứ tự ưu tiên đối với các chủ nợ có bảo đảm[3]. Chế định đăng ký có đối tượng là tất cả các vật quyền chứ không chỉ quyền của các chủ nợ có bảo đảm bằng thế chấp tài sản.                
Chủ nợ nhận thế chấp không có vật quyền: người canh giữ tài sản đơn thuần. Trong điều kiện thiếu vắng lý thuyết vật quyền, chủ nợ luôn phải ở trong tình trạng cảnh giác đối với hành vi của chủ sở hữu tác động lên tài sản. Người làm luật, về phần mình, xây dựng các biện pháp bảo vệ hơi “thủ công” dành cho chủ nợ có bảo đảm, chủ yếu mang ý nghĩa hỗ trợ cho chủ nợ trong việc giám sát hành vi của chủ sở hữu tài sản liên quan.
Chẳng hạn, bằng việc thế chấp, chủ sở hữu không còn được thừa nhận có quyền tự do định đoạt đối với tài sản. Trên nguyên tắc, việc định đoạt theo ý chí của chủ sở hữu thậm chí bị cấm (BLDS Điều 348 khoản 4) và hành vi chuyển nhượng bi coi là trái pháp luật[4]. Trong chừng mực nào đó, có thể thừa nhận rằng việc thế chấp tài sản trong luật hiện hành có tác dụng “treo” quyền định đoạt của chủ sở hữu cho đến khi biện pháp thế chấp được dỡ bỏ đúng luật. Luật cũng nói rằng, chỉ có chủ nợ nhận thế chấp mới có quyền giải toả lệnh treo đó trong thời gian thế chấp.               Trong trường hợp thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ cùng một lúc, thì theo luật Việt Nam hiện hành, chủ sở hữu tài sản có trách nhiệm thông báo cho các chủ nợ sau của mình về tình hình thiết lập các biện pháp bảo đảm trước đó (Điều 324 khoản 2). Trong khi đó, ở các nước tiền tiến, người ta dựa vào hệ thống đăng ký: việc đăng ký tự nó có tác dụng thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản cho người thứ ba, nói chung cho toàn xã hội. Thay vì ràng buộc người bảo đảm vào nghĩa vụ thông báo, luật đòi hỏi chủ nợ phải tự tìm hiểu bằng cách tiếp xúc với cơ quan đăng ký để yêu cầu cung cấp thông tin. Trên cơ sở xử lý các thông tin được cung cấp, chủ nợ có thể tự đánh giá được các khả năng thu hồi nợ từ tài sản liên quan, từ đó, có thể quyết định chấp nhận hay không việc xác lập biện pháp bảo đảm bằng tài sản ấy.            
Luật Việt Nam hiện hành không chỉ đòi hỏi người bảo đảm phải thông báo cho chủ nợ có bảo đảm về tình trạng pháp lý của tài sản. Sự đòi hỏi đó còn được hình dung, trong trường hợp thế chấp tài sản, như một nghĩa vụ quan trọng mà nếu người bảo đảm không làm trọn, thì chủ nợ có bảo đảm có quyền huỷ hợp đồng thế chấp và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 348 khoản 2). Nói khác đi, việc không thông báo bị coi như một hành vi gian dối, bất chính; người thực hiện hành vi đương nhiên có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự.     
Trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ. Một điểm bất hợp lý đặc biệt nữa liên quan đến việc dùng một tài sản để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ: theo BLDS Điều 324 khoản 1, một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị của các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Có thể hiễu nỗi lo của người làm luật: bảo đảm quá nhiều nghĩa vụ có giá trị lớn, thì tài sản có nguy cơ không đủ sức để “gồng gánh” tất cả. Suy cho cùng, nỗi lo ấy rất bình thường; nhưng điều không bình thường là nó xuất hiện ở người làm luật chứ không phải ở chủ nợ.
Nói khác đi, khi xác lập một quan hệ nghĩa vụ, thì chính trái chủ (chủ nợ) là người phải đặt và giải quyết các vấn đề liệu nghĩa vụ có cần được bảo đảm hay không và nếu cần thì bảo đảm đến mức độ nào. Nợ tư nhân là chuyện riêng của tư nhân, Nhà nước không cần và cũng không nên can thiệp vào, đặc biệt là không nên can thiệp theo kiểu làm cho một bên mạnh hơn và bên kia yếu hơn trong quan hệ tay đôi.  
Trong điều kiện các biện pháp bảo đảm có tác dụng nhân tạo ra các vật quyền như trong luật của nhiều nước, người làm luật cũng thừa nhận khả năng dùng một tài sản để bảo đảm nhiều nghĩa vụ cùng một lúc. Mối quan hệ giữa giá trị của tài sản và tổng giá trị của các món nợ vẫn được chú ý đến, nhưng người làm luật chỉ quan tâm đến việc làm thế nào tổ chức hành vi ứng xử của các chủ thể theo các tiêu chí trật tự và công bằng, chứ không tìm cách hạn chế quyền tự do của người này, người kia để phòng ngừa rủi ro.  
Trên nguyên tắc, tất cả các vật quyền thế chấp đều phải đăng ký mới có hiệu lực đối với người thứ ba. Một khi được đăng ký, các vật quyền được thừa nhận với đầy đủ đặc tính, bao gồm quyền ưu tiên và quyền theo đuổi. Trong điều kiện nhiều vật quyền cùng tồn tại và có đối tượng là cùng một vật, tự nhiên hình thành thế cạnh tranh, thậm chí xung đột giữa các vật quyền. Luật giải quyết vấn đề bằng cách dựa vào hệ thống đăng ký: vật quyền đăng ký trước được ưu tiên thực hiện so với vật quyền đăng ký sau.
Về mặt lý thuyết, ngay cả trong trường hợp tổng số nợ được bảo đảm lớn hơn giá trị của tài sản, thì cũng không hẳn vật quyền đăng ký sau cùng không còn cơ may được thực hiện trọn vẹn bằng giá trị của tài sản bảo đảm. Không loại trừ khả năng chủ nợ có bảo đảm được đăng ký trước thu hồi được nợ do người mắc nợ chủ động trả nợ mà không cần phải xử lý tài sản bảo đảm. Khi đó, biện pháp bảo đảm liên quan cũng chấm dứt và được xoá đăng ký; các biện pháp bảo đảm đăng ký sau tự động được nâng hạng ưu tiên và khả năng thu hồi nợ dựa vào tài sản bảo đảm cũng được nâng lên. Chính khả năng đó là lý do khiến chủ nợ chấp nhận xác lập biện pháp bảo đảm, dù biết rằng giá trị của các món nợ có bảo đảm đã vượt quá giá trị thị trường của tài sản.
Do thiếu vắng lý thuyết vật quyền, luật Việt Nam hiện hành đã không mở ra được cơ hội giao dịch cho các bên theo phương thức như trên. Thay vào đó là sự kiểm soát chủ động của nhà chức trách bằng những quy định mang tính khống chế, bao biện và giám hộ, như đã nói. Tất cả những điều đó càng trở nên đáng tiếc trong điều kiện Việt Nam đã xây dựng được hệ thống đăng ký tương đối hoàn chỉnh cho phép ghi nhận các biện pháp bảo đảm bằng tài sản đặc định./.



[1] Về lý thuyết vật quyền: xem, cùng tác giả, Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyền đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tài sản, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (NCLP) số 2+3 (187+188), tháng 01+02 (2011), tr. 92 - 96. Để có được cái nhìn sâu và rộng hơn: xem, chẳng hạn,  F.Terré và Ph. Simler, Droit civil. Les biens, Précis Dalloz (Paris – Pháp), 2006, tr. 30 đến 36.     
[2] Xem, ví dụ, F. Terré và Ph. Simler, sđd, tr.  34.
[3] Về đăng ký bất động sản: cùng tác giả, Đăng ký bất động sản, các vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6(214), tháng 3/2012), tr.48 đến 53. Để tham khảo kinh nghiệm của các nước: Ph. Malaurie et L. Aynès, Droit civil - Les biens. La publicité foncière, Cujas (Paris – Pháp), 1998, tr.367 đến 385; J. Gray, Brendan Edgeworth, Nell Foster, Scott Grattan, Property Law in New South Wales, Lexis Nexis Butterworths (Australia), 2007, tr. 282 đến 351.
[4] Ở góc độ pháp luật hình sự, việc chuyển nhượng tài sản thế chấp còn bị ghi nhận là hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ mang tính chất lừa đảo và người chuyển nhượng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh tương ứng. Trên thực tế đã có nhiều người bị vướng vào vòng lao lý do hành vi này.  

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ MỐI QUAN HỆ, TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA DỰ ÁN LUẬT HỘ TỊCH VỚI BỘ LUẬT DÂN SỰ, LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TỪ GÓC ĐỘ GIỚI VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ LỒNG GHÉP GIỚI CỤ THỂ TRONG DỰ ÁN LUẬT


I. Mối quan hệ, tác động qua lại giữa Dự án Luật Hộ tịch với Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình dưới góc độ giới
Dự án Luật Hộ tịch (dự án Luật) quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch nhằm xác nhận và ghi vào sổ hộ tịch những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Do đó, dự án Luật này có mối liên quan rất chặt chẽ tới Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Hôn nhân và gia đình (LHNGĐ), Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Cư trú, Luật Nuôi con nuôi…
Tờ trình của Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nêu quan điểm chỉ đạo trong xây dựng dự án Luật là bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và đồng bộ, thống nhất với các đạo luật có liên quan đến lĩnh vực hộ tịch (như BLDS, LHNGĐ, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Cư trú, Luật Nuôi con nuôi…). Về cơ bản, tôi tán thành với cách đặt vấn đề như đã nêu trong Tờ trình. Tuy nhiên, dưới góc độ giới, tôi cũng xin đưa ra một số ý kiến về mối quan hệ, tác động qua lại giữa dự án Luật với BLDS, LHNGĐ:
1. Mối tương quan trong hệ thống pháp luật
Khi xây dựng dự án Luật, Luật Hộ tịch thường được xác định như là luật hình thức (luật thủ tục) của BLDS, LHNGĐ và các luật nội dung khác có liên quan. Thực chất Luật Hộ tịch không đơn thuần là luật quy định về thủ tục mà còn là luật có liên quan trực tiếp đến công nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người nói chung, quyền của cá nhân nói riêng. Do đó, để phát huy tốt nhiệm vụ, vai trò của Luật Hộ tịch, cần xem xét mối quan hệ (ở cả góc độ giới) giữa dự án Luật với BLDS, LHNGĐ và các luật nội dung khác có liên quan trên hai phương diện: Luật Hộ tịch là luật hình thức, đồng thời là luật riêng của các luật nội dung. Tiếp cận như vậy, vừa đảm bảo xác định được rõ ràng, cụ thể phạm vi điều chỉnh của các luật, sự đồng bộ, thống nhất trong các quy định về quản lý nhà nước về hộ tịch (trên phương diện luật nội dung và luật hình thức), đồng thời đảm bảo được sự đồng bộ trong một thể thống nhất về quy định quyền và cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi quyền của cá nhân (bao gồm bình đẳng giới), khắc phục được những bất cập, hạn chế trong quy định của các luật nội dung không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay (trên phương diện luật chung và luật riêng).[1]
2. Mối quan hệ với BLDS và LHNGĐ dưới góc độ giới
BLDS điều chỉnh các quan hệ xã hội được thiết lập trên nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tham gia, do đó về cơ bản các nguyên tắc trong bình đẳng giới cũng đã được ghi nhận tương đối rõ nét ở Bộ luật này. Điều 5 của BLDS quy định “trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau”, ngoài ra nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền dân sự, nguyên tắc thiện chí trung thực… cũng đã được ghi nhận như là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
LHNGĐ với tư cách là luật riêng của BLDS cũng đã kế thừa và bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Đồng thời, Luật này cũng đã ghi nhận nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong hôn nhân và nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.
Về quyền nhân thân của cá nhân, hai Luật này đã ghi nhận nhiều quyền con người và quyền công dân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Trong đó có một số quyền có tính nhạy cảm giới cần được công nhận, bảo vệ hoặc tổ chức, thực hiện thông qua thủ tục đăng ký hộ tịch do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền thực hiện (nội dung điều chỉnh của dự án Luật Hộ tịch), bao gồm:
- Quyền đối với họ tên và thay đổi họ tên (Điều 26, Điều 27 BLDS) được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký khai sinh và thủ tục đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch;
- Quyền xác định dân tộc (Điều 28 BLDS) được xác nhận thông qua thủ tục khai sinh hoặc thủ tục đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch;
- Quyền được khai sinh (Điều 29 BLDS) được xác nhận thông qua thủ tục khai sinh;
- Quyền được khai tử (Điều 30 BLDS) được xác nhận thông qua thủ tục khai tử;
- Quyền xác định lại giới tính (Điều 36 BLDS) được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch;
- Quyền kết hôn (Điều 39 BLDS, các điều 9, 10, 11, 12, 13, 14 LHNGĐ) được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký kết hôn;
- Quyền ly hôn (Điều 42 BLDS, Điều 85 LHNGĐ) được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký ghi vào sổ bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân về việc ly hôn theo bản án, quyết định có hiệu lực về ly hôn của Tòa án;
- Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con (Điều 43 BLDS, Điều 65 LHNGĐ) được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con hoặc thủ tục đăng ký ghi vào sổ bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân về việc xác định cha, mẹ, con theo bản án, quyết định có hiệu lực về ly hôn của Tòa án;
- Quyền đối với quốc tịch (Điều 45 BLDS) được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký khai sinh;
- Quyền về giám hộ và được giám hộ (các điều 59, 63, 70, 71 BLDS, các điều 79, 80, 81, 82, 83, 84 LHNGĐ) được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký giám hộ.
Ngoài những quyền trên, một số quyền nhân thân khác được quy định trong BLDS tuy không cần được xác nhận thông qua thủ tục đăng ký hộ tịch, nhưng lại là yêu cầu trong đăng ký hộ tịch, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cũng như mọi cá nhân, tổ chức phải tôn trọng và bảo vệ, như quyền bí mật đời tư (Điều 38), quyền được bảo vệ danh dự nhân phẩm, uy tín (Điều 37), quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 47), quyền tự do đi lại, tự do cư trú (Điều 48)…
Các quy định nêu trên của BLDS và LHNGĐ về cơ bản đã đảm bảo nguyên tắc lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật. Trong quy định về thủ tục đăng ký hộ tịch, Dự án Luật cần tiếp tục ghi nhận thành tựu này. Đồng thời, nếu BLDS và LHNGĐ có quy định chưa thể hiện rõ vấn đề giới, thì dự án Luật cần nghiên cứu, khắc phục thông qua các quy định về thủ tục đăng ký hộ tịch.[2]
3. Tác động của một số quy định trong BLDS, LHNGĐ đến dự án Luật[3]dưới góc độ giới
* Quyền đối với họ, tên và quyền xác định dân tộc:
Theo Điều 26, Điều 27 của BLDS, cá nhân có quyền có họ, tên và thay đổi họ, tên của mình trong các trường hợp luật định. Tuy nhiên, BLDS chưa thể hiện rõ vấn đề giới trong xác định họ của cá nhân. Trong khi đó, họ, tên và quyền với họ, tên có tính nhạy cảm giới cao do ảnh hưởng của phong tục, tập quán con sinh ra thường theo họ của cha (trừ một số cộng đồng dân tộc ít người con sinh ra theo họ của mẹ).
Về quyền xác định dân tộc, Điều 28 của BLDS quy định: “cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ”. Quy định này cũng đã đảm bảo một phần yêu cầu về lồng ghép giới. Tuy nhiên, với quy định dân tộc của con có thể được xác định theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ đã không đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật lập pháp trong lồng ghép giới, tính thống nhất trong áp dụng pháp luật và có thể làm cho bình đẳng giới trong xác định dân tộc của cá nhân trở thành hình thức.
- Tác động đến dự án Luật
Dự án Luật phải đảm bảo quyền về họ, tên và xác định dân tộc của cá nhân được đảm bảo thực hiện thông qua thủ tục đăng ký khai sinh hoặc thủ tục đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch. Đồng thời, dự án Luật cũng cần có quy định khắc phục sự khuyết thiếu về vấn đề giới trong quy định quyền đối với họ, tên và xác định dân tộc trong BLDS, LHNGĐ.
Đánh giá:
Dự án Luật đã có tính toán đến vấn đề giới trong thủ tục xác định họ, dân tộc của cá nhân, khi quy định trong khai sinh họ, dân tộc của người con có thể được xác định theo thỏa thuận của cha mẹ (Khoản 5 Điều 24 dự thảo Luật): “Khi đăng ký khai sinh, họ, dân tộc của người con được xác định theo họ, dân tộc của người cha hoặc họ, dân tộc của người mẹ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha, mẹ”.
Tuy nhiên, việc quy định cơ quan đăng ký hộ tịch có thể lựa chọn tập quán hoặc thỏa thuận của cha mẹ trong xác định họ, dân tộc của người con vẫn chưa khắc phục được hạn chế của BLDS (đã phân tích ở trên), dễ dẫn tới bình đẳng giới trong xác định họ, dân tộc của cá nhân trở thành hình thức trong thực tiễn. Đề nghị dự án Luật quy định khi đăng ký khai sinh, họ, dân tộc của người con được xác định theo họ, dân tộc của người cha hoặc họ, dân tộc của người mẹ theo thoả thuận của cha mẹ, trong trường hợp không có thỏa thuận của cha mẹ thì xác định theo tập quán.
Đối với việc xác định họ, dân tộc của con ngoài giá thú, dự án Luật dường như đã có sự “thiên lệch” khi quy định họ, dân tộc của người con được xác định theo họ, dân tộc của mẹ: “Trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú thì họ, dân tộc của người con được xác định theo họ, dân tộc của người mẹ. Phần ghi về người cha trong Sổ bộ hộ tịch và Sổ hộ tịch cá nhân để trống. Nếu vào thời điểm khai sinh có người nhận con, thì kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh”.
Đề nghị dự án Luật quy định, khi đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú thì họ, dân tộc của người con được xác định theo họ, dân tộc của người cha hoặc người mẹ đã được xác định trước. Phần ghi về người cha hoặc mẹ chưa được xác định trong Sổ bộ hộ tịch và Sổ hộ tịch cá nhân để trống. Nếu vào thời điểm khai sinh có người nhận con, thì kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh. Trong trường hợp cha, mẹ của con ngoài giá thú cùng được xác định, thì họ, dân tộc của con ngoài giá thú theo họ, dân tộc của cha hay của mẹ căn cứ theo thỏa thuận của cha, mẹ, trong trường hợp cha, mẹ không có thỏa thuận thì xác định họ, dân tộc theo tập quán.
Về thay đổi họ, dân tộc, dự án Luật chưa có quy định bảo đảm vấn đề giới trong trường hợp thay đổi họ, dân tộc của con chưa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc thay đổi họ, dân tộc từ họ, dân tộc của cha sang họ, dân tộc mẹ hoặc ngược lại.
* Quyền được khai sinh: Theo quy định của Điều 29 BLDS, cá nhân sinh ra có quyền được khai sinh. Tuy nhiên, BLDS không quy định về nguyên tắc lựa chọn nơi đăng ký khai sinh. Do đó, Chính phủ đã có hướng dẫn về lựa chọn nơi đăng ký khai sinh theo nguyên tắc: “1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã), nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh.
2. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh” (Điều 13 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch).
Quy định về thẩm quyền đăng ký khai sinh như vậy chưa đảm bảo được quyền bình đẳng giữa cha, mẹ về đăng ký khai sinh, cũng như sự thuận lợi cho người dân trong thực hiện quyền được khai sinh của trẻ em.
- Tác động đến dự án Luật
Dự án Luật phải đảm bảo quyền được khai sinh của cá nhân trên cả hai phương diện lồng ghép giới và sự thuận tiện cho người dân, qua đó khắc phục được sự khuyết thiếu trong lồng ghép giới về quyền được khai sinh trong BLDS và trong pháp luật hiện hành về đăng ký hộ tịch.
Đánh giá:
Dự án Luật chưa bảo đảm tốt vấn đề giới trong quy định về thẩm quyền đăng ký khai sinh, khi về cơ bản, dự án Luật tiếp tục kế thừa quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP:
“1. Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của người mẹ thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em; trường hợp không xác định được nơi thường trú của người mẹ thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người mẹ tạm trú thực hiện đăng ký khai sinh.
2. Trường hợp không xác định được nơi thường trú, tạm trú của người mẹ thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người cha thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em; trường hợp không xác định được nơi thường trú của người cha thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi tạm trú của người cha thực hiện đăng ký khai sinh.” (Điều 22 Dự thảo Luật).
Đề nghị dự án Luật quy định việc khai sinh cho con được thực hiện ở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của cha hay của mẹ căn cứ vào sự thỏa thuận của cha mẹ, trong trường hợp cha mẹ không có thỏa thuận thì việc khai sinh thực hiện ở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú, tạm trú của người mẹ. Để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý về Sổ bộ hộ tịch, có thể quy định theo một trong hai phương án: (1) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của cha hoặc mẹ đã thực hiện việc khai sinh cho con là nơi quản lý sổ bộ hộ tịch, (2) Ủy ban nhân dân nơi thường trú của mẹ là nơi quản lý sổ bộ hộ tịch. Trường hợp đăng ký khai sinh tại nơi cư trú, không phải nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch thì sau khi đăng ký, Hộ tịch viên phải thông báo ngay bằng văn bản trong đó ghi đầy đủ những nội dung đã được đăng ký cho Hộ tịch viên, nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch để ghi vào Sổ bộ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
* Quyền kết hôn: Theo Điều 39 BLDS, nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn. Điều 12 LHNGĐ quy định “Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn”. Điều 17 Nghị định số 158/NĐ-CP quy định: “1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp cả hai bên nam, nữ là công dân Việt Nam đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, đã cắt hộ khẩu thường trú ở trong nước, thì việc đăng ký kết hôn được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú trước khi xuất cảnh của một trong hai bên nam, nữ”.
Như vậy, về nguyên tắc, BLDS, LHNGĐ và pháp luật hiện hành về đăng ký hộ tịch đã bảo đảm vấn đề giới giới trong quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, việc quy định Ủy ban nhân dân có thẩm quyền theo nơi cư trú còn chưa phù hợp với thực tiễn Ủy ban nhân dân nơi quản lý hộ tịch gốc và Ủy ban nhân dân nơi cư trú của công dân là khác nhau. Từ đó đã không tạo thuận lợi cho người dân thực hiện quyền kết hôn.
- Tác động đến dự án Luật
Dự án Luật phải đảm bảo quyền của cá nhân về đăng ký kết hôn trên cả hai phương diện lồng ghép giới và sự thuận tiện cho người dân.
Đánh giá:
Dự án Luật đã có những quy định tốt trong định hướng cải cách về thẩm quyền và thủ tục trong đăng ký kết hôn, giải quyết được những bất cập, hạn chế trong quy định của Luật HN-GĐ, bảo đảm vấn đề giới và sự thuận tiện cho người dân. Theo Điều 25 của dự thảo Luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi quản lý Sổ Bộ hộ tịch hoặc nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn. Dự thảo Luật cũng quy định về thủ tục đăng ký kết hôn tại nơi cư trú, không phải nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch của bên nam, nữ, thì sau khi đăng ký kết hôn, Hộ tịch viên phải thông báo ngay bằng văn bản trong đó ghi đầy đủ những nội dung đã được đăng ký cho Hộ tịch viên nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử (khoản 5 Điều 26).
* Quyền nhận cha, mẹ, con: Theo các Điều 43 BLDS, Điều 64, 65 LHNGĐ: người không được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình là cha, mẹ hoặc là con của người đó. Con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình ngay cả khi cha, mẹ đã chết. Con đã thành niên xin nhận cha, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của mẹ; xin nhận mẹ, không cần có sự đồng ý của cha.
Điều 33 Nghị định số 158/NĐ-CP quy định “”Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con”.
Như vậy, về nguyên tắc, BLDS, LHNGĐ và pháp luật hiện hành về dăng ký hộ tịch đã bảo đảm vấn đề giới trong quy định về nhận cha, mẹ, con. Tuy nhiên, việc quy định Ủy ban nhân dân có thẩm quyền theo nơi cư trú còn chưa phù hợp với thực tiễn Ủy ban nhân dân nơi quản lý hộ tịch gốc và Ủy ban nhân dân nơi cư trú của công dân là khác nhau. Từ đó, không tạo thuận lợi cho người dân thực hiện quyền nhận cha, mẹ, con. Mặt khác, pháp luật hiện hành về đăng ký hộ tịch cũng chưa có quy định về xác định cơ quan có thẩm quyền về nhận cha, mẹ, con trong trường hợp cả cha, mẹ cùng nhận con và họ có nơi cư trú khác nhau.
- Tác động đến dự án Luật
Dự án Luật phải đảm bảo quyền của cá nhân về đăng ký nhận cha, mẹ, con trên cả hai phương diện lồng ghép giới và sự thuận tiện cho người dân.
Đánh giá:
Dự án Luật đã bảo đảm sự thuận tiện cho người dân khi quy định: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch của người con hoặc nơi cư trú của người nhận hoặc được nhận là cha, mẹ, con có thẩm quyền đăng ký nhận cha, mẹ, con. Trường hợp đăng ký nhận cha, mẹ, con tại nơi cư trú, không phải nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch thì sau khi đăng ký, Hộ tịch viên phải thông báo ngay bằng văn bản, trong đó ghi đầy đủ những nội dung đã được đăng ký cho Hộ tịch viên, nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch để ghi vào Sổ bộ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
Tuy nhiên, dự án Luật chưa quy định về xác định cơ quan có thẩm quyền về đăng ký nhận con trong trường hợp cả cha, mẹ cùng nhận con và họ có nơi cư trú khác nhau. Trong trường này cần thiết phải quy định về nguyên tắc lựa chọn nơi có thẩm quyền đăng ký nhận con theo nơi cư trú của cha hay của mẹ.
* Quyền về giám hộ và được giám hộ
Theo quy định của BLDS, cha, mẹ, con, anh, chị, em, ông bà nội, ông bà ngoại, cháu nội, cháu ngoại là những người thuộc diện giám hộ đương nhiên của nhau. Ngoài ra, việc giám hộ có thể được hiện thông qua giám hộ cử. Theo LHNGĐ, các thành viên gia đình khi thực hiện việc giám hộ có thể thỏa thuận cử một người trong số họ có đủ điều kiện làm người giám hộ để làm người giám hộ cho thành viên gia đình cần được giám hộ.
Ngoài ra, theo BLDS, việc giám hộ phải được giám sát. Người giám sát do những người thân thích của người được giám hộ cử ra, trong trường hợp không có người thân thích hoặc những người thân thích không cử được người giám sát việc giám hộ thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người giám hộ sẽ cử người giám sát.
- Tác động đến dự án Luật
Dự án Luật phải bảo đảm lồng ghép giới trong các quy định về thủ tục đăng ký giám hộ và thủ tục giám sát việc giám hộ.
Đánh giá:
Dự thảo Luật đã có những quy định tốt trong định hướng cải cách về thẩm quyền và thủ tục đăng ký giám hộ, giải quyết được những bất cập, hạn chế trong quy định của LHNGĐ và BLDS. Quy định về thẩm quyền đăng ký giám hộ trong Dự thảo Luật (Điều 27, khoản 4 Điều 28, Điều 49) phù hợp với thực tiễn hơn, đảm bảo lồng ghép giới, tạo thuận lợi cho người dân hơn so với quy định hiện hành (Điều 63 BLDS, Điều 102 LHNGĐ).
Tuy nhiên, để đảm bảo lồng ghép giới, dự án Luật cần bổ sung quy định về thỏa thuận của người tự nguyện làm người giám hộ (nếu có) trong giám hộ cử (Điều 28 và Điều 50). Về giám sát giám hộ, dự án Luật chưa có quy định về thủ tục cử người giám sát theo thỏa thuận của những người thân thích của người được giám hộ hoặc của Ủy ban nhân dân nơi cư trú của người giám hộ.
II. Những khuyến nghị cụ thể về lồng ghép giới trong dự án Luật
- Thứ nhất, về mối tương quan trong hệ thống pháp luật, khi xây dựng dự án Luật cần tiếp cận mối quan hệ giữa Luật Hộ tịch với BLDS, LHNGĐ và các luật nội dung có liên quan khác trên hai phương diện: Luật Hộ tịch là luật hình thức (luật thủ tục), đồng thời cũng là luật riêng của các luật nội dung;
Thứ hai, dự án Luật cần quy định về việc xác nhận họ, dân tộc của cá nhân theo các nguyên tắc sau:
1. Khi đăng ký khai sinh, họ, dân tộc của người con được xác định theo họ, dân tộc của người cha hay họ, dân tộc của người mẹ căn cứ vào thoả thuận của cha mẹ, trong trường hợp không có thỏa thuận của cha mẹ mới xác định họ, dân tộc theo tập quán.
2. Trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú thì họ, dân tộc của người con được xác định theo họ, dân tộc của người cha hoặc người mẹ đã được xác định trước. Phần ghi về người cha hoặc mẹ chưa được xác định trong Sổ bộ hộ tịch và Sổ hộ tịch cá nhân để trống. Nếu vào thời điểm khai sinh có người nhận con, thì kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh.
3. Về thay đổi họ, dân tộc, dự án Luật cần quy định về thỏa thuận của cha, mẹ trong trường hợp thay đổi họ, dân tộc của con chưa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc thay đổi họ, dân tộc từ họ, dân tộc của cha sang họ, dân tộc mẹ hoặc ngược lại.
- Thứ ba, về khai sinh, Dự án Luật cần quy định việc khai sinh cho con thực hiện ở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của cha hay của mẹ căn cứ vào sự thỏa thuận của cha mẹ, trong trường hợp cha mẹ không có thỏa thuận thì việc khai sinh thực hiện ở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú, tạm trú của người mẹ.
Để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý về Sổ bộ hộ tịch, có thể quy định theo một trong hai phương án: (1) Ủy ban nhân dân nơi thường trú của cha hoặc mẹ đã thực hiện việc khai sinh cho con là nơi quản lý sổ bộ hộ tịch, (2) Ủy ban nhân dân nơi thường trú của mẹ là nơi quản lý sổ bộ hộ tịch. Trường hợp đăng ký khai sinh tại nơi cư trú, không phải nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch thì sau khi đăng ký, Hộ tịch viên phải thông báo ngay bằng văn bản trong đó ghi đầy đủ những nội dung đã được đăng ký cho Hộ tịch viên, nơi quản lý Sổ bộ hộ tịch để ghi vào Sổ bộ hộ tịch và cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
Thứ tư, bổ sung quy định về xác định cơ quan có thẩm quyền về đăng ký nhận con trong trường hợp cả cha, mẹ cùng nhận con và họ có nơi cư trú khác nhau.
- Thứ năm, quy định về việc thỏa thuận của người tự nguyện làm người giám hộ (nếu có); thủ tục cử người giám sát theo thỏa thuận của những người thân thích của người được giám hộ hoặc của Ủy ban nhân dân nơi cư trú của người giám hộ.

[1] Xem thêm: Nguyễn Hồng Hải “Mối quan hệ giữa Luật Hộ tịch với Luật Hôn nhân và gia đình và tác động của các chế định hôn nhân và gia đình đến dự án Luật Hộ tịch”. Tòa đàm chuyên gia về lồng ghép vấn đề giới trong dự án Luật Hộ tịch, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội. Hà Nội, ngày 7/9/2012.
[2] Có ý kiến cho rằng, trên phương diện luật hình thức và luật nội dung, những bất cập, hạn chế về lồng ghép giới trong các luật nội dung thì phải được sửa đổi, bổ sung các luật nội dung đó, không thể thực hiện trong xây dựng Luật Hộ tịch.
[3] Dự thảo Luật Hộ tịch được Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Nguồn: HỘI THẢO ĐẠI BIỂU DÂN CỬ VỚI VIỆC LỒNG GHÉP VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG DỰ ÁN LUẬT VIỆC LÀM, LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ, LUẬT HỘ TỊCH. Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội và UN WOMEN IN VIETNAM đồng tổ chức. TPHCM. 30/9/2012 – 01/10/2012.