Hiển thị các bài đăng có nhãn luật sư tranh tụng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn luật sư tranh tụng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN KHI TUYÊN BỐ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG

Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật HN & GĐ) và hướng dẫn tại Mục 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã quy định trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Tại mục 5.4.1.4, khoản 5, điểm C, phần thứ 3 của “Sổ tay Thẩm phán” cũng nêu rất rõ văn bản án dụng và các trường hợp không được công nhận là vợ chồng. Luật HN & GĐ có chương III quy định về quan hệ giữa vợ và chồng (trong đó có quy định về chế độ tài sản chung vợ chồng, việc đại diện cho nhau, trách nhiệm liên đới của một bên đối với giao dịch do bên kia thực hiện, tài sản riêng…) và chương X quy định về giải quyết các vấn đề về ly hôn (con cái, tài sản…).
Tuy nhiên, giải quyết các vấn đề về tài sản đối với trường hợp hôn nhân không hợp pháp (hủy hôn nhân trái pháp luật, không công nhận là vợ chồng) thì lại chỉ được quy định tại điểm c mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình (Nghị Quyết 35/2000/QH10): “Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu cóyêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết”. Điều 17 Luật HN & GĐ quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật như sau: “…3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con”.
Thông qua công tác Giám đốc thẩm các vụ án dân sự, chúng tôi thấy rằng các Tòa án địa phương đã vận dụng pháp luật tương đối tốt để xác định hôn nhân hợp pháp (công nhận thuận tình ly hôn hoặc cho ly hôn) hay hủy hôn nhân trái pháp luật, không công nhận là vợ chồng; việc áp dụng các quy định của Luật HN & GĐ khi giải quyết các vụ án ly hôn (xác định tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng…) là tương đối tốt. Tuy nhiên, đối với các vụ án hủy hôn nhân trái pháp luật, không công nhận hôn nhân hợp pháp lại rất lúng túng khi phải giải quyết các vấn đề tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng. Nhiều bản án phần xét thấy có lập luận không công nhận là vợ chồng, nhưng vẫn sử dụng cụm từ vợ chồng, ly hôn, thời kỳ hôn nhân khi phân tích các sự kiện; vẫn trích dẫn điều luật quy định giải quyết về tài sản chung vợ chồng trong Luật HN & GĐ để giải quyết, hoặc không nắm rõ được các quy định của Bộ luật dân sự để xác định tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng và cách phân chia để bảo đảm quy định tại Điều 17 Luật HN & GĐ.
Ví dụ: Năm 1990 bà Phấn và ông Cầu được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới nhưng hai bên không đăng ký kết hôn và sau đó cũng không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo Nghị Quyết 35/2000/QH10. Quá trình chung sống hai bên đã có 2 con chung. Năm 1992 gia đình ông Cầu cho ông bà ra ở riêng trên một mảnh đất của gia đình và ông bà dựng nhà lá để ở, quá trình chung sống có cải tạo nhà, trồng cây ăn trái, mua sắm vật dụng gia đình. Năm 2009, do mâu thuẫn trầm trọng, ông bà có đơn xin ly hônnhưng không thống nhất được việc phân chia tài sản là nhà, đất nêu trên (ông Cầu cho rằng là tài sản riêng của ông vì cha mẹ cho riêng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2004 đứng tên ông, không có tên bà Phấn; còn bà Phấn xác định là được cha mẹ ông Cầu cho chung nên là tài sản chung và yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án sơ thẩm quyết định không công nhận là vợ chồng, nhưng phần xét thấy của bản án lại vẫn sử dụng cụm từ vợ chồng, ly hôn như: “Về phần nợ: trong thời gian chung sống vợ chồng…” ;“Xét thấy khi ly hôn đất vườn anh Cầu được quản lý sử dụng”; vẫn vận dụng các quy định giải quyết về tài sản chung, tài sản riêng của trường hợp ly hôn trong Luật HN & GĐ như “…Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân…”. Bản án nhận xét vì không được công nhận là vợ chồng nên đất là cha mẹ ông Cầu cho riêng ông Cầu, không phải tài sản chung của vợ chồng nên ông được sở hữu nhà (do 2 bên xây, nên là tài sản chung và mỗi bên được ½) và thanh toán cho bà Phấn ½ giá trị nhà.
Bản án phúc thẩm phần trích yếu vẫn ghi “V/v xin ly hôn”; phần xét thấy nhận xét “Tòa án cấp sơ thẩm không công nhận là vợ chồng là có căn cứ”, nhưng lại ghi “…Xét thấy đây là tài sản chung được cha mẹ ông Cầu cho vợ chồng ông trong thời kỳ hôn nhânnên được xem là tài sản của vợ chồng. Ông Cầu cho rằng đây là tài sản được cha mẹ cho riêng nhưng ông không chứng minh được việc cho riêng trong thời kỳ hôn nhânnên không có cơ sở chấp nhận vì theo quy đinh tại khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ…Ông Cầu cũng không chứng minh được phần đất trong GCNQSD đất cho ông là tài sản riêng nên căn cứ và Điều 27 Luật HN & GĐ thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung vợ chồng…”.
Trong vụ án trên, theo chúng tôi, khi đã xác định quan hệ của họ không được công nhận là vợ chồng, thì bản án không nên sử dụng từ vợ chồng, thời kỳ hôn nhân… nữa, mà có thể sử dụng cách viết khác như ông bà, thời gian cùng chung sống, tài sản tạo lập trong thời gian sống chung,…Về tài sản chung, không phải trường hợp áp dụng Điều 27 Luật HN & GĐ xác định tài sản tranh chấp có phải tài sản chung của vợ chồng hay không cũng như các Điều luật khác để xác định tài sản chung, tài sản riêng…; mà chỉ có căn cứ theo các quy định tại Bộ luật dân sự về sở hữu chung (căn cứ xác lập tài sản chung như được tặng cho chung, cùng đóng góp công sức để tạo lập… Điều 214, 215, 216 Bộ luật dân sự năm 2005) và phân chia tài sản chung theo các quy định của Bộ luật dân sự (Điều 224) và Điều 17 Luật HN &GĐ mà thôi. Trong vụ án trên, bản án phúc thẩm viện dẫn không chính xác Điều luật áp dụng, như hồ sơ thể hiện đã thu thập chứng cứ về việc cho chung là lời khai của mẹ ông Cầu thừa nhận khi tổ chức lễ cưới có tuyên bố cho ông Cầu, bà Phấn mảnh đất này và đã không có ý kiến gì phản đối khi ông Cầu kê khai, làm thủ tục tách thửa và được cấp GCNQSD đất. Tòa án cấp phúc thẩm cũng thu thập chứng cứ về hồ sơ ông Cầu kê khai xin cấp GCN, trong đó ông có ghi cả tên ông và tên bà Phấn là đồng sử dụng; việc GCN chỉ ghi tên ông Cầu là thiếu sót của UBND. Vì vậy, có căn cứ xác định thửa đất là tài sản do ông Cầu, bà Phấn được cha, mẹ ông Cầu tặng cho chung và việc tặng cho đã hoàn thành (đã nhận tài sản sử dụng, đã đứng tên trên giấy tờ) nên cấp phúc thẩm xác định là tài sản chung và chia cho 2 bên sử dụng, là phù hợp.
Mặc dù để thực hiện Nghị quyết 35/2000/QH, ngày 22/10/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định chi tiết về đăng ký kết hôn có quy định chi tiết về đăng ký kết hôn đối với các trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn, tuy nhiên trên thực tế, số cặp nam nữ đến thực hiện việc đăng ký kết hôn lại không nhiều. Do đó, từ sau ngày 01/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì cho dù họ có thừa nhận là vợ chồng đi nữa, khi thụ lý giải quyết Tòa án vẫn phải tuyên bố không công nhận là vợ chồng và theo thống kê thì loại án này ngày càng tăng và chiếm khoảng 10% số vụ án về hôn nhân và gia đình. Không ít vụ đương sự có tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng…như tranh chấp trong các vụ án ly hôn, thì Tòa án vẫn phải giải quyết và gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc khi áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ. Nhiều bản án vẫn viện dẫn các quy định của Luật HN & GĐ để giải quyết các quan hệ này và về cơ bản, chúng tôi thấy trong nhiều vụ án việc áp dụng Luật HN & GĐ giải quyết cũng đã bảo đảm được quyền lợi của người phụ nữ hơn là áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
Luật HN & GĐ năm 2000 đang trong quá trình nghiên cứu toàn diện để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Để bảo đảm áp dụng đúng và thống nhất pháp luật, đồng thời bổ sung hoàn thiện các quy định của Luật HN & GĐ, chúng tôi đề nghị ngành Tòa án cần có nghiên cứu tổng kết thực tiễn giải quyết các vụ án không công nhận là vợ chồng và việc giải quyết về tài sản chung-riêng, nợ chung-riêng…và những vấn đề liên quan đến Điều 17 Luật HN & GĐ.

Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

Kỹ năng của luật sư trong việc viết bài bào chữa, bảo vệ trong vụ án hình sự


PHẦN THỨ 1:
GIỚI THIỆU VỀ BÀI BÀO CHỮA, BÀI BẢO VỆ CỦA LUẬT SƯ 
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
 
I/-BÀI BÀO CHỮA, BÀI BẢO VỆ CỦA LUẬT SƯ. 
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thì Luật sư là người tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. 
Hoạt động tố tụng hình sự là một hoạt động luật định, được diễn ra theo một trình tự thủ tục nhất định, từ giai đoạn trước đến giai đoạn sau, từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối, theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 
Khi tham gia vào quan hệ pháp luật nói trên, dù là ngay từ khi nó mới vừa phát sinh hoặc là vào một giai đoạn tố tụng cụ thể nào đó, thì những người tiến hành tố tụng và người người tham gia tố tụng cũng đều phải thực hiện những công việc tố tụng theo một trình tự nhất định, đúng với quy định của pháp luật về tố tụng. 
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì Luật sư có thể tham gia tố tụng ở vào bất kỳ giai đoạn tố tụng nào của vụ án, tùy thuộc vào yêu cầu của thân chủ của mình hoặc cũng có thể từ yêu cầu của chính các cơ quan tiến hành tố tụng. 
Tuy nhiên, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, việc tham gia tố tụng của Luật sư vào giai đoạn trước khi hoạt động xét xử được tiến hành, sẽ là hết sức quan trọng và có ý nghĩa rất to lớn đối với hoạt động hành nghề của Luật sư cũng như đối với mối quan hệ dịch vụ pháp lý mà Luật sư đã xác lập với thân chủ của mình. 
Có thể khẳng định như vậy là vì những lý do sau đây: 
Thứ nhất
Đây là giai đoạn tố tụng mà lần đầu tiên Luật sư được công khai phát biểu trình bày quan điểm của mình về vụ án, về việc VKS truy tố bị cáo, về tội danh và hình phạt mà VKS đề nghị áp dụng cho bị cáo, về hành vi phạm tội và hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra cho người bị hại cũng như cho phía người bị hại, đồng thời nêu lên những quan điểm, những luận cứ, những tình tiết quan trọng của vụ án, để đối đáp tranh luận, nhằm bác bỏ hoặc ủng hộ quan điểm buộc tội của VKS đối với bị cáo, để đề xuất thay đổi tội danh, làm giảm nhẹ TNHS, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hoặc để buộc bị cáo phải bồi thường TNDS và khắc phục hậu quả mà bị cáo đã gây ra đối với bị hại hoặc phía người bị hại. 
Nói một cách chung nhất là Luật sư phải làm sao để mang lại kết quả tốt nhất cho thân chủ của mình là bị cáo hoặc là người bị hại trong vụ án hình sự. 
Thứ hai
Trong tất cả các giai đoạn tố tụng, thì việc đưa ra xét xử của Tòa án chính là giai đoạn có sự xuất hiện đầy đủ nhất của những người người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong cùng một vụ án hình sự. 
Ngoài ra, trong nhiều phiên tòa có tiếng vang và dư luận xã hội rộng lớn, có thể sẽ có đông đảo quần chúng nhân dân đến tham dự để theo dỏi trực tiếp việc xét xử vụ án, các cơ quan truyền thông báo chí cũng có thể đến để đưa tin. 
Vì vậy, hoạt động mang tính nghề nghiệp của Luật sư trong giai đoạn này là hết sức quan trọng. Luật sư sẽ có cơ hội để thể hiện kỹ năng hành nghề của mình, nếu thành công có thể sẽ gây tiếng vang lớn trong xã hội làm tăng uy tín nghề nghiệp của Luật sư đồng thời có tác động tích cực đến hoạt động hành nghề của Luật sư trong việc thực hiện các dịch vụ pháp lý với thân chủ của Luật sư sau này. 
Thứ ba
Kết quả của hoạt động xét xử của Tòa án sẽ là một bản án mà Hội đồng xét xử thay mặt và nhân danh Nhà Nước tuyên án đối với thân chủ của Luật sư. 
Không phải chỉ có bản án tuyên thân chủ của Luật sư vô tội; không phải chỉ có bản án tuyên thân chủ của Luật sư có tội nhẹ hơn, TNHS ít hơn, hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị truy tố của VKS; hoặc bản án tuyên bị cáo có tội đúng với tội danh và hình phạt, đồng thời buộc bị cáo phải bồi thường TNDS một cách thích đáng để khắc phục hậu quả cho người bị hại, mới được xem là thành công của Luật sư và là niềm hạnh phúc của thân chủ của Luật sư. 
Ngay như một bản án mà Tòa đã tuyên, có tính bất lợi đối với thân chủ của Luật sư, đôi khi Luật sư cũng có thể nhận được sự cảm thông chia sẻ, thậm chí sự mang ơn từ chính thân chủ của mình. Bởi vì Họ đã cảm nhận được năng lực thực sự của Luật sư, về công sức mà Luật sư đã làm và về trách nhiệm nghề nghiệp mà Luật sư đã thể hiện đối với những yêu cầu của Họ. 
Sự đánh giá tốt của khách hàng đối với Luật sư bao giờ cũng là một chứng cứ hết sức quan trọng mang tính đánh giá nghề nghiệp và năng lực của Luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng trong một vụ án hình sự. 
Hơn ai hết, Luật sư phải là người hiểu rõ việc tham gia vào giai đoạn xét xử tại tòa án là một hoạt động tố tụng hết sức quan trọng đối với việc hành nghề của mình và đối với chính hợp đồng dịch vụ pháp lý mà Luật sư đã xác lập với khách hàng của mình. 
Chính vì tính chất quan trọng như vậy, Luật sư cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho giai đoạn xét xử, mà quan trọng nhất, có thể nói là việc chuẩn bị bài bào chữa hoặc là bài bảo vệ cho thân chủ của mình. 
Thế nào là bài bào chữa, bài bảo vệ? 
Bài bào chữa
Là văn bản viết của Luật sư trong đó nêu quan điểm của Luật sư về vụ án, về hoạt động tố tụng mà các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã tiến hành, về quan điểm truy tố của VKS đối với thân chủ của Luật sư là bị cáo trong vụ án, về tội danh, về khung hình phạt mà VKS đề nghị, đồng thời đưa ra những căn cứ để bác bỏ toàn bộ việc truy tố của VKS, hoặc để thay đổi sang tội danh khác có TNHS và hình phạt nhẹ hơn, để không phải chịu hoặc làm giảm nhẹ TNDS đối với bị cáo. 
Bài bào chữa sẽ được Luật sư trình bày bằng cách đọc nguyên văn hoặc làm dàn ý để từ đó làm căn cứ phát biểu ngay trong phần tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe vị đại diện VKS đọc bản luận tội. 
Bài bảo vệ
Cũng là một văn bản viết của Luật sư, tuy nhiên do thân chủ của Luật sư trong trường hợp này là người bị hại hoặc là phía người bị hại (trong trường hợp người bị hại chết), là nguyên đơn dân sự, là bị đơn dân sự, là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. 
Họ là những nạn nhân của hành vi phạm tội của bị cáo, là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra trong vụ án, cho nên nội dung và mục đích của bài bảo vệ ứng với từng đối tượng tham gia tố tụng cụ thể sẽ là rất khác so với bài bào chữa cho bị cáo. 
Trong nội dung bài bảo vệ, Luật sư cũng nêu quan điểm của mình về vụ án, về hoạt động tố tụng mà các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã tiến hành, về quan điểm truy tố của VKS đối với bị cáo trong vụ án, về tội danh, về khung hình phạt mà VKS đã đề nghị đối với bị cáo. 
Thông thường quan điểm của Luật sư là đồng tình với việc truy tố bị cáo của VKS. 
Tuy nhiên trong một số trường hợp, quan điểm của Luật sư có thể sẽ là không đồng tình với việc truy tố của VKS vì đã bỏ sót tội phạm và hình phạt. 
Thể hiện tất cả những vấn đề vừa nêu trên trong bài bảo vệ, mục đích của Luật sư là muốn khẳng định bị cáo đúng là người phạm tội, giữa hành vi phạm tội của bị cáo và kết quả dẫn đến sự mất mác, thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, bị cáo là người có lỗi cho nên bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường TNDS và khắc phục những hậu quả mà mình đã gây ra. 
Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu là một việc đương nhiên theo quy định của pháp luật. Không một ai có thể yêu cầu hoặc đòi hỏi về hình thức, mức độ, biện pháp chế tài về hình sự đối với người phạm tội ngoại trừ Viện Kiểm Sát Nhân Dân. 
Trách nhiệm dân sự của bị cáo trong việc bồi thường tổn thất về vật chất cũng như tinh thần cho khách hàng của Luật sư, mới chính là mục đích mà Luật sư bảo vệ cho người bị hại và phía người bị hại hướng đến. 
Cũng giống như bài bào chữa, bài bảo vệ sẽ được Luật sư trình bày bằng cách đọc nguyên văn hoặc làm dàn ý để từ đó làm căn cứ phát biểu ngay trong phần tranh luận tại phiên tòa, sau khi vị đại diện VKS đọc bản luận tội. 
II/-BÀI BÀO CHỮA, BÀI BẢO VỆ LÀ MỘT TÀI LIỆU QUAN TRỌNG KẾT TINH CÔNG SỨC VÀ KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ. 
Bài bào chữa, bài bảo vệ trước hết thể hiện kỹ năng viết của Luật sư. Nhưng để viết được một tài liệu có tính chặt chẽ, ngắn gọn, đầy đủ nội dung, có văn hóa, có trí tuệ, có căn cứ xác đáng và có tính thuyết phục cao như vậy, Luật sư còn phải vận dụng những kỹ năng khác trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư. 
Có kỹ năng hành nghề tốt, Luật sư còn phải có một nền tảng kiến thức khoa học về pháp lý vững vàng. Kiến thức về pháp luật có thể giúp cho Luật sư nhìn nhận một vấn đề pháp lý có tính khoa học và có căn cứ, từ đó thể hiện quan điểm của mình, đề xuất những ý kiến pháp lý quan trọng trong bài bào chữa và bài bảo vệ. 
Nếu không có đạo đức nghề nghiệp, nếu không yêu quý công việc của mình, nếu không thật sự tôn trọng những cam kết mang tính công việc đối với khách hàng, nếu không có tinh thần trách nhiệm cao, thì cũng khó có được một kết quả tốt đẹp cho bài bào chữa, bài bảo vệ của Luật sư. 
Vì vậy có thể nói rằng: Bài bào chữa hay bài bảo vệ của các Luật sư, đều là những tài liệu quan trọng, kết tinh công sức của các luật sư, thể hiện kết quả của một quá trình tích cực nghiên cứu khai thác để tìm ra những tình tiết, chứng cứ cần thiết phục vụ cho nhu cầu mục đích cho việc bào chữa, bảo vệ thân chủ của mình.

PHẦN THỨ 2
KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ KHI CHUẨN BỊ BÀI BẢO VỆ CHO NGƯỜI BỊ HẠI 
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
Trong nội dung của bài tiểu luận này, chúng ta sẽ chỉ đề cập đến “Bài Bảo Vệ Cho Người Bị Hại” của Luật sư trong vụ án hình sự mà thôi. 
Để làm rõ những nội dung có liên quan trong bài bảo vệ, chúng ta cùng nghiên cứu các khái niệm cũng như các vấn đề sau đây: 
I/-NGƯỜI BỊ HẠI –NGƯỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI BỊ HẠI (NĐDHPCNBH): 
Điều 51 BLTTHS đã định nghĩa về “Người bị hại” như sau: 
10. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. 
20. Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: 
a)-Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; 
b)-Được thông báo về kết quả điều tra; 
c)-Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; 
d)-Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; 
đ)-Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; 
e)-Khiếu nại quyết định; hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như hình phạt đối với bị cáo. 
30. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. 
40. Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự. 
50. Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định tại điều này. 
Theo thói quen đôi khi chúng ta thường hay sử dụng thuật ngữ “Phía Người Bị Hại” để chỉ “Người Đại Diện Hợp Pháp Của Người Bị Hại” trong trường hợp người bị hại đã chết trong vụ án. 
II/-NHỮNG YÊU CẦU BỒI THƯỜNG TỪ NGƯỜI BỊ HAI VÀ NĐDHPCNBH
Trong một vụ án hình sự, người bị hại là người đã có thiệt hại: 
-Về mặt thể chất: có nghĩa rằng họ có thể đã bị mất đi mạng sống của mình, tổn thương sức khỏe do bị thương tật một cách tạm thời hay vĩnh viễn; 
-Về mặt tinh thần: có nghĩa rằng họ đã có sự tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân; 
-Về tài sản: có nghĩa rằng họ đã bị chiếm đoạt, bị mất mác, các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. 
(Khái niệm về tài sản là một khái niệm rất rộng, chúng ta cũng cần phải hiểu rõ khái niệm đó đưới góc độ pháp lý để nắm bắt vấn đề một cách chính xác). 
Những thiệt hại nói trên là do tội phạm gây ra. 
Luật cũng đã quy định, người bị hại được quyền đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm cho việc bồi thường. 
Thông thường trong vụ án hình sự, người bị hại hoặc người ĐDHPCNBH yêu cầu được bồi thường về tài sản, về thể chất và về mặt tinh thần, mà họ đã bị thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. 
Thiệt hại về mặt thể chất, thiệt hại về mặt tài sản là có thể xác định dễ dàng thông qua việc giám định thương tật của các cơ quan chức năng có thẩm quyền cũng như thông qua việc xác định và đánh giá thực tế. 
Thiệt hại về mặt tinh thần là không đơn giản để xác định mức độ thiệt hại và đánh giá trị để bồi thường, bởi vì trên thực tế không có tiêu chí chung về mặt tinh thần để xác định cho mỗi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng cá nhân là khác nhau. 
Bên cạnh các yêu cầu đó, các biện pháp bảo đảm cho việc bồi thường cũng là rất cần thiết và có ý nghĩa đối với người bị hại nhất là trong trường hợp việc bồi thường có tính lâu dài trong một thời gian nhất định. 
Cũng cần nói thêm rằng, việc yêu cầu được bồi thường của người bị hại là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Cho nên trong nhiều trường hợp người bị hại cũng có thể từ chối quyền của mình bằng hành vi không yêu cầu và không đề nghị mức bồi thường. 
Tất nhiên, ngoại trừ những yêu cầu mang tính không tưởng, phi thực tế và thiếu căn cứ sẽ không được chấp thuận, thì không phải bất cứ yêu cầu yêu cầu bồi thường nào, với mức độ nào, biện pháp bảo đảm nào, của người bị hại cũng đều được Hội đồng xét xử chấp thuận. 
Bên cạnh đó các Luật sư bào chữa của bị cáo ngay tại phiên tòa cũng luôn có xu hướng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ TNDS của bị cáo trong vụ án. 
Vì vậy, việc bảo vệ quyền lợi của người bị hại trong vụ án hình sự là một nhiệm vụ không dễ dàng và là một hoạt động nghề nghiệp có tính kỹ năng cao của L.sư.

III/-KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC CHUẨN BỊ BÀI BẢO VỆ CHO NGƯỜI BỊ HẠI
1/-Mục đích, yêu cầu của việc viết bài bảo vệ
a)-Mục đích
Mục đích viết bài bảo vệ là giúp cho Luật sư có điều kiện xem lại các tài liệu đã thu thập, ghi chép được, nhờ đó mà hiểu thấu đáo hơn về nội dung vụ án. Khi viết cũng là lúc Luật sư cân nhắc đáng giá từng tài liệu, tình tiết, so sánh, đối chiếu và tổng hợp các chứng cứ, để phát hiện và sử dụng được các chứng cứ có lợi, bác bỏ những chứng cứ bất lợi cho thân chủ. 
Trên cơ sở phân tích và tổng hợp các chứng cứ, Luật sư đưa ra các quan điểm bảo vệ sẽ toàn diện và không bỏ sót những vấn đề quan trọng. 
Bài bảo vệ được chuẩn bị kỹ lưỡng, sắp xếp các luận cứ một cách lô gíc, khoa học, là tài liệu cần thiết để Luật sư sử dụng trong lúc bảo vệ. Nhờ có dàn ý đã được chuẩn bị, Luật sư trình bày các vấn đề có trọng tâm, không bị bỏ sót và cũng không mang tính dàn trãi tràn lan. 
Nếu Luật sư chỉ tin vào trí nhớ và tài hùng biện của mình mà không chuẩn bị bài bảo vệ, thì có nhiều trường hợp vì quá say sưa trình bày về một vấn đề nào đó mà quên mất các vấn đề quan trọng khác cần phải được trình bày. Sau khi bảo vệ xong mới phát hiện ra là còn thiếu thì rất nuối tiếc. 
Trong thực trạng xét xử hiện nay, vấn đề thư ký phiên tòa ghi chép lại toàn bộ diễn biến của phiên tòa cũng chỉ mang tính thủ tục là chính. Nếu sau khi trình bày bài bảo vệ Luật sư gửi tài liệu đó luôn cho thư ký phiên tòa sẽ là một hành động khôn ngoan và là một kỹ năng nghề nghiệp của Luật sư. 
Vì vậy trong mọi trường hợp Luật sư cần thiết phải chuẩn bị bài bảo vệ. 
b)-Yêu cầu
Để có một bài bảo vệ đạt chất lượng, khi chuẩn bị viết, Luật sư cần phải quán triệt các yêu cầu sau: 
-Bài bảo vệ phải có bố cục chặt chẽ, được viết ngắn gọn, rõ ràng, súc tích; 
-Những vấn đề cần bảo vệ phải được ghi thành đề mục và sắp xếp chúng theo một thứ tự hợp lý; 
-Các tài liệu, số liệu được sử dụng phải chính xác, bảo đảm độ tin cậy; 
-Các quan điểm đề xuất phải rõ ràng, không lập lờ nước đôi, không đổ lỗi, đổ tội cho người khác để có lợi cho người mình bảo vệ, không bênh vực quyền lợi cho thân chủ của mình mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 
2/-Những công việc chuẩn bị để viết bài bảo vệ
a)-Tổng hợp các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được
Để viết bài bảo vệ, Luật sư phải chuẩn bị các loại tài liệu. Những loại tài liệu này gồm: 
-Tài liệu, chứng cứ thu thập được từ việc nghiên cứu hồ sơ vụ án: 
+Các lời khai nhận tội của bị cáo; 
+Những lời khai chối tội của bị cáo nhưng rất mâu thuẫn với các chứng cứ khác của vụ án; 
+Những lời khai buộc tội bị cáo của những người làm chứng, người bị hại; 
+Các tài liệu xác định vật chứng của vụ án; 
+Các tài liệu về chứng thương, giám định; 
+Các tài liệu chứng minh yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại như chứng từ, hóa đơn, biên nhận… 
-Các tài liệu, chứng cứ mới được thu thập bổ sung: 
+Các tài liệu ghi chép được khi Luật sư gặp bị can, bị cáo; 
+Các tài liệu Luật sư thu thập được từ việc tiếp xúc với thân nhân gia đình người bị hại… 
-Các tài liệu và văn bản pháp luật có liên quan: 
+Bộ luật hình sự; 
+Bộ luật tố tụng hình sự; 
+Nghị quyết của HĐTP TANDTC, Nghị định chính phủ, Thông tư liên tịch, và các văn bản dưới luật khác có liên quan đến việc bảo vệ của Luật sư. 
b)-Đánh giá phân tích tài liệu, chứng cứ: 
Là người bảo vệ cho quyền lợi của người bị hại, Luật sư phải nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ nói trên, để đánh giá và phân tích, từ đó đưa ra những kết luận về những nội dung, tình tiết có lợi cho thân chủ của mình, như là: 
-Xác định hành vi phạm tội của bị cáo, xác định tội danh và khung hình phạt cho bị cáo; 
-Xác định những thiệt hại thực tế đã xảy ra; 
-Xác định những tình tiết thể hiện việc yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của người bị hại hoặc người ĐDHPCNBH là hợp lý, đúng đắn, chính xác và có căn cứ. 
3/-Xác định định hướng viết bài bảo vệ
a)-Xác định hình thức viết
Tùy thuộc vào tính chất của vụ án là phức tạp hay đơn giản, số lượng bị cáo nhiều hay ít, các tài liệu chứng cứ trong vụ án là đầy đủ hay con thiếu, phù hợp hay có mâu thuẩn với nhau, bị cáo nhận tội hay không nhận tội… mà bài bảo vệ của Luật sư cần được viết chí tiết hay chỉ ở dạng dàn ý và nó được gửi đến Tòa án để Tòa án có điều kiện xem xét kỹ từng tình tiết nội dung yêu cầu của người bị hại mà Luật sư nêu ra hay chỉ là tài liệu mà Luật sư sẽ sử dụng tại tòa. 
Trong trường hợp cần gửi trước cho HĐXX thì Luật sư bắt buộc phải viết hoàn chỉnh bài bảo vệ. 
b)-Xác định định hướng bảo vệ: 
Đây là công việc khá phức tạp của Luật sư, là một bài toán quan trọng mà Luật sư phải có một lời giải hợp lý đúng đắn khẳng định sự thành công hay thất bại của Luật sư trong vụ án. 
Tùy thuộc vào chứng cứ của vụ án và việc Luật sư phải bảo vệ cho đương sự nào trong vụ án mà Luật sư xác định định hướng bảo vệ cho phù hợp. 
Nếu bảo vệ cho người bị hại, Luật sư phải xác định định hướng bảo vệ theo hướng làm rõ TNHS của bị cáo, trên cơ sở đó mới yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại một cách chính xác đầy đủ cho thân chủ của mình. 
Việc làm rõ TNHS của bị cáo có thể theo hướng đề nghị tăng nặng TNHS như yêu cầu xem xét khung hình phạt khác nặng hơn, trả hồ sơ điều tra bổ sung để truy tố theo tội danh khác nặng hơn, nếu thấy cáo trạng truy tố không đúng. 
Trong nhiều trường hợp, định hướng bảo vệ sẽ theo hướng công nhận cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, nên buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà bị cáo đã gây ra cho người bị hại. 
Định hướng bảo vệ phải dứt khoát rõ ràng thống nhất từ đầu đến cuối không lưng chừng khập khểnh nước đôi. 
4/-Cơ cấu bài bảo vệ
Bài bảo vệ phải có cơ cấu thống nhất với nhau và gồm ba phần: Phần mở đầu; Phần nội dung và Phần kết luận. 
a)-Phần mở đầu
-Giới thiệu: Luật sư tự giới thiệu về mình, về cơ sở hành nghề luật sư, về Đoàn luật sư mà mình đăng ký hoạt động nghề nghiệp luật sư. 
-Lý do tham dự phiên tòa: Luật sư nêu lý do và căn cứ mà mình tham gia phiên tòa. 
b)-Phần nội dung: 
-Phân tích TNHS của bị cáo: 
+Nếu VKS truy tố đúng người đúng tội, đúng với nhận định phân tích của Luật sư thì Luật sư cũng cần phải nêu ý kiến, đề nghị HĐXX chấp nhận việc truy tố của VKS. 
+Nếu VKS truy tố chưa đúng người đúng tội, chưa đúng với phân tích của Luật sư thì Luật sư cũng phải nêu quan điểm của mình, nếu cần thiết thì đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 
-Phân tích TNDS của bị cáo: 
+Phân tích chứng minh thiệt hại của thân chủ là có thật, do chính hành vi của bị cáo gây ra, hành vi của bị cáo là hành vi trái pháp luật. 
+Việc yêu cầu bồi thường của người bị hại là có căn cứ. 
c)-Phần kết luận
-Tóm tắt lại những nội dung chính đã trình bày, không cần thiết phải lập lại toàn bộ nội dung, nội dung lập lại phải không mâu thuẫn với nội dung đã trình bày; 
-Đưa ra những đề xuất cụ thể về cách giải quyết vụ án theo hướng có lợi nhất cho thân chủ của mình với Hội đồng xét xử. 


PHẦN THỨ 3:
PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, “Bài bảo vệ cho người bị hại” của Luật sư trong vụ án hình sự là một văn bản được sử dụng trong phần tranh luận tại phiên tòa với mục đích nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị hại trong chính vụ án hình sự đó. 
Bài bảo vệ là một tài liệu quan trọng kết tinh công sức của Luật sư. Thể hiện kết quả của một quá trình tích cự nghiên cứu, khai thác, đánh giá, phân tích hồ sơ tài liệu của vụ án, để tìm ra những những tình tiết, những chứng cứ quan trọng cần thiết phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi của người bị hại là thân chủ của Luật sư trong vụ án. 
Với nội dung và tính chất quan trọng như vậy, Luật sư cần phải có sự đầu tư đúng mức và chuẩn bị kỹ lưỡng cả về nội dung và hình thức cho bài bảo vệ. 
Việc chuẩn bị bài bảo vệ và thực hiện nó một cách hoàn chỉnh, hiệu quả, cũng chính là một phần trong hệ thống kỹ năng trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư. 
Ls Phan Khắc Nghiêm
NPK & ASSOCIATES

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự


1. Nguyên tắc “suy đoán vô tội” và sự cần thiết phải bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự
 “Suy đoán vô tội” là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng các giá trị cao quý của con người (nhân phẩm, danh dự) trong xã hội và coi một người có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định, khi người đó chưa bị Tòa án (cơ quan có thẩm quyền xét xử) kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, để loại trừ, ngăn ngừa sự tùy tiện, lộng quyền, áp đặt hay vi phạm pháp luật từ phía cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT mà Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam đã quy định rõ các hoạt động TTHS phải tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) “Mọi hoạt động TTHS của cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” (Điều 3 Bộ luật TTHS năm 2003).
Thuật ngữ “suy đoán vô tội” chưa được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam sử dụng và ghi nhận chính thức. Tuy nhiên, trên cơ sở những tư tưởng tiến bộ trong Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 “Một người bị buộc tội về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình...” và Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật...”, thì nội dung của nguyên tắc này đã được đề cập trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001 (Điều 72), Bộ luật TTHS năm 1988 (các điều 10, 11) và Bộ luật TTHS năm 2003 (các điều 910). Cho nên, xét dưới góc độ tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, yêu cầu của nguyên tắc “suy đoán vô tội” đòi hỏi tất cả các chủ thể, trước hết là các cơ quan THTT, người tiến hành TTHS phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm của công dân, sau đến những người khác, cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông... cũng phải đối xử và tôn trọng họ khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Còn khi họ đã có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, thì Nhà nước đã quy định các quyền và nghĩa vụ của họ với tư cách là người đã bị kết án.
Điều 72 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đó có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nhắc lại và đặt tên nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Ngoài ra, Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (Điều 72) ngày 23/11/2012 quy định: “1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
Nghiên cứu Điều luật này trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, chúng tôi nhận thấy, nội dung liên quan đến nguyên tắc “suy đoán vô tội” và một số điểm hạn chế, tồn tại của Điều 72 Hiến pháp hiện hành đã được Ban soạn thảo hoàn thiện như sau:
Một là, đã bỏ đi cụm từ “và phải chịu hình phạt” trong khoản 1 để bảo đảm tính thống nhất và chặt chẽ với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, sửa đổi năm 2009 về miễn hình phạt (Điều 54) vì phải bao quát hai trường hợp có hậu quả pháp lý khác nhau:
a) Một người phạm tội và đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt;
b) Một người phạm tội nhưng đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội nhưng không bị áp dụng hình phạt mà được miễn hình phạt.
Hai là, đã bổ sung nội dung “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” để bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN và quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như bất cứ sự buộc tội nào đối với họ” và Điều 11 (đã dẫn ở trên), cũng như Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc. Hơn nữa, logic đương nhiên là “người bị buộc tội” mới cần được “suy đoán vô tội”. Ngoài ra, Điều 32 Dự thảo đã bổ sung nội dung “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” cho bảo đảm tương thích với các Công ước quốc tế (đã dẫn), cũng như tôn trọng quyền bào chữa và trợ giúp pháp lý của những người bị buộc tội tương ứng với các giai đoạn TTHS, thậm chỉ bao gồm cả người bị tình nghi (người bị bắt).
Ba là, đã bổ sung cho chính xác trong các giai đoạn tố tụng và thuật ngữ thống nhất trong Bộ luật TTHS về người bị bắt và các người tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, tạm giam) về việc tôn trọng quyền con người của những người này. Khi họ bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Còn người nào làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 293, 294 Bộ luật Hình sự hiện hành
Từ nội dung Điều 32 Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung Điều 72 Hiến pháp hiện hành), chúng tôi xin đóng góp thêm để hoàn thiện Điều luật này, cũng như bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật TTHS như sau:
Một là, về cơ bản, chúng tôi nhất trí với những đề xuất của Ban soạn thảo sửa đổi Hiến pháp về Điều 32 Dự thảo lần này, tuy nhiên, có ba điểm nên sửa đổi, bổ sung bao gồm:
- Khoản 1 Điều 32 Dự thảo quy định: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Sau khi đã bỏ đi cụm từ “và phải chịu hình phạt” nội dung khoản này đã rất đầy đủ. Mặc dù vậy, để bảo đảm nội dung nguyên tắc “suy đoán vô tội” và thống nhất với quy định của Bộ luật TTHS, cũng như tương ứng với các chức năng cơ bản trong TTHS, khoản này nên bổ sung thêm nội dung: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
- Khoản 2 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” nên sửa đổi, bổ sung thành: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị Tòa án kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án” cho bảo đảm đầy đủ nội dung (logic là thẩm quyền kết án chỉ do duy nhất Tòa án, đồng thời không thể bị kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án), đồng thời phù hợp với khoản 7 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc, cũng như nguyên tắc pháp chế XHCN trong Hiến pháp và pháp luật.
- Khoản 3 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” nên sửa đổi, bổ sung thêm cả “những người khác theo quy định của pháp luật” (cùng với người bào chữa). Bởi lẽ, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân (Điều 56), nhưng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 còn quy định cả Trợ giúp viên pháp lý cũng được coi là người bào chữa thực hiện các nhiệm vụ như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện theo pháp luật... (điểm b khoản 3 Điều 21); hoặc dự phòng sau này có thể có thêm chủ thể nào đó được pháp luật quy định có quyền này.
- Khoản 4 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” nên sửa đổi, bổ sung cho ngắn gọn và thống nhất với Điều 29 Bộ luật TTHS năm 2003, cũng như cần phục hồi cả các quyền lợi khác cho họ ngoài việc bồi thường, khôi phục danh dự (chức vụ, lương bổng...) như sau: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong các hoạt động tố tụng đó gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh theo các quy định củapháp luật”.
Như vậy, Điều 32 Dự thảo Hiến pháp nên sửa đổi, bổ sung như sau:
 
Điều 72 Hiến pháp hiện hành
Điều 32 Dự thảo
Hiến pháp sửa đổi
Kiến nghị sửa đổi
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đó có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không aibị kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa và của những người khác theo quy định của pháp luật.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong các hoạt động tố tụng đó gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lýnghiêm minh theo các quy định của pháp luật.
Hai là, thông qua việc hoàn thiện Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, chúng tôi cho rằng, các bộ luật, luật dưới Hiến pháp phải phù hợp và thống nhất với Hiến pháp, vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản. Nếu không phù hợp, mâu thuẫn với Hiến pháp phải sửa đổi, bổ sung. Do đó, liên quan đến nội dung về “suy đoán vô tội”, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 đã gián tiếp thể hiện ởnguyên tắc: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, còn Điều 10 quy định nguyên tắc: “Xác định sự thật vụ án” nhưng nội dung thứ hai của Điều 10 “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” lại phản ánh nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội”. Vì vậy, có ba nội dung cần sửa đổi, bổ sung như sau:
- Sửa đổi tên gọi Điều 9 “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thành tên gọi “suy đoán vô tội” để tránh trùng lặp với nội dung của Điều luật này.
- Nội dung Điều 9 nêu: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” cần sửa đổi vấn đề liên quan đến vế thứ hai “và phải chịu hình phạt…” cho bảo đảm phù hợp với các quy định của BLHS và thực tiễn xét xử, cũng như thống nhất với Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi (đã nêu) với hai trường hợp tương ứng khác nhau.
- Chuyển nội dung thứ hai trong Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 (đã nêu) đưa vào Điều 9 cho phù hợp và phản ánh nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội” (còn Điều 10 chỉ còn một nội dung). Việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với các tư tưởng tiến bộ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc (đã nêu). Ngoài ra, việc bổ sung này còn bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan, người THTT trong việc chứng minh tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Hơn nữa, điều này còn tương thích với pháp luật TTHS nhiều nước (ví dụ: Điều 14 Bộ luật TTHS Liên bang Nga cũng quy định về nguyên tắc “suy đoán vô tội”). Đặc biệt, Điều 48 Bộ luật TTHS có quy định về người tham gia TTHS là “Người bị tạm giữ” - cũng là một chủ thể cần được suy đoán vô tội, do đó, nên bổ sung thêm chủ thể này đầy đủ hơn.
Như vậy, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành
Kiến nghị sửa đổi
Điều 9. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 9. Suy đoán vô tội
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
3. Mọi sự nghi ngờ về tội phạm của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định thì các cơ quan THTT, người THTT phải giải thích theo hướng có lợi cho họ.

Ba là, tương tự, để bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật TTHS, Điều 293 về “Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” và Điều 294 về “Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 nên sửa tên tội và nội dung thay cụm từ “ tội” thành cụm từ “phạm tội” cho đúng với bản chất của hành vi phạm tội do chủ thể có thẩm quyền thực hiện trong từng giai đoạn tương ứng khác nhau (điều tra, truy tố, xét xử).  
Hiện trong khoa học luật hình sự, BLHS và thực tiễn xét xử tồn tại hai khái niệm “người phạm tội” và “người có tội” nên cần có sự phân biệt rạch ròi, chỉ rõ tư cách tham gia tố tụng nhằm bảo đảm quyền lợi và sinh mệnh chính trị cho họ. Thuật ngữ “người phạm tội” dùng để chỉ một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. Nói một cách khác, hành vi do người đó thực hiện đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nào đó được quy định trong Phần các tội phạm BLHS và người thực hiện hành vi đó bị coi là chủ thể của tội phạm (phạm tội là động từ). Trong khi đó, thuật ngữ “người có tội” cũng được sử dụng để xác định một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng thu hẹp hơn với người phạm tội - với họ đã có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (có tội là tính từ). Cho nên, thời điểm phát sinh cơ sở của trách nhiệm hình sự là thời điểm một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng có thể trách nhiệm hình sự sẽ không được thực hiện trên thực tế, nếu có những điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự cho người đó theo quy định của pháp luật hình sự trên những cơ sở chung.
Như vậy, nhằm thực hiện đầy đủ và nghiêm minh các quy định của Hiến pháp và Bộ luật TTHS, chúng tôi cho rằng, tên tội danh và nội dung trong hai điều luật trên trong BLHS nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Hình sự hiện hành
Kiến nghị sửa đổi
Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không  tội
1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
......
Điều 294 - Tội không truy cứu trách nhiệmhình sự người có tội
1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
......
Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không phạm tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
......
Điều 294 - Tội không truy cứu trách nhiệmhình sự người phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là phạm tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
......

Tóm lại, suy đoán vô tội là một nguyên tắc văn minh, tiến bộ trên thế giới và trong pháp luật của nhiều quốc gia. Việc hoàn thiện các nội dung cơ bản của nó và bảo đảm tính thống nhất liên thông trong Hiến pháp, BLHS và Bộ luật TTHS không chỉ có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý quan trọng, mà còn là “lá chắn thép” trong việc phòng chống oan sai, tôn trọng và bảo vệ các giá trị cao quý của con người. Đặc biệt, qua đó còn đề cao trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trước số phận chính trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của công dân, họ vẫn có quyền và nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án./.

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Vì sao dân ít kiện hành vi hành chính?


Theo nhiều chuyên gia, người dân vẫn chưa phân biệt rõ giữa quyết định hành chính với hành vi hành chính, chưa kể khó có chứng cứ chứng minh về hành vi hành chính trái pháp luật để khởi kiện…
TAND TP Huế vừa tuyên bác yêu cầu của bà NTM trong vụ kiện hành vi hành chính của chủ tịch UBND phường An Hòa.
Những vụ kiện hiếm hoi
Nguyên vào năm 2010, bà M. tranh chấp quyền sử dụng đất với người khác. Theo thủ tục, vụ tranh chấp này phải được hòa giải ở phường trước khi kiện ra tòa. Dù bà M. đã yêu cầu nhưng UBND phường An Hòa vẫn không tổ chức hòa giải. Cho rằng vị chủ tịch UBND phường An Hòa tắc trách, không tổ chức hòa giải khiến vụ tranh chấp đất kéo dài, gây thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần nên bà M. đã kiện vị chủ tịch phường ra tòa đòi bồi thường hơn 58 triệu đồng.
Trước khi TAND TP Huế đưa vụ kiện hành vi hành chính này ra xét xử (người có chức trách không thực hiện công việc thuộc nhiệm vụ, chức trách của mình), chủ tịch UBND phường An Hòa đã chủ động mời các bên tranh chấp đất lên hòa giải. Vì thế, TAND TP Huế đã nhận định là người bị kiện đã khắc phục sai sót, từ đó bác các yêu cầu của bà M.
Một vụ kiện hành vi hành chính hiếm hoi khác là vụ ông VVA khởi kiện hành vi không giao đất theo hợp đồng của chủ tịch UBND huyện Nam Trực (Nam Định). Theo đơn khởi kiện của ông A. (được TAND huyện Nam Trực thụ lý cuối tháng 10 vừa qua), năm 2008, UBND huyện tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, ông A. trúng đấu giá một lô diện tích 54 m2 với giá hơn 92 triệu đồng. Sau khi ông đã đóng đủ tiền, tháng 5-2009, UBND huyện ra quyết định giao đất cho ông A. nhưng trên thực tế, ông A. không hề nhận được đất vì người chủ đất nói ông A. chưa trả thêm khoản “lót tay” cho mình.
Ông A. rất ngạc nhiên vì không có thỏa thuận với ai khác ngoài UBND huyện. Lúc này Phòng TN&MT huyện mới giải thích là UBND huyện đã thống nhất với chủ đất rằng mỗi hộ trúng đấu giá phải đưa riêng cho chủ đất 600.000 đồng/m2. Vì thế, theo UBND huyện, ngoài số tiền hơn 92 triệu đồng trúng đấu giá đã nộp vào Kho bạc Nhà nước, ông A. còn phải đưa cho chủ đất hơn 82 triệu đồng nữa. Không đồng ý với cách làm việc thiếu minh bạch nói trên, ông A. đã khởi kiện hành vi không chịu giao đất theo hợp đồng của chủ tịch UBND huyện Nam Trực.
Khó xác định, khó chứng minh
Trên đây là hai trong số rất ít vụ kiện hiếm hoi liên quan đến hành vi hành chính. Theo thống kê của TAND Tối cao, năm 2012, toàn ngành đã thụ lý 5.769 vụ án hành chính, trong đó hầu hết là những vụ kiện về quyết định hành chính, còn kiện hành vi hành chính thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí có những tòa địa phương cho đến nay vẫn chưa từng thụ lý, giải quyết một vụ kiện hành vi hành chính nào.
Vì sao lại có thực trạng này? Theo Thẩm phán Phạm Công Hùng (Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM), người dân ít khởi kiện hành vi hành chính bởi khó xác định được thế nào là hành vi hành chính. Nhiều người còn bị nhầm lẫn giữa hành vi hành chính và quyết định hành chính, thậm chí ngay cả chính các thẩm phán cũng có khi xác định nhầm. Nhiều vụ án hành chính từng bị hủy vì cấp sơ thẩm xác định sai đối tượng khởi kiện.
Khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính quy định hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo Thẩm phán Hùng, với khái niệm này vẫn rất khó phân biệt thế nào là hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và hành vi hành chính của người đứng đầu cơ quan nhà nước hay hành vi hành chính mang tính nội bộ trong cơ quan nhà nước để người dân khởi kiện.
Luật sư Trương Xuân Tám (ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn Luật sư Việt Nam) bổ sung: Nếu như quyết định hành chính được thể hiện rõ ràng, cụ thể qua hình thức giấy trắng mực đen, có con dấu, có người ký thì hành vi hành chính lại mang tính trừu tượng hơn nhiều. Điều này dẫn đến hệ quả là người dân khó tìm được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Chẳng hạn người dân không thể biết trước mà chuẩn bị ghi âm, ghi hình lại hành vi hành chính trái pháp luật, trong khi ra tòa phải chứng minh nó là gì, xảy ra ở đâu, trái quy định như thế nào... Chưa kể, đôi khi những hành vi hành chính đó chỉ là một lời nói miệng của cán bộ nhà nước, không hề được lập thành văn bản... Tất cả rào cản này đã làm cho người dân ngại khởi kiện.
Hiệu quả khởi kiện không cao
Trao đổi với chúng tôi, nhiều chuyên gia khác còn cho rằng một nguyên nhân không kém phần quan trọng là hiệu quả của việc khởi kiện không cao nên người dân không mặn mà. Thực tế, hầu hết các vụ kiện hành vi hành chính đều bị tòa bác đơn khởi kiện. Có vụ thì người dân không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, có vụ thì người bị kiện đã lo tìm cách “hợp thức hóa” sai sót, khắc phục trước khi tòa xử và tòa dựa vào đó để bác các yêu cầu của người khởi kiện.
Còn tâm lý “con kiến kiện củ khoai”
Tâm lý e ngại “kiện quan”, “con kiến kiện củ khoai” thật ra vẫn còn nặng nề trong suy nghĩ của nhiều người dân. Thực tế, các sai phạm hành chính xảy ra không ít nhưng đa phần người dân vẫn lựa chọn con đường khiếu nại, số ít đặng chẳng đừng mới khởi kiện ra tòa. Khiếu nại không được thì người dân bỏ luôn hoặc tìm cách này, cách khác giải quyết. Cạnh đó, dù có nguyên tắc độc lập trong xét xử nhưng thực tế cho thấy ít nhiều tòa cũng bị ảnh hưởng bởi chính quyền địa phương nên ít khi yêu cầu khởi kiện, nhất là kiện hành vi hành chính được tòa chấp nhận. Hiệu quả khởi kiện không cao làm người dân mất niềm tin.
Luật sư CAO MINH TRIẾT,  Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang
Khó chứng minh thiệt hại
Ở đây là mối quan hệ giữa người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước với công dân, không giống quan hệ trực tiếp giữa hai công dân với nhau. Để được bồi thường, người khởi kiện phải chứng minh có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền với thiệt hại xảy ra. Trên thực tế, việc chứng minh hành vi trái pháp luật của cán bộ đã rất khó rồi, nói chi đến chuyện chứng minh các thiệt hại cụ thể mà hành vi đó gây ra.
Luật sư NGUYỄN THẾ PHONG,
Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Long An