Hiển thị các bài đăng có nhãn luật npklaw. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn luật npklaw. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật Dân sự 2005

Ở Việt Nam, kể từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945) và nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (2/9/1945) đến nay, quyền nhân thân (QNT) của cá nhân luôn được pháp luật bảo vệ và ngày càng được coi trọng. Các QNT của cá nhân được quy định trong các bản Hiến pháp năm 1946, 19591980, 1992 và được cụ thể hoá trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và hiện nay  BLDS năm 2005. Các quyền đó được thể hiện ở những nội dung rất cơ bản của quyền con người. Đó là quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính mạng, tên gọi, danh dự, uy tín, nhân phẩm, quyền mang họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền kết hôn, ly hôn, quyền cư trú, quyền tự do báo chí, quyền tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật, quyền phát minh, sáng chế, quyền tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, quyền bí mật đời tư, quyền về hình ảnh…
Điều 32 BLDS năm 2005 được hiểu như một nguyên tắc trong việc tôn trọng và bảo vệ tính mạng, sức khỏe và thân thể của cá nhân. Đó là quyền bất khả xâm phạm thân thể của cá nhân trong trường hợp cá nhân còn sống và quyền bất khả xâm phạm thi thể trong trường hợp cá nhân chết. Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt ý chí của cá nhân đối với thân thể của mình.
Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự (LDS) có đặc điểm không mang tính vật chất, không biểu hiện bằng tiền, mang tính chất phi tài sản. Do vậy, không phải bất kỳ một quyền nào của công dân được quy định trong Hiến pháp thì cũng lại được quy định trong BLDS; tuy rằng BLDS là đạo luật cụ thể hoá những tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp, nhưng chỉ cụ thể hoá những quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS. Với lập luận này, cần thiết phải phân biệt hai khái niệm: quyền công dân (QCD) và quyền dân sự(QDS).
QCD là quyền chính trị và quyền bầu cử, ứng cử, còn QNT trong quan hệ pháp luật dân sựlà căn cứ để xác định tư cách của chủ thể trong quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ. Với những cơ sở khoa học được xác định, BLDS cần căn cứ vào đó để quy định các QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS. Những QNT không thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS thì tuyệt nhiên không nên quy định trong BLDS.
QNT được hiểu là QDS gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, QNT có mối quan hệ hữu cơ với cá nhân kể từ thời điểm cá nhân được sinh ra và chấm dứt khi cá nhân chết. QNT có mối quan hệ mật thiết với năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, có nghĩa là QNT của cá nhân gắn với cá nhân suốt cuộc đời. Do đặc điểm của QNT là quyền gắn liền với chủ thể, không thể mất đi vì QNT mang tính phi vật chất. Vì vậy, khi cá nhân chết, thì QNT của cá nhân vẫn gắn với cá nhân cho tới thời điểm đó; QNT của cá nhân vẫn được bảo vệ về thi thể, mồ mả và danh dự của cá nhân. QNT có đặc điểm đặc biệt như vậy, cho nên QNT là cơ sở để xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ tài sản khi cá nhân còn sống, đồng thời QNT mang tính chất phi vật chất gắn với cá nhân vĩnh viễn kể từ khi cá nhân chết. Những yếu tố liên quan đến thi thể, mồ mả, danh dự của cá nhân được pháp luật bảo vệ, vì những yếu tố này là QNT phi vật chất của cá nhân.
Vì vậy, pháp luật dân sự đã có những quy định về bảo vệ danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân; bảo vệ thi thể và mồ mả của cá nhân; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và pháp luật dân sựcòn quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) do có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về thi thể, mồ mả, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Hành vi xâm phạm mồ mả, thi thể của cá nhân, hành vi vu khống được Bộ luật Hình sự quy định là các tội danh; người có hành vi xâm phạm thi thể, mồ mả của người khác và có hành vi vu khống người khác phải chịu trách nhiệm hình sự. Chỉ có hiểu như vậy mới giải quyết được vấn đề xác định trách nhiệm dân sự và hình sự khi có hành vi xâm phạm đến các QNT của cá nhân.
QNT có những điểm đặc biệt như vậy, nên khi xác định QNT của cá nhân cần thiết phải xác định rõ những đặc điểm này để tránh sự hiểu lầm là cá nhân đã chết thì QNT cũng chấm dứt theo.
Việc xác định QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS rất quan trọng, để có căn cứ xác định các QNT này bị xâm phạm trong những trường hợp nào và trách nhiệm BTTH khi các QNT bị xâm phạm. Hơn nữa, việc xác định chuẩn xác các QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS, để cá biệt hoá các hành vi xâm phạm QNT thuộc trách nhiệm dân sự hoặc thuộc về loại trách nhiệm khác.
Ở các nước trên thế giới, QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS đã thật sự rõ ràng và mọi quan điểm tranh cãi trong việc xác định QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS hầu như không còn tồn tại nhiều. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì việc nhầm lẫn giữa việc xác định QDS và quyền chính trị, quyền bầu cử vẫn còn tồn tại, không rõ ràng từ chính những quy định của pháp luật. Quy định nhầm lẫn về QDS và QCD được thể hiện tại mục 2 Chương III BLDS năm 2005 với 28 điều, nhưng đã có tới 13 điều quy định về các quyền cơ bản của công dân, không thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS. Dường như các nhà làm luật đã đồng nhất các quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp với các QNT là đối tượng điều chỉnh của LDS.
       Về bản chất thì QNT của cá nhân là quyền phi tài sản, không biểu hiện bằng vật chất, không quy đổi được thành tiền và mang giá trị tinh thần. Do vậy, QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS và có những đặc điểm pháp lý cơ bản như: (i) QNT thuộc phạm trù pháp lý và là một bộ phận của quyền con người, mang giá trị tinh thần, không biểu hiện bằng vật chất; (ii)QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS và gắn liền với cá nhân, không thể chuyển dịch. Một vấn đề đặt ra là trong xã hội còn tồn tại nhiều quan hệ nhân thân liên quan đến cá nhân thì dựa trên căn cứ nào để xác định QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS và các quyền phi vật chất khác của cá nhân nhưng không thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS?
Để xác định các quyền nào là QNT và các quyền nào không thể được xem là QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS, trước hết cần phân biệt QDS là quyền tách rời quyền bầu cử và quyền chính trị. Một cá nhân sống trong một chế độ chính trị nhất định có thể cá nhân đó không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử và hưởng các quyền chính trị khác nhưng cá nhân đó vẫn có các QDS mà không phụ thuộc vào độ tuổi, sự phát triển của trí tuệ, địa vị xã hội, giới tính, thành phần xuất thân, đảng phái, tôn giáo, ý thức chính trị...
Từ lập luận trên, có thể nhận định rằng, LDS chỉ điều chỉnh các QNT là căn cứ để xác định địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ. Những quyền của công dân liên quan đến quyền chính trị và quyền bầu cử không thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS. Hay nói cách khác, QNT thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS là các quyền gắn liền với cá nhân và không thể là đối tượng chuyển dịch cho người khác, đồng thời là quyền có tính độc lập, cá biệt hoá cá nhân này với cá nhân khác, không thể trộn lẫn. QNT gắn liền với chủ thể, có tính độc lập và có tính chất cá biệt hoá chủ thể tuyệt đối. Theo quy định tại Điều 25 BLDS hiện hành của Việt Nam thì: “QNT được quy định trong Bộ luật này là QDS gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, QNT của cá nhân là QDS, để phân biệt với quyền bầu cử và quyền chính trị, không thể là đối tượng của bất kỳ một giao dịch nào. Đặc điểm của QNT là quyền không mang giá trị kinh tế, không quy đổi thành tiền, mà mang giá trị tinh thần, phi tài sản tuyệt đối. Vì vậy, ở Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1995 (năm 1995, BLDS được ban hành - 28/10/1995) không có một quy định nào về  BTTH do các QNT của cá nhân bị xâm phạm. Do nhận thức QNT của cá nhân mang tính phi vật chất tuyệt đối, cho nên không thể xác định tính chất phi tài sản của quyền này để quy đổi bằng vật chất trong bồi thường khi có hành vi xâm phạm. Cơ chế để giải quyết những tranh chấp do có hành vi xâm phạm đến QNT của cá nhân được giải quyết bằng biện pháp hoà giải, buộc người xâm phạm xin lỗi.
Như phần trên đã nhận định, QNT của cá nhân ở Việt Nam trong một phần hai thế kỷ tính từ năm 1945 đến năm 1995, khi bị xâm phạm không được bồi thường bằng tài sản do có quan điểm nhận thức của cơ quan lập pháp là QNT phi tài sản tuyệt đối, cho nên không thể quy đổi thành tiền trong việc bồi thường. Hơn nữa, các nhà làm luật còn có sự nhầm lẫn giữa QCD và QDS. Hệ quả là những QDS cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp kể từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp hiện hành (ban hành năm 1992) đều được quy định lại trong BLDS năm 1995 và hiện nay trong BLDS năm 2005. Vì vậy, một số QCD cũng được quy định tại mục 2 Phần thứ nhất về những quy định chung trong BLDS năm 1995 và hiện nay trong mục 2 BLDS năm 2005.
Theo chúng tôi, quy định về QNT của cá nhân trong BLDS 2005 khi được sửa đổi, bổ sung chỉ bao gồm những quyền: quyền đối với họ, tên; quyền thay đổi họ, tên; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; quyền xác định lại giới tính là nhóm khách thể được pháp luật bảo hộ. Các quyền này gắn với mỗi cá nhân và mang tính độc lập. Các quyền này là những lợi ích nhân thân của cá nhân được bảo hộ. Mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến một trong các quyền trên, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm BTTH.
Hơn nữa, khi quy định về QNT trong BLDS cũng cần quan tâm hơn đến cơ chế bảo vệ trong trường hợp danh dự, uy tín của cá nhân bị xâm phạm. Thực tế nhiều năm trở lại đây, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc sử dụng thư điện tử (Email) là một hình thức thông tin hiện đại qua mạng Internet, ngày càng phổ biếnBên cạnh những lợi ích của việc sử dụng thư điện tử, là mặt trái của nó về mặt xã hội, do những người có hành vi trái pháp luật đã sử dụng thư điện tử làm phương tiện để truyền bá những thông tin thất thiệt hoặc nhằm để vu khống hoặc bôi nhọ danh dự của người khác có chủ đích. Người sử dụng thư điện tử nhằm mục đích đen tối đã gây ra những tổn thất không dễ khôi phục được, nhất là khi nó lan truyền ở phạm vi không gian rộng. Hành vi vu khống, bôi nhọ danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác là hành vi trái pháp luật, ngoài trách nhiệm hình sự, còn phải chịu trách nhiệm theo những chế tài khác, trong đó có chế tài dân sự. Tuy nhiên, thực trạng quản lý quy trình đăng ký sử dụng thư điện tử hiện nay ở Việt Nam còn nhiều bất cập, cho nên việc xác định hành vi trái pháp luật của một người cụ thể để quy trách nhiệm dân sự là một việc rất phức tạp, khó khăn, hiệu quả không cao.
Ngoài rakhi sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2005 cần loại bỏ một số quyền đã được quy định trong Bộ luật này là: quyền kết hôn (Điều 39); quyền bình đẳng của vợ chồng (Điều 40); quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình (Điều 41); quyền ly hôn ( Điều 42); quyền được nuôi con nuôi và quyền được, nhận làm con nuôi (Điều 44); quyền đối với quốc tịch (Điều 45); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 46); quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 47); quyền tự do đi lại, tự do cư trú (Điều 48); quyền lao động (Điều 49); quyền tự do kinh doanh (Điều 50); quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 51). Những quyền trên là QCD, không thuộc đối tượng điều chỉnh của LDS, do vậy nếu các quyền này bị xâm phạm thì được áp dụng các quy phạm pháp luật thuộc chuyên ngành luật khác như luật hình sự, luật hành chính để giải quyết.

Nguồn: TCNCLP  

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN KHI TUYÊN BỐ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG

Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật HN & GĐ) và hướng dẫn tại Mục 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã quy định trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Tại mục 5.4.1.4, khoản 5, điểm C, phần thứ 3 của “Sổ tay Thẩm phán” cũng nêu rất rõ văn bản án dụng và các trường hợp không được công nhận là vợ chồng. Luật HN & GĐ có chương III quy định về quan hệ giữa vợ và chồng (trong đó có quy định về chế độ tài sản chung vợ chồng, việc đại diện cho nhau, trách nhiệm liên đới của một bên đối với giao dịch do bên kia thực hiện, tài sản riêng…) và chương X quy định về giải quyết các vấn đề về ly hôn (con cái, tài sản…).
Tuy nhiên, giải quyết các vấn đề về tài sản đối với trường hợp hôn nhân không hợp pháp (hủy hôn nhân trái pháp luật, không công nhận là vợ chồng) thì lại chỉ được quy định tại điểm c mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình (Nghị Quyết 35/2000/QH10): “Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu cóyêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết”. Điều 17 Luật HN & GĐ quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật như sau: “…3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con”.
Thông qua công tác Giám đốc thẩm các vụ án dân sự, chúng tôi thấy rằng các Tòa án địa phương đã vận dụng pháp luật tương đối tốt để xác định hôn nhân hợp pháp (công nhận thuận tình ly hôn hoặc cho ly hôn) hay hủy hôn nhân trái pháp luật, không công nhận là vợ chồng; việc áp dụng các quy định của Luật HN & GĐ khi giải quyết các vụ án ly hôn (xác định tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng…) là tương đối tốt. Tuy nhiên, đối với các vụ án hủy hôn nhân trái pháp luật, không công nhận hôn nhân hợp pháp lại rất lúng túng khi phải giải quyết các vấn đề tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng. Nhiều bản án phần xét thấy có lập luận không công nhận là vợ chồng, nhưng vẫn sử dụng cụm từ vợ chồng, ly hôn, thời kỳ hôn nhân khi phân tích các sự kiện; vẫn trích dẫn điều luật quy định giải quyết về tài sản chung vợ chồng trong Luật HN & GĐ để giải quyết, hoặc không nắm rõ được các quy định của Bộ luật dân sự để xác định tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng và cách phân chia để bảo đảm quy định tại Điều 17 Luật HN & GĐ.
Ví dụ: Năm 1990 bà Phấn và ông Cầu được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới nhưng hai bên không đăng ký kết hôn và sau đó cũng không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo Nghị Quyết 35/2000/QH10. Quá trình chung sống hai bên đã có 2 con chung. Năm 1992 gia đình ông Cầu cho ông bà ra ở riêng trên một mảnh đất của gia đình và ông bà dựng nhà lá để ở, quá trình chung sống có cải tạo nhà, trồng cây ăn trái, mua sắm vật dụng gia đình. Năm 2009, do mâu thuẫn trầm trọng, ông bà có đơn xin ly hônnhưng không thống nhất được việc phân chia tài sản là nhà, đất nêu trên (ông Cầu cho rằng là tài sản riêng của ông vì cha mẹ cho riêng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2004 đứng tên ông, không có tên bà Phấn; còn bà Phấn xác định là được cha mẹ ông Cầu cho chung nên là tài sản chung và yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án sơ thẩm quyết định không công nhận là vợ chồng, nhưng phần xét thấy của bản án lại vẫn sử dụng cụm từ vợ chồng, ly hôn như: “Về phần nợ: trong thời gian chung sống vợ chồng…” ;“Xét thấy khi ly hôn đất vườn anh Cầu được quản lý sử dụng”; vẫn vận dụng các quy định giải quyết về tài sản chung, tài sản riêng của trường hợp ly hôn trong Luật HN & GĐ như “…Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân…”. Bản án nhận xét vì không được công nhận là vợ chồng nên đất là cha mẹ ông Cầu cho riêng ông Cầu, không phải tài sản chung của vợ chồng nên ông được sở hữu nhà (do 2 bên xây, nên là tài sản chung và mỗi bên được ½) và thanh toán cho bà Phấn ½ giá trị nhà.
Bản án phúc thẩm phần trích yếu vẫn ghi “V/v xin ly hôn”; phần xét thấy nhận xét “Tòa án cấp sơ thẩm không công nhận là vợ chồng là có căn cứ”, nhưng lại ghi “…Xét thấy đây là tài sản chung được cha mẹ ông Cầu cho vợ chồng ông trong thời kỳ hôn nhânnên được xem là tài sản của vợ chồng. Ông Cầu cho rằng đây là tài sản được cha mẹ cho riêng nhưng ông không chứng minh được việc cho riêng trong thời kỳ hôn nhânnên không có cơ sở chấp nhận vì theo quy đinh tại khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ…Ông Cầu cũng không chứng minh được phần đất trong GCNQSD đất cho ông là tài sản riêng nên căn cứ và Điều 27 Luật HN & GĐ thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung vợ chồng…”.
Trong vụ án trên, theo chúng tôi, khi đã xác định quan hệ của họ không được công nhận là vợ chồng, thì bản án không nên sử dụng từ vợ chồng, thời kỳ hôn nhân… nữa, mà có thể sử dụng cách viết khác như ông bà, thời gian cùng chung sống, tài sản tạo lập trong thời gian sống chung,…Về tài sản chung, không phải trường hợp áp dụng Điều 27 Luật HN & GĐ xác định tài sản tranh chấp có phải tài sản chung của vợ chồng hay không cũng như các Điều luật khác để xác định tài sản chung, tài sản riêng…; mà chỉ có căn cứ theo các quy định tại Bộ luật dân sự về sở hữu chung (căn cứ xác lập tài sản chung như được tặng cho chung, cùng đóng góp công sức để tạo lập… Điều 214, 215, 216 Bộ luật dân sự năm 2005) và phân chia tài sản chung theo các quy định của Bộ luật dân sự (Điều 224) và Điều 17 Luật HN &GĐ mà thôi. Trong vụ án trên, bản án phúc thẩm viện dẫn không chính xác Điều luật áp dụng, như hồ sơ thể hiện đã thu thập chứng cứ về việc cho chung là lời khai của mẹ ông Cầu thừa nhận khi tổ chức lễ cưới có tuyên bố cho ông Cầu, bà Phấn mảnh đất này và đã không có ý kiến gì phản đối khi ông Cầu kê khai, làm thủ tục tách thửa và được cấp GCNQSD đất. Tòa án cấp phúc thẩm cũng thu thập chứng cứ về hồ sơ ông Cầu kê khai xin cấp GCN, trong đó ông có ghi cả tên ông và tên bà Phấn là đồng sử dụng; việc GCN chỉ ghi tên ông Cầu là thiếu sót của UBND. Vì vậy, có căn cứ xác định thửa đất là tài sản do ông Cầu, bà Phấn được cha, mẹ ông Cầu tặng cho chung và việc tặng cho đã hoàn thành (đã nhận tài sản sử dụng, đã đứng tên trên giấy tờ) nên cấp phúc thẩm xác định là tài sản chung và chia cho 2 bên sử dụng, là phù hợp.
Mặc dù để thực hiện Nghị quyết 35/2000/QH, ngày 22/10/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định chi tiết về đăng ký kết hôn có quy định chi tiết về đăng ký kết hôn đối với các trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn, tuy nhiên trên thực tế, số cặp nam nữ đến thực hiện việc đăng ký kết hôn lại không nhiều. Do đó, từ sau ngày 01/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì cho dù họ có thừa nhận là vợ chồng đi nữa, khi thụ lý giải quyết Tòa án vẫn phải tuyên bố không công nhận là vợ chồng và theo thống kê thì loại án này ngày càng tăng và chiếm khoảng 10% số vụ án về hôn nhân và gia đình. Không ít vụ đương sự có tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng…như tranh chấp trong các vụ án ly hôn, thì Tòa án vẫn phải giải quyết và gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc khi áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ. Nhiều bản án vẫn viện dẫn các quy định của Luật HN & GĐ để giải quyết các quan hệ này và về cơ bản, chúng tôi thấy trong nhiều vụ án việc áp dụng Luật HN & GĐ giải quyết cũng đã bảo đảm được quyền lợi của người phụ nữ hơn là áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
Luật HN & GĐ năm 2000 đang trong quá trình nghiên cứu toàn diện để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Để bảo đảm áp dụng đúng và thống nhất pháp luật, đồng thời bổ sung hoàn thiện các quy định của Luật HN & GĐ, chúng tôi đề nghị ngành Tòa án cần có nghiên cứu tổng kết thực tiễn giải quyết các vụ án không công nhận là vợ chồng và việc giải quyết về tài sản chung-riêng, nợ chung-riêng…và những vấn đề liên quan đến Điều 17 Luật HN & GĐ.

Cần biết những gì về TPP

Cho đến nay với nhiều doanh nghiệp, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) vẫn còn là một khái niệm mơ hồ, một mặt vì thông tin phân tích nhiều quá, không có điểm nhấn; mặt khác, thông tin chính thức lại hầu như không có, làm các vòng đàm phán mang màu sắc bí ẩn. Nhằm giải đáp thắc mắc mà nhiều doanh nghiệp từng nêu ra . Dưới đây là các ý kiến giải pháp mang tính tham khảo cho một số câu hỏi của các doanh nghiệp quan tâm đến TPP được sắp xếp theo kiểu hỏi và trả lời.
Hỏi: TPP là cái gì mà mọi người xôn xao thế?
- Đáp: TPP về bản chất là một hiệp định thương mại tự do giữa 12 nước (Việt Nam, Brunei, Singapore, Malaysia, Chile, Úc, New Zealand, Peru, Mexico, Canada, Nhật Bản và Mỹ). Lấy ví dụ về xuất nhập khẩu hàng hóa, nếu kết thúc đàm phán và ký kết hiệp định vào cuối năm nay như tuyên bố chung của 12 nước này vừa được công bố thì sẽ có trên 90% dòng thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu giữa 12 nước này được hạ xuống bằng 0%.
Hỏi: Nhưng không phải là trước đây Việt Nam từng ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ rồi gia nhập WTO để hưởng thuế suất thấp rồi sao?
- Đáp: Các hiệp định thương mại thông thường (như BTA với Hoa Kỳ hay WTO) chỉ cắt giảm thuế suất, còn các hiệp định thương mại tự do như TPP là loại bỏ thuế suất (0%). Lấy ví dụ hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ, sau khi ký hiệp định thương mại song phương thì thuế suất bình quân giảm còn 17,3%; mức này được giữ nguyên sau khi vào WTO (vì đây đã là mức thuế MFN mà Mỹ dành cho các nước thành viên WTO). Nay với TPP thuế suất chỉ còn 0%.
Hỏi: Thế thì cứ ký đi chứ còn chần chờ gì nữa?
- Đáp: Không đơn giản. Cũng lấy lại ngành dệt may làm ví dụ, để hưởng thuế suất thấp như trên, TPP quy định nguyên liệu như sợi, chỉ, vải... phải có xuất xứ từ các nước thành viên. Trong khi hiện nay nguyên liệu của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu mua từ Trung Quốc hay Hàn Quốc, đều không phải là thành viên TPP.
Đàm phán là để tìm cách du di cái đòi hỏi này, và nhiều chuyện khác nữa.
Hỏi: Như chuyện gì?
- Đáp: Quan hệ lao động, sở hữu trí tuệ, đối xử với doanh nghiệp nhà nước, bảo vệ môi trường...
Hỏi: Những chuyện này thì đã sao? Dường như cũng giống lộ trình cải cách mà nhiều người từng nói đến?
- Đáp: Chính xác. Trong lâu dài thì đó là những vấn đề trước sau gì chúng ta cũng phải làm như để công nhân có sự chủ động hơn trong thương lượng với giới chủ về lương tiền, về điều kiện lao động. Bảo vệ môi trường là điều không cần ai gây sức ép, tự chúng ta cũng phải nghiêm khắc hay cải cách doanh nghiệp nhà nước, chính thức mà nói chúng ta có cả một kế hoạch tái cấu trúc to lớn. Vấn đề là thay đổi cách tư duy, không xem đó là thử thách mà chúng ta phải đối phó; ngược lại, cần xem đó chính là nhiệm vụ của chúng ta, và xem đàm phán TPP về những vấn đề này như một động lực tốt để chúng ta thực hiện nhiệm vụ của mình tốt hơn, hiệu quả hơn và có công cụ kiểm soát đầy đủ hơn.
Hỏi: Chúng ta chỉ mới nói về hướng xuất đi mà chưa tính đến hướng nhập về?
- Đáp: Đúng rồi. Người ta mở cửa cho hàng Việt Nam thì Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa và dịch vụ của họ. Các ngành tài chính, dịch vụ, bán lẻ nước ngoài tràn vào sẽ gây khó cho các doanh nghiệp còn non trẻ của Việt Nam. Hàng nhập khẩu không thuế hay thuế thấp cũng sẽ chạy đua với hàng nội địa ngay trên sân nhà trong các ngành như điện máy, nông sản, chăn nuôi, hàng công nghiệp...
Hỏi: Có cách nhìn nào khác, thay vì chỉ tập trung cân nhắc thiệt hơn trước mắt?
- Đáp: Với TPP, cái thách thức có thể trở thành cơ hội và ngược lại, cơ hội cũng dễ biến thành nguy cơ. Cho nên ảnh hưởng hay tác động là phải nhìn tổng thể, qua lại, trong nguy có cơ và ngược lại. Ví dụ, yêu cầu nguyên liệu phải từ trong nước hay từ nước thành viên có thể sẽ thúc đẩy một làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhìn nó là cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài cũng đúng mà là thách thức cho ngành dệt may thì cũng đúng vì đa phần nguyên liệu tạo ra từ các doanh nghiệp FDI này là để phục vụ cho sản xuất tiếp của chính họ chứ không dành cho doanh nghiệp trong nước. Một ví dụ khác, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh bình đẳng thì không những nhà đầu tư từ các nước TPP hưởng lợi mà chính doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng nhẹ gánh bị phân biệt đối xử; cả nền kinh tế thở phào không còn phải đổ nguồn lực cho doanh nghiệp nhà nước lãng phí nữa.
Hỏi: Phức tạp nhỉ. Vậy nói tóm lại doanh nghiệp phải làm gì?
- Đáp: Nói chung, trước đã định làm gì thì nay cứ tiếp tục làm thế, với cường độ cao hơn, với tư thế cạnh tranh quyết liệt hơn. Cái quan trọng là rút kinh nghiệm từ giai đoạn sau gia nhập WTO, nhiều người đã không giữ được mình, bỏ sở trường (năng lực lõi) chạy theo sở đoản (địa ốc, ngân hàng, chứng khoán, tài chính) nên sa chân cho đến giờ chưa rút ra được. Lần này thì phải tuyệt đối tỉnh táo nhưng cũng nhạy bén nắm lấy cơ hội nếu đang hướng đến thị trường nước ngoài và chuẩn bị tinh thần cho cuộc đua khốc liệt hơn nếu đang nhắm vào thị trường trong nước.
Hỏi: Vậy mà nhiều người nói, kẻ hưởng lợi nhiều nhất từ TPP là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hay sắp vào Việt Nam?
- Đáp: Chứ còn gì nữa, nếu doanh nghiệp ta không có chuẩn bị, có chiến lược, có kế hoạch dựa trên nghiên cứu kỹ lưỡng như họ.
Hỏi: Không lẽ chúng ta đi đàm phán để cuối cùng nhà đầu tư nước ngoài hưởng?
- Đáp: Đúng là với WTO đã có hiện tượng này. Người lạc quan thì suy nghĩ tích cực thế này: doanh nghiệp FDI thành lập ở Việt Nam cũng là một thành phần của nền kinh tế Việt Nam; doanh nghiệp FDI có mạnh thì mới tạo công ăn việc làm, tạo ra hiệu ứng lan tỏa, giúp xây dựng nền công nghệ phụ trợ, giúp nâng kim ngạch xuất khẩu… Dù vậy, song song đó cần phải có những chính sách nghiêm túc để chống chuyển giá, chống trốn thuế, lỗ giả lời thật trong khu vực FDI. Dần dần, hy vọng rằng doanh nghiệp trong nước phục hồi sẽ vươn ra chiếm thị phần trở lại.
Quan trọng hơn, nếu cửa không mở, thương mại không tự do, thì có thể nhà đầu tư nước ngoài không được hưởng gì nhưng chắc chắn là doanh nghiệp nội địa cũng chẳng có cơ hội mới nào cả, dù là cơ hội mong manh.

Bàn về lập luận

Một nguyên lý sư phạm cho nền giáo dục tiên tiến: cấp cần câu chứ không cho cá. Cái cần câu cấp cho người học là phương pháp độc lập tư duy, đánh giá, phát hiện và giải quyết vấn đề. Trước hết, đó là phương pháp tư duy phản biện mà cốt lõi là lý thuyết lập luận. Khi có thói quen tư duy phản biện, hiện tượng được nhìn nhận, đào sâu tới gốc rễ của nó. Hơn ai hết, giới nghị sĩ phải rèn luyện về lập luận.
Lập luận là gì?
Xuất phát từ tiền đề (những sự kiện, chân lý được mọi người thừa nhận), dựa trên những lý lẽ chúng ta đi tới những kết luận – đó là lập luận. Có hai loại lập luận: lập luận để chứng minh một chân lý và lập luận để thuyết phục.
Loại lập luận thứ nhất thuộc lôgích hình thức. Đó là toán chứng minh trong hình học, đại số, vật lý, hoá học… dạy trong trường học. Lý lẽ trong loại này là những định lý, định luật, quy tắc… đã biết.
Trong đời thường còn có loại lập luận để thuyết phục, tạo niềm tin, nói sao cốt để người nghe thấy “lọt lỗ tai” rồi tin theo điều mình nói hoặc từ bỏ những xác tín cũ. Lý lẽ chủ yếu ở loại lập luận này là những lôgích đời thường: “ở hiền gặp lành” là lý lẽ về quan hệ nhân quả, “trời kêu ai người ấy dạ” là lý lẽ về số mạng, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” là lý lẽ về dòng dõi. Đó là những lẽ thường hay lý lẽ “hiển nhiên là thế”. Loại lập luận này thuộc lôgích phi hình thức. Ở đây lý lẽ có tầm quan trọng hàng đầu. Chất vấn, trả lời, tranh luận trước Quốc hội, tranh luận của luật sư tại phiên toà là những lập luận để thuyết phục.
Lý lẽ trong lập luận
Những kết luận không chứng minh, không có lý lẽ là loại lập luận quyền uy chẳng thuyết phục được ai. Tiếc thay, loại này thường thấy trong diễn đàn Quốc hội.
“Chân lý thuộc về số đông” là loại lý lẽ về số lượng. Nó loại trừ lý lẽ “ta làm theo cách của ta”. Dùng lý lẽ này, GS Hoàng Tuỵ viết: “Yếu kém nhất của nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là đi lạc con đường chung của thế giới đang đi. Lạc hậu còn có thể khắc phục được nhưng lạc đường thì mãi mãi khó đuổi kịp các nước” (Sài Gòn Tiếp Thị, 14.10.2011).
Ý thức được tầm quan trọng của lý lẽ “chân lý thuộc về số đông”, nhiều đại biểu Quốc hội đánh tráo thành nhân danh số đông. Ông Hoàng Hữu Phước nói mà không đưa ra được chứng cứ thống kê “đa số công dân sẽ không ủng hộ luật biểu tình” thì chỉ là nhân danh số đông – nhân danh nhân dân. Mấy ai tin cái “đa số công dân” của ông Hoàng Hữu Phước.
Thú vị là lý lẽ dựa vào uy thế cũng hay được dùng trong Quốc hội để tăng thêm trọng lượng cho lập luận. Khi bàn cần có luật biểu tình, cả hai đại biểu Dương Trung Quốc và Trương Trọng Nghĩa đều viện tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nguỵ biện và sai lầm trong lập luận
Luật đặt ra để điều chỉnh các hành vi xã hội. Xảy ra một vài cuộc biểu tình hỗn loạn, tại sao không nghĩ rằng hãy xây dựng luật biểu tình để hạn chế biểu tình hỗn loạn mà lại nghĩ cần cấm biểu tình?
Đánh tráo khái niệm là một cách nguỵ biện hay thấy trong lập luận nghị trường. Từ demonstration (biểu tình) xuất hiện trong tiếng Anh từ thế kỷ 14, là hình thức đấu tranh của một tập hợp người, công khai đòi quyền lợi, chống bất công, phản đối một điều gì đó đối với giới chủ hay nhà cầm quyền được đại biểu Phước đánh tráo thành biểu tình với động cơ chính trị “chống chính phủ”, thậm chí có đại biểu khác còn đẩy lên thành “chống chế độ”. Đây là kiểu lập luận chụp mũ hù doạ. Người nói quên mất bên cạnh những cuộc biểu tình “chống” còn có những cuộc biểu tình ủng hộ – chống lại cuộc biểu tình “chống”. Câu chuyện phe “áo đỏ”, “áo vàng” bên Thái còn chưa xa.
Nếu xuất phát từ những tiền đề vu vơ, những lý lẽ tào lao thì lập luận chẳng thuyết phục nổi ai. Xem xét quyền biểu tình theo trình độ dân trí và nền kinh tế là một lối tư duy hết sức tuỳ tiện, gợi nhớ đến lập luận của một đại biểu Quốc hội khoá trước: “Các nước có chỉ số IQ cao thì người ta làm đường cao tốc”.
Về phương diện lập luận, chân lý không phải luôn luôn thuộc về số đông. Chỉ mình ông Dương Trung Quốc phát biểu ủng hộ cần luật biểu tình, nhưng hầu như không ai có tranh luận bác bỏ. Vậy, ông Dương Trung Quốc đúng.
Theo: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ

Bàn về lập luận

Một nguyên lý sư phạm cho nền giáo dục tiên tiến: cấp cần câu chứ không cho cá. Cái cần câu cấp cho người học là phương pháp độc lập tư duy, đánh giá, phát hiện và giải quyết vấn đề. Trước hết, đó là phương pháp tư duy phản biện mà cốt lõi là lý thuyết lập luận. Khi có thói quen tư duy phản biện, hiện tượng được nhìn nhận, đào sâu tới gốc rễ của nó. Hơn ai hết, giới nghị sĩ phải rèn luyện về lập luận.
Lập luận là gì?
Xuất phát từ tiền đề (những sự kiện, chân lý được mọi người thừa nhận), dựa trên những lý lẽ chúng ta đi tới những kết luận – đó là lập luận. Có hai loại lập luận: lập luận để chứng minh một chân lý và lập luận để thuyết phục.
Loại lập luận thứ nhất thuộc lôgích hình thức. Đó là toán chứng minh trong hình học, đại số, vật lý, hoá học… dạy trong trường học. Lý lẽ trong loại này là những định lý, định luật, quy tắc… đã biết.
Trong đời thường còn có loại lập luận để thuyết phục, tạo niềm tin, nói sao cốt để người nghe thấy “lọt lỗ tai” rồi tin theo điều mình nói hoặc từ bỏ những xác tín cũ. Lý lẽ chủ yếu ở loại lập luận này là những lôgích đời thường: “ở hiền gặp lành” là lý lẽ về quan hệ nhân quả, “trời kêu ai người ấy dạ” là lý lẽ về số mạng, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” là lý lẽ về dòng dõi. Đó là những lẽ thường hay lý lẽ “hiển nhiên là thế”. Loại lập luận này thuộc lôgích phi hình thức. Ở đây lý lẽ có tầm quan trọng hàng đầu. Chất vấn, trả lời, tranh luận trước Quốc hội, tranh luận của luật sư tại phiên toà là những lập luận để thuyết phục.
Lý lẽ trong lập luận
Những kết luận không chứng minh, không có lý lẽ là loại lập luận quyền uy chẳng thuyết phục được ai. Tiếc thay, loại này thường thấy trong diễn đàn Quốc hội.
“Chân lý thuộc về số đông” là loại lý lẽ về số lượng. Nó loại trừ lý lẽ “ta làm theo cách của ta”. Dùng lý lẽ này, GS Hoàng Tuỵ viết: “Yếu kém nhất của nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là đi lạc con đường chung của thế giới đang đi. Lạc hậu còn có thể khắc phục được nhưng lạc đường thì mãi mãi khó đuổi kịp các nước” (Sài Gòn Tiếp Thị, 14.10.2011).
Ý thức được tầm quan trọng của lý lẽ “chân lý thuộc về số đông”, nhiều đại biểu Quốc hội đánh tráo thành nhân danh số đông. Ông Hoàng Hữu Phước nói mà không đưa ra được chứng cứ thống kê “đa số công dân sẽ không ủng hộ luật biểu tình” thì chỉ là nhân danh số đông – nhân danh nhân dân. Mấy ai tin cái “đa số công dân” của ông Hoàng Hữu Phước.
Thú vị là lý lẽ dựa vào uy thế cũng hay được dùng trong Quốc hội để tăng thêm trọng lượng cho lập luận. Khi bàn cần có luật biểu tình, cả hai đại biểu Dương Trung Quốc và Trương Trọng Nghĩa đều viện tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nguỵ biện và sai lầm trong lập luận
Luật đặt ra để điều chỉnh các hành vi xã hội. Xảy ra một vài cuộc biểu tình hỗn loạn, tại sao không nghĩ rằng hãy xây dựng luật biểu tình để hạn chế biểu tình hỗn loạn mà lại nghĩ cần cấm biểu tình?
Đánh tráo khái niệm là một cách nguỵ biện hay thấy trong lập luận nghị trường. Từ demonstration (biểu tình) xuất hiện trong tiếng Anh từ thế kỷ 14, là hình thức đấu tranh của một tập hợp người, công khai đòi quyền lợi, chống bất công, phản đối một điều gì đó đối với giới chủ hay nhà cầm quyền được đại biểu Phước đánh tráo thành biểu tình với động cơ chính trị “chống chính phủ”, thậm chí có đại biểu khác còn đẩy lên thành “chống chế độ”. Đây là kiểu lập luận chụp mũ hù doạ. Người nói quên mất bên cạnh những cuộc biểu tình “chống” còn có những cuộc biểu tình ủng hộ – chống lại cuộc biểu tình “chống”. Câu chuyện phe “áo đỏ”, “áo vàng” bên Thái còn chưa xa.
Nếu xuất phát từ những tiền đề vu vơ, những lý lẽ tào lao thì lập luận chẳng thuyết phục nổi ai. Xem xét quyền biểu tình theo trình độ dân trí và nền kinh tế là một lối tư duy hết sức tuỳ tiện, gợi nhớ đến lập luận của một đại biểu Quốc hội khoá trước: “Các nước có chỉ số IQ cao thì người ta làm đường cao tốc”.
Về phương diện lập luận, chân lý không phải luôn luôn thuộc về số đông. Chỉ mình ông Dương Trung Quốc phát biểu ủng hộ cần luật biểu tình, nhưng hầu như không ai có tranh luận bác bỏ. Vậy, ông Dương Trung Quốc đúng.
Theo: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Điều kiện thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân

Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) có hiệu lực từ ngày 01/7/2009 và theo dự kiến ngày 01/01/2014 tiến tới bắt buộc toàn dân tham gia BHYT[1]. Tuy nhiên, việc thực hiện BHYT toàn dân cần có những điều kiện thiết yếu và nếu không đảm bảo những điều kiện được xem là sống còn ấy, mục tiêu BHYT toàn dân sẽ không thực hiện được.
1. Tình hình thực hiện bảo hiểm y tế
Nước ta hiện có dân số khoảng hơn 91 triệu người[2], thu nhập bình quân GDP trên đầu người chưa cao (khoảng 1.200 USD), trong khi cách biệt về thu nhập và mức sống giữa các nhóm dân cư là rất lớn. Chính vì vậy, khả năng tham gia BHYT của người dân cũng rất khác nhau. Chương trình BHYT hiện nay đã được triển khai trên hầu hết các nhóm đối tượng như công chức, viên chức, người lao động và người nghỉ hưu; trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh và sinh viên; người nghèo, người cận nghèo; người làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... Các đối tượng tham gia BHYT được hưởng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ và sinh con; khám bệnh để sàng lọc và chẩn đoán sớm một số bệnh; mức hỗ trợ được thanh toán với tỷ lệ 100%, 95%, 80% chi phí khám chữa bệnh.
BHYT chưa bao phủ được toàn bộ dân cư
Đến tháng 6/2011, đã có 53,5 triệu người tham gia BHYT, chiếm hơn 60% dân số[3]. Tuy nhiên, tỷ lệ trên cũng cho thấy còn khoảng 40% dân số nằm ngoài hệ thống. Trong số đối tượng chưa tham gia BHYT có cả đối tượng tham gia bắt buộc và đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng (ví dụ: người lao động trong các doanh nghiệp thuộc nhóm tham gia quan hệ lao động ổn định, tỷ lệ tham gia BHYT mới đạt 53,4%; số người cận nghèo tham gia BHYT cũng mới đạt khoảng 13,1%). Đối với nhóm đối tượng hiện chưa thuộc phạm vi tham gia BHYT bắt buộc, tỷ lệ tham gia còn thấp hơn nữa, chỉ đạt trên 18%[4].
Thiếu nguồn tài chính
Với cách thức hình thành quỹ chủ yếu thông qua cơ chế đóng góp đơn lẻ, trong khi Nhà nước chưa thể đảm bảo sự tham gia của tất cả mọi người, nguồn tài chính sẽ không thể dồi dào. Ngoài ra, những bất cập trong hướng dẫn, quản lý và phân bổ tài chính, tự chủ tài chính cũng như tình trạng lạm dụng, trục lợi thiết bị còn nhiều, gây mất an toàn về tài chính BHYT. Theo Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, vấn đề bội chi quỹ là khá nghiêm trọng, chẳng hạn hơn 70 tỷ đồng vào quý I/2010 với chỉ 14 tỉnh thành, và cho đến hết quý II/2011 tình trạng bội chi đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi số các tỉnh thành bội chi tăng lên rất nhiều[5].    
Chất lượng khám, chữa bệnh còn thấp
Việc có ít người tham gia BHYT thể hiện thực trạng người dân chưa mặn mà với BHYT, một phần do điều kiện kinh tế khó khăn của cá nhân họ, một phần do chất lượng của BHYT chưa tốt, chưa hấp dẫn, tiêu cực còn nhiều, người bệnh vẫn phải chi tiền túi đáng kể để điều trị khi có bệnh tật. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và cán bộ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng quá tải còn phổ biến, thủ tục hành chính, phân tuyến kỹ thuật cũng chưa phù hợp...[6] Khi chất lượng khám, chữa bệnh bằng BHYT còn thấp, xu hướng chung là nếu có điều kiện lựa chọn thì người bệnh sẽ tìm đến những dịch vụ khám, chữa bệnh tư thay vì vào bệnh viện công[7].
2. Điều kiện thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam
Điều kiện tài chính
BHYT toàn dân có nghĩa là một khối lượng dịch vụ rất lớn sẽ được cung cấp, như vậy cần cơ chế tạo quỹ và cách thức chi tiêu hiệu quả. Sẽ không thể có được BHYT toàn dân nếu người sử dụng dịch vụ bị khó khăn về tài chính hoặc bị cản trở sử dụng dịch vụ do họ phải trả tiền tại chỗ. Cơ chế thanh toán tại chỗ có nguy cơ làm cho người bệnh trì hoãn việc khám chữa bệnh. Việc này có thể làm cho tình trạng bệnh tật trở nên trầm trọng hơn, can thiệp y tế sau đó phức tạp hơn và rốt cục lại trở nên tốn kém hơn. Thanh toán tại chỗ không chỉ làm cho tình trạng kinh tế gia đình của người bệnh kiệt quệ mà còn tạo ra điều kiện để tiêu cực trong ngành này phát triển, ví dụ việc đưa hối lộ cho các nhân viên y tế để nhận được dịch vụ như yêu cầu.
Theo gợi ý của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), để có được BHYT toàn dân, phải tạo được một quỹ bao trùm, được thiết lập bằng sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội. Nguồn quỹ, nếu không thể thu bằng cách khấu trừ vào thu nhập của tất cả các thành viên xã hội, sẽ không có con đường nào hiệu quả hơn con đường thu thuế. Về độ lớn của quỹ, phải cân đối với tổng số dân, đảm bảo đủ cung cấp cho dân cư, với một khối lượng dịch vụ cung cấp và chất lượng nhất định. Nguồn tài chính cần được tăng cường ổn định và sử dụng hợp lý, tiết kiệm.
Tạo nguồn tài chính y tế bao trùm lên mọi đối tượng người dân
Hiện nay, Việt Nam đã có quy định để mọi người dân đều có cơ hội tham gia BHYT. Nhưng điều cần đạt đến của một nền y tế toàn dân là mọi người đều có cơ hội hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, do vậy, nếu chỉ tạo ra điều kiện để mọi người có cơ hội tham gia, thì sẽ có nhiều người không tích cực, chủ động tham gia, thậm chí trốn tránh đóng phí và do đó, không có cơ hội hưởng BHYT. Với mức phí khá tương đồng bất kể sự khác biệt rất lớn về mức sống giữa người giàu và người nghèo, thì hệ thống y tế không thể đem đến cơ hội chăm sóc sức khỏe chotất cả mọi người và mục tiêu toàn dân được hưởng BHYT sẽ rất khó thực hiện.
Về phương diện này, các quốc gia trên thế giới đã có nhiều bài học kinh nghiệm. Nhiều bằng chứng cho thấy, việc huy động quỹ thông qua yêu cầu trả trước là cơ sở hiệu quả nhất và công bằng để mở rộng số người được hưởng BHYT[8]. Muốn làm được như vậy, nguồn thu từ thuế phải được coi trọng hàng đầu. Cách làm này có ưu điểm là sẽ tạo cơ hội đóng góp quỹ linh hoạt nhất, được thực hiện theo khả năng của đối tượng, tạo ra cơ hội để thực hiện sự tương trợ giữa nhóm dân cư, giảm thiểu phản ứng tiêu cực bởi thuế là một biện pháp thu quỹ khá êm đềm, vừa công bằng, vừa chọn lọc.
Một số quốc gia đã thực hiện thu phí BHYT bắt buộc đối với mọi người dân khá thành công,ví dụ như Pháp. Ở Việt Nam, việc tham gia BHYT là bắt buộc, trừ một số đối tượng chỉ được tham gia BHYT theo hình thức tự nguyện cho đến hết năm 2013, sau đó sẽ phải tham gia BHYT bắt buộc[9]. Tuy nhiên, khả năng thành công của nước ta lại không chắc chắn vì trong khi ở Pháp hay một số quốc gia phát triển thực hiện BHYT bắt buộc, thu nhập của người dân được Nhà nước quản lý khá tốt và việc thu phí bảo hiểm được khấu trừ tự động thì ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát thu nhập của người dân chưa thực hiện được. Do đó, việc tham gia BHYT của người dân vẫn phụ thuộc vào sự tự giác của chính họ chứ không còn là mong muốn chủ quan của Nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh vi phạm pháp luật còn nhiều, lại chưa có cơ chế xử phạt vi phạm đối với những người không tham gia BHYT. Từ thực tế này cho thấy, nếu không thay đổi cơ chế thu nộp BHYT, thì việc thực hiện BHYT toàn dân là không khả thi. 
Tạo thêm nguồn thu cho quỹ BHYT
Thiết lập một quỹ thích hợp là chính sách đầu tiên nhưng quỹ đó cần được dồi dào để đủ chi tiêu. Việt Nam là một trong những quốc gia có thu nhập thấp trên thế giới, nếu không phát triển quỹ BHYT triệt để thì tài chính sẽ trở thành một vấn đề nghiêm trọng và không thể có dịch vụ y tế tốt. Nhưng thực tế cũng cho thấy, nước ta có nhiều cơ hội để phát triển quỹ, do người tiêu dùng là đối tượng dễ tính và nhu cầu tiêu dùng lớn. Ví dụ, tất cả các mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng có thể áp dụng mức thuế cao, chẳng hạn bia, rượu, thuốc lá...
Bên cạnh nguồn thu trên, để giải quyết các khó khăn ngắn hạn, Nhà nước có thể sử dụng đến các nguồn tài trợ, quỹ ODA… Theo báo cáo của Việt Nam, năm 2009 có hơn 400 nhà tài trợ xem xét các dự án y tế, ngành y tế…[10] Các nguồn khác cũng có thể cộng thêm vào hệ thống bảo hiểm (ví dụ, bảo hiểm tự nguyện dành cho những dịch vụ theo yêu cầu). Ngoài ra,Nhà nước rất cần có chiến lược sử dụng các nguồn lực hiệu quả, cũng như tận dụng các nguồn tại chỗ.
Sử dụng hiệu quả quỹ BHYT và loại bỏ lãng phí
Việc huy động tiền đầy đủ cho sức khỏe là điều bắt buộc, nhưng có nguồn tiền cũng chưa phải là điều kiện đủ để đảm bảo BHYT toàn dân cũng như không đủ để đảm bảo dịch vụ y tế được cung cấp ở mức tốt nhất. WHO cho rằng, điều kiện đủ phải là đảm bảo các nguồn lực được sử dụng hiệu quả[11]Cơ hội cho người dân đạt được nhiều hay ít rất khác nhau với các nguồn tài chính dồi dào tương tự nhau tồn tại ở tất cả các quốc gia. WHO ước tính có khoảng 20-40% nguồn lực chi tiêu về y tế đang bị lãng phí, nếu những nguồn lực đó được tận dụng có thể hướng tới BHYT toàn dân[12]. Để tránh lãng phí, cần xử lý một số vấn đề lớn:
- Liên quan đến thuốc, cần minh bạch hóa tất cả các khâu trong quá trình sản xuất thuốc và tiêu thụ, công khai giá thuốc, thống nhất giá bán trên toàn quốc. Giáo dục về chăm sóc sức khỏe, cung cấp đủ thông tin, tránh việc lạm dụng thuốc cũng như sử dụng thuốc sai liệu trình.Trong số các thuốc có khả năng thay thế, lựa chọn loại thuốc có giá thành hợp lý, dễ sản xuất nhất, ưu tiên sử dụng các sản phẩm thuốc trong nước. Thuốc kê theo đơn của BHYT phải đảm bảo giá trị chữa bệnh, nghiêm cấm việc kê đơn thuốc chữa bệnh bằng các nguồn thuốc bên ngoài, trừ các loại thuốc không cần kê đơn theo quy định thì cán bộ y tế có thể đưa ra lời khuyên cho bệnh nhân. Xử lý những sai phạm như kê đơn không đúng, kê đơn quá mức. WHO cho biết, chỉ riêng việc giảm tất cả những chi phí không cần thiết về thuốc và sử dụng chúng một cách thích hợp, có thể tiết kiệm 5% chi tiêu y tế[13].
- Việc khám chữa bệnh phải tuân theo quy trình nghiêm ngặt từ cấp địa phương trở lên. Quy định rõ chức năng và nhiệm vụ khám chữa bệnh của từng tuyến để nâng cao kinh nghiệm làm việc cũng như trách nhiệm của mỗi đơn vị khám chữa bệnh, tuyến cơ sở chỉ chịu trách nhiệm về chăm sóc sức khỏe ban đầu và một số bệnh đơn giản. Các tuyến trên ở bậc càng cao sẽ đáp ứng nhu cầu chữa bệnh với chuyên môn sâu. Ngoại trừ việc cấp cứu, không được sử dụng các bệnh viện tuyến trên vào việc cung cấp những dịch vụ thuộc nhiệm vụ của tuyến dưới. Người dân nên được rèn luyện một thói quen sử dụng dịch vụ y tế một cách trật tự và đội ngũ cán bộ y tế phải được tạo điều kiện làm công tác chuyên sâu.
- Cải thiện cơ chế quản lý bệnh nhân. Khi đã thực hiện BHYT toàn dân, việc sử dụng chứng minh thư cũng có thể thay thế thẻ BHYT. Sử dụng thẻ bảo hiểm sẽ tạo nên sự phân biệt đối xử giữa những người có thẻ và những người không có thẻ, gạt nhiều người ra khỏi phạm vi phục vụ của BHYT. Người bệnh vẫn nên phải chi trả một phần nhỏ chi phí khám chữa bệnh để hạn chế lạm dụng việc khám chữa bệnh, tạo áp lực không cần thiết lên hệ thống chăm sóc sức khỏe.
- Cải cách phương thức chi trả cho cán bộ y tế, đồng thời nâng cao trách nhiệm của họ. Phương pháp nâng cao chất lượng của dịch vụ y tế và cải thiện tiền lương cho cán bộ y tế phải gắn liền với cơ chế chi trả theo ca bệnh. Thanh toán trên cơ sở ca bệnh, có nghĩa một số tiền cố định sẽ được cấp cho mỗi ca bệnh, bất kể cường độ hoặc thời gian điều trị tại bệnh viện như thế nào. Mỗi nhóm bệnh sẽ được chi với mức khác nhau. Tuy nhiên, để hạn chế việc giảm sút chất lượng phục vụ, cơ chế chi trả này cũng phải gắn với quyền tự do lựa chọn của bệnh nhân đối với nơi điều trị bệnh ở cùng một cấp, như vậy sẽ có sự cạnh tranh giữa các cơ sở y tế cũng như giữa các nhân viên y tế, bởi lẽ, bệnh viện phục vụ tốt mới có uy tín và thu hút nhiều bệnh nhân sử dụng dịch vụ. Theo đó, chất lượng đội ngũ được nâng cao và biên chế sẽ được tinh giản, đồng thời những cán bộ thiếu năng lực, thiếu ý thức phấn đấu sẽ tự động bị đẩy ra khỏi hệ thống.
- Loại bỏ lãng phí và tham nhũng là một yêu cầu quan trọng. Lãng phí có thể xảy ra ở khắp nơi trong các lĩnh vực của chăm sóc sức khỏe, ví dụ như người bệnh sử dụng thuốc không đúng, sử dụng thuốc đắt tiền hơn trong khi giá trị điều trị bệnh tật không cao hơn, điều trị muộn, không kịp thờisử dụng nhân viên không hợp lý, tuyển dụng cố định làm cho các nhân viên này có tâm lý ỷ lại, dựa dẫm, không phấn đấukhi không có đủ các giải pháp chăm sóc thay thế, không khuyến khích điều trị tại nhà; do sai sót trong điều trị, dẫn đến bệnh tật không được giải quyết sau nhiều cố gắng, thậm chí làm phát sinh những bệnh mớido đầu tư quá nhiều vào những can thiệp y tế đắt đỏ hoặc đầu tư thiếu cân bằng giữa các công tác phòng bệnh và điều trị, hoặc đầu tư không hợp lý ở các cấp khám chữa bệnh.
Để khắc phục sự lãng phí này, cần đánh giá lại hiệu quả của các giải pháp khám chữa bệnh, độ lớn của cơ sở y tế, tận dụng các nguồn lực tại chỗ, giám sát các hoạt động mua sắm để đảm bảo chất lượng và tính hiệu quả của thiết bị y tế. Những cơ sở vật chất sẵn có, những sản phẩm chung nên được tận dụng nhiều nhất có thể được, sắp xếp hợp lý các quy trình và thủ tục hành chính trong lĩnh vực y tế, thanh, kiểm tra, xử phạt nghiêm vi phạm trong lĩnh vực khám chữa bệnh và xem xét lại ưu tiên đầu tư thỏa đáng cho các dịch vụ phòng ngừa, cho cấp chăm sóc sức khỏe ban đầu ở cơ sở…
Hệ thống pháp luật
Ở phần trên chúng tôi đã phân tích những vấn đề tài chính, là điều kiện tiên quyết để thực hiện BHYT toàn dân. Nhưng để thiết lập một nền tài chính như vậy, không thể không dựa vào pháp luật. Pháp luật tạo ra cơ chế thu chi thích hợp, quy định các biện pháp phát triển quỹ, biện pháp chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí...
Thực tế, có nhiều quốc gia có điều kiện kinh tế phát triển ở mức thấp hơn vẫn có thể thực hiện một nền y tế hiệu quả. Chính vì thế, Nhà nước nên tích cực nghiên cứu và chuyển đổi hệ thống y tế ngay từ bây giờ, theo đó phải tạo ra một cơ chế trả trước, dựa trên những nguồn thu có tính phổ quát trong xã hội, đưa tất cả mọi người vào một hệ thống đóng góp tự động. Cùng với đó là các quy định về quy trình và thủ tục mà người bệnh cần tuân thủ để hưởng dịch vụ khám, chữa bệnh.
Cũng cần quy định mới về thuế để tạo thêm nguồn thu cho BHYT. Trong bối cảnh nhiều nguồn thu chưa thật khả thi do điều kiện kinh tế khó khăn hoặc Nhà nước chưa có điều kiện để thực hiện một cách hiệu quả (ví dụ thuế thu nhập) do quản lý còn yếu, còn tồn tại nhiều tiêu cực… thì Nhà nước vẫn có thể quy định mức thuế suất cao hơn đối với nhiều mặt hàng xa xỉ, hoặc những mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng như đã nêu ở trên.
Cần có quy định để phân cấp hệ thống chăm sóc sức khỏe khoa học, theo đó xác định rõ trách nhiệm thực hiện hoạt động chữa bệnh ở mỗi cấp, đồng thời cho phép các bệnh nhân được quyền lựa chọn bệnh viện, nhưng không tạo cơ hội để họ chọn bệnh viện vượt cấp. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước và tư nhân, quy định quan hệ hợp tác giữa các cơ sở y tế trong quá trình điều trị cho bệnh nhân.
Có đủ quy định để quản lý chặt chẽ hơn về quy trình khám chữa bệnh, hướng đến bãi bỏ thẻ bảo hiểm. Các quy định cần hướng vào việc làm minh bạch hóa hệ thống cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh. Quy định các biện pháp quản lý việc sản xuất và tiêu thụ thuốc, tổ chức tốt hệ thống thông tin y tế, niêm yết giá thuốc cấp quốc gia. Quy định trách nhiệm của một số cơ quan trong việc cung cấp thông tin, hướng dẫn liên quan đến thuốc và chăm sóc sức khỏe. Quy định mức chi từ quỹ BHYT trên cơ sở ca bệnh, tránh cơ chế thanh toán dựa trên đơn thuốc. Điều này sẽ tránh được tình trạng kê đơn nhiều hơn mức cần thiết và khuyến khích kê đơn hiệu quả.
Cuối cùng và không thể thiếu, đó là cần có các chế tài xử lý nghiêm khắc đối với các vi phạm trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Vấn đề nhận thức
Trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước đang dần chuyển việc tham gia BHYT là một lựa chọn thành nghĩa vụ bắt buộc, việc người dân ý thức được tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm rất quan trọng. Tuy nhiên, sẽ có những người không tự giác tham gia BHYT hoặc vi phạm pháp luật về BHYT, do vậy, Nhà nước cần chuyển đổi thành cơ chế tự động, như trên chúng tôi đã nêu, tức là lập quỹ có tính bao trùm lên mọi đối tượng dân chúng và tất cả người dân được hưởng dịch vụ khi đau ốm. Trong thời điểm ban đầu khi nguồn quỹ còn ít ỏi thì thực hiện dịch vụ ở mức độ vừa phải, sau đó sẽ mở rộng phạm vi cũng như chất lượng của dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Bên cạnh đó, cần thiết phải nâng cao nhận thức của người dân về sức khỏe và thuốc, nhận thức và thái độ của cán bộ y tế về tầm quan trọng của nghề, đạo đức nghề nghiệp, bổn phận và trách nhiệm của họ trong sản xuất và tiêu thụ thuốc, trong công tác điều trị, ý thức và tinh thần trách nhiệm của các cán bộ trong các cơ quan chuyên môn và quản lý trong lĩnh vực sức khỏe…
Hệ thống cơ sở khám chữa bệnh
Tình trạng quá tải hiện nay ở hệ thống bệnh viện khá nghiêm trọng. Việc giải quyết tình trạng này đòi hỏi nhiều thời gian và nguồn lực. Một trong những biện pháp có thể áp dụng là tăng cường các cơ sở khám chữa bệnh mới, đặc biệt là khu vực tư nhân. Với chiến lược chi trả theo hội chẩn và ca bệnh, sẽ khuyến khích đầu tư để bệnh viện hoạt động tích cực hơn, từ đó thu hút nhiều bệnh nhân đến điều trị. Bên cạnh hệ thống bảo vệ sức khỏe chính thống nêu trên, cần sử dụng triệt để các nguồn lực tại chỗ (điều trị tại nhà) để giảm tải đối với hệ thống cơ sở y tế.
Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng thành công BHYT toàn dân với điều kiện hiện có nếu thực sự  thiện chí chuyển đổi và tích cực học hỏi một số quốc gia với điều kiện kinh tế chưaphát triển nhưng đã xây dựng được nền bảo hiểm y tế tốt như Chile[14], Colombia[15], Cuba[16], Rwanda[17], SriLanka[18], đồng thời nên nghiên cứu và áp dụng các kinh nghiệm, sáng kiến mà WHO và Tổ chức Liên minh Minh bạch thuốc khuyến nghị.
Tóm lại, để bảo đảm cho một nền BHYT toàn dân, Nhà nước cần phát triển cơ chế thanh toán trả trước, tăng thêm nguồn thu, đảm bảo hiệu quả của việc sử dụng quỹ. Đầu tư khôn ngoan, chi tiêu thông minh, hạn chế tiêu cực và thất thoát ở mọi hình thức, mọi khâu của hoạt động chăm sóc sức khỏe có thể giúp nước ta tiếp cận với BHYT toàn dân mà không cần tăng chi tiêu quá lớn. Điều này đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe./.



[1] Nguyễn Võ Hinh, 2012, Vấn đề BHYT tại Việt Nam, http://www.impe-qn.org.vn/impe-qn/vn/portal/InfoPreview.jsp?ID=6161.
[2] Theo số liệu thống kê được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phát hành năm 2011.
[3] Báo cáo tổng kết hai năm thực hiện Luật BHYT – Bộ Y tế và BHXH Việt Nam ngày 17/10/2011.
[4] Bộ Y tế và BHXH Việt Nam, 2011, tlđd.
[5] An Như, 2010, Nguy cơ vỡ Quỹ BHYT đã nhãn tiền, Báo Pháp luật điện tử.
[6] Hoàng Ngọc, 2012, Cần sớm sửa đổi Luật BHYT theo hướng mở rộng bền vững, bao phủ hiệu quả,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=677
[7] Hoàng Ngọc, 2012, tlđd.
[8] Thông điệp từ Tổng Thư ký WHO, Tiến sỹ Margaret Chan, The World Health Report 2010, trang vii.
[9] Xem Điều 15, Điều 16 của Quyết định số 1111//QĐ-BHXH năm 2011 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam về quản lý thu BHXH, y tế; sổ BHXH, thẻ BHYT.
[10]Global Health: a Millennium Development Goal and a right for all. Address by Andris Piebalgs, EU Commissioner for Development, at the Delivering the Right to Health with the Health MDGs conference, Brussels, 2 March 2010.
[11] WHO, 2010, Health System Financing, The path to universal coverage, The World Health Report 2010, trang xvi.
[12]WHO, 2010,  tlđd, trang xi.
[13] WHO, 2010, tlđd, trang xvii.
[14] Missoni E, Solimano G. Towards universal health coverage: the Chilean experience. World health report 2010 background paper, no. 4.
[15] Baeza C, Packard T. Beyond survival: protecting households from health shocks in Latin America. Washington, DC, The World Bank, 2006.
[16] Whiteford LM, Branch LG. Primary health care in Cuba: the other revolution. Lanham, Rowman and Littlefield Publishers, 2008.
[17] Musango L, Doetinchem O, Carrin G. De la mutualisation du risque maladie à l’assurance maladie universelle: expérience du Rwanda. World Health Organization, 2009.
[18] Rannan-Eliya R, Sikurajapathy L. Sri Lanka: “Good practice” in expanding health care coverage. Colombo, Institute for Health Policy, 2008 (Research Studies Series No. 3)

Nguồn: TCNGLP