Hiển thị các bài đăng có nhãn đầu tư. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đầu tư. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Bàn về lập luận

Một nguyên lý sư phạm cho nền giáo dục tiên tiến: cấp cần câu chứ không cho cá. Cái cần câu cấp cho người học là phương pháp độc lập tư duy, đánh giá, phát hiện và giải quyết vấn đề. Trước hết, đó là phương pháp tư duy phản biện mà cốt lõi là lý thuyết lập luận. Khi có thói quen tư duy phản biện, hiện tượng được nhìn nhận, đào sâu tới gốc rễ của nó. Hơn ai hết, giới nghị sĩ phải rèn luyện về lập luận.
Lập luận là gì?
Xuất phát từ tiền đề (những sự kiện, chân lý được mọi người thừa nhận), dựa trên những lý lẽ chúng ta đi tới những kết luận – đó là lập luận. Có hai loại lập luận: lập luận để chứng minh một chân lý và lập luận để thuyết phục.
Loại lập luận thứ nhất thuộc lôgích hình thức. Đó là toán chứng minh trong hình học, đại số, vật lý, hoá học… dạy trong trường học. Lý lẽ trong loại này là những định lý, định luật, quy tắc… đã biết.
Trong đời thường còn có loại lập luận để thuyết phục, tạo niềm tin, nói sao cốt để người nghe thấy “lọt lỗ tai” rồi tin theo điều mình nói hoặc từ bỏ những xác tín cũ. Lý lẽ chủ yếu ở loại lập luận này là những lôgích đời thường: “ở hiền gặp lành” là lý lẽ về quan hệ nhân quả, “trời kêu ai người ấy dạ” là lý lẽ về số mạng, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” là lý lẽ về dòng dõi. Đó là những lẽ thường hay lý lẽ “hiển nhiên là thế”. Loại lập luận này thuộc lôgích phi hình thức. Ở đây lý lẽ có tầm quan trọng hàng đầu. Chất vấn, trả lời, tranh luận trước Quốc hội, tranh luận của luật sư tại phiên toà là những lập luận để thuyết phục.
Lý lẽ trong lập luận
Những kết luận không chứng minh, không có lý lẽ là loại lập luận quyền uy chẳng thuyết phục được ai. Tiếc thay, loại này thường thấy trong diễn đàn Quốc hội.
“Chân lý thuộc về số đông” là loại lý lẽ về số lượng. Nó loại trừ lý lẽ “ta làm theo cách của ta”. Dùng lý lẽ này, GS Hoàng Tuỵ viết: “Yếu kém nhất của nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là đi lạc con đường chung của thế giới đang đi. Lạc hậu còn có thể khắc phục được nhưng lạc đường thì mãi mãi khó đuổi kịp các nước” (Sài Gòn Tiếp Thị, 14.10.2011).
Ý thức được tầm quan trọng của lý lẽ “chân lý thuộc về số đông”, nhiều đại biểu Quốc hội đánh tráo thành nhân danh số đông. Ông Hoàng Hữu Phước nói mà không đưa ra được chứng cứ thống kê “đa số công dân sẽ không ủng hộ luật biểu tình” thì chỉ là nhân danh số đông – nhân danh nhân dân. Mấy ai tin cái “đa số công dân” của ông Hoàng Hữu Phước.
Thú vị là lý lẽ dựa vào uy thế cũng hay được dùng trong Quốc hội để tăng thêm trọng lượng cho lập luận. Khi bàn cần có luật biểu tình, cả hai đại biểu Dương Trung Quốc và Trương Trọng Nghĩa đều viện tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nguỵ biện và sai lầm trong lập luận
Luật đặt ra để điều chỉnh các hành vi xã hội. Xảy ra một vài cuộc biểu tình hỗn loạn, tại sao không nghĩ rằng hãy xây dựng luật biểu tình để hạn chế biểu tình hỗn loạn mà lại nghĩ cần cấm biểu tình?
Đánh tráo khái niệm là một cách nguỵ biện hay thấy trong lập luận nghị trường. Từ demonstration (biểu tình) xuất hiện trong tiếng Anh từ thế kỷ 14, là hình thức đấu tranh của một tập hợp người, công khai đòi quyền lợi, chống bất công, phản đối một điều gì đó đối với giới chủ hay nhà cầm quyền được đại biểu Phước đánh tráo thành biểu tình với động cơ chính trị “chống chính phủ”, thậm chí có đại biểu khác còn đẩy lên thành “chống chế độ”. Đây là kiểu lập luận chụp mũ hù doạ. Người nói quên mất bên cạnh những cuộc biểu tình “chống” còn có những cuộc biểu tình ủng hộ – chống lại cuộc biểu tình “chống”. Câu chuyện phe “áo đỏ”, “áo vàng” bên Thái còn chưa xa.
Nếu xuất phát từ những tiền đề vu vơ, những lý lẽ tào lao thì lập luận chẳng thuyết phục nổi ai. Xem xét quyền biểu tình theo trình độ dân trí và nền kinh tế là một lối tư duy hết sức tuỳ tiện, gợi nhớ đến lập luận của một đại biểu Quốc hội khoá trước: “Các nước có chỉ số IQ cao thì người ta làm đường cao tốc”.
Về phương diện lập luận, chân lý không phải luôn luôn thuộc về số đông. Chỉ mình ông Dương Trung Quốc phát biểu ủng hộ cần luật biểu tình, nhưng hầu như không ai có tranh luận bác bỏ. Vậy, ông Dương Trung Quốc đúng.
Theo: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ

Bàn về lập luận

Một nguyên lý sư phạm cho nền giáo dục tiên tiến: cấp cần câu chứ không cho cá. Cái cần câu cấp cho người học là phương pháp độc lập tư duy, đánh giá, phát hiện và giải quyết vấn đề. Trước hết, đó là phương pháp tư duy phản biện mà cốt lõi là lý thuyết lập luận. Khi có thói quen tư duy phản biện, hiện tượng được nhìn nhận, đào sâu tới gốc rễ của nó. Hơn ai hết, giới nghị sĩ phải rèn luyện về lập luận.
Lập luận là gì?
Xuất phát từ tiền đề (những sự kiện, chân lý được mọi người thừa nhận), dựa trên những lý lẽ chúng ta đi tới những kết luận – đó là lập luận. Có hai loại lập luận: lập luận để chứng minh một chân lý và lập luận để thuyết phục.
Loại lập luận thứ nhất thuộc lôgích hình thức. Đó là toán chứng minh trong hình học, đại số, vật lý, hoá học… dạy trong trường học. Lý lẽ trong loại này là những định lý, định luật, quy tắc… đã biết.
Trong đời thường còn có loại lập luận để thuyết phục, tạo niềm tin, nói sao cốt để người nghe thấy “lọt lỗ tai” rồi tin theo điều mình nói hoặc từ bỏ những xác tín cũ. Lý lẽ chủ yếu ở loại lập luận này là những lôgích đời thường: “ở hiền gặp lành” là lý lẽ về quan hệ nhân quả, “trời kêu ai người ấy dạ” là lý lẽ về số mạng, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” là lý lẽ về dòng dõi. Đó là những lẽ thường hay lý lẽ “hiển nhiên là thế”. Loại lập luận này thuộc lôgích phi hình thức. Ở đây lý lẽ có tầm quan trọng hàng đầu. Chất vấn, trả lời, tranh luận trước Quốc hội, tranh luận của luật sư tại phiên toà là những lập luận để thuyết phục.
Lý lẽ trong lập luận
Những kết luận không chứng minh, không có lý lẽ là loại lập luận quyền uy chẳng thuyết phục được ai. Tiếc thay, loại này thường thấy trong diễn đàn Quốc hội.
“Chân lý thuộc về số đông” là loại lý lẽ về số lượng. Nó loại trừ lý lẽ “ta làm theo cách của ta”. Dùng lý lẽ này, GS Hoàng Tuỵ viết: “Yếu kém nhất của nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là đi lạc con đường chung của thế giới đang đi. Lạc hậu còn có thể khắc phục được nhưng lạc đường thì mãi mãi khó đuổi kịp các nước” (Sài Gòn Tiếp Thị, 14.10.2011).
Ý thức được tầm quan trọng của lý lẽ “chân lý thuộc về số đông”, nhiều đại biểu Quốc hội đánh tráo thành nhân danh số đông. Ông Hoàng Hữu Phước nói mà không đưa ra được chứng cứ thống kê “đa số công dân sẽ không ủng hộ luật biểu tình” thì chỉ là nhân danh số đông – nhân danh nhân dân. Mấy ai tin cái “đa số công dân” của ông Hoàng Hữu Phước.
Thú vị là lý lẽ dựa vào uy thế cũng hay được dùng trong Quốc hội để tăng thêm trọng lượng cho lập luận. Khi bàn cần có luật biểu tình, cả hai đại biểu Dương Trung Quốc và Trương Trọng Nghĩa đều viện tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nguỵ biện và sai lầm trong lập luận
Luật đặt ra để điều chỉnh các hành vi xã hội. Xảy ra một vài cuộc biểu tình hỗn loạn, tại sao không nghĩ rằng hãy xây dựng luật biểu tình để hạn chế biểu tình hỗn loạn mà lại nghĩ cần cấm biểu tình?
Đánh tráo khái niệm là một cách nguỵ biện hay thấy trong lập luận nghị trường. Từ demonstration (biểu tình) xuất hiện trong tiếng Anh từ thế kỷ 14, là hình thức đấu tranh của một tập hợp người, công khai đòi quyền lợi, chống bất công, phản đối một điều gì đó đối với giới chủ hay nhà cầm quyền được đại biểu Phước đánh tráo thành biểu tình với động cơ chính trị “chống chính phủ”, thậm chí có đại biểu khác còn đẩy lên thành “chống chế độ”. Đây là kiểu lập luận chụp mũ hù doạ. Người nói quên mất bên cạnh những cuộc biểu tình “chống” còn có những cuộc biểu tình ủng hộ – chống lại cuộc biểu tình “chống”. Câu chuyện phe “áo đỏ”, “áo vàng” bên Thái còn chưa xa.
Nếu xuất phát từ những tiền đề vu vơ, những lý lẽ tào lao thì lập luận chẳng thuyết phục nổi ai. Xem xét quyền biểu tình theo trình độ dân trí và nền kinh tế là một lối tư duy hết sức tuỳ tiện, gợi nhớ đến lập luận của một đại biểu Quốc hội khoá trước: “Các nước có chỉ số IQ cao thì người ta làm đường cao tốc”.
Về phương diện lập luận, chân lý không phải luôn luôn thuộc về số đông. Chỉ mình ông Dương Trung Quốc phát biểu ủng hộ cần luật biểu tình, nhưng hầu như không ai có tranh luận bác bỏ. Vậy, ông Dương Trung Quốc đúng.
Theo: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Rủi ro hiện hữu với hàng vạn hợp đồng thế chấp

Quy định về xử lý tài sản bảo lãnh trong Nghị định 11 cùng với việc TAND tỉnh Quảng Ngãi tuyên vô hiệu một hợp đồng thế chấp mới đây đang dấy lên lo ngại trong giới ngân hàng về rủi ro nợ xấu tăng lên.
Rủi ro của loại hợp đồng thế chấp nhìn từ một bản án
Bản án của TAND tỉnh Quảng Ngãi có nội dung sơ lược như sau: một ngân hàng đã cho khách hàng vay một khoản tiền lớn và nhận tài sản đảm bảo của bên thứ ba. Hợp đồng được lập sau khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực nên các bên căn cứ vào Bộ luật này để lập hợp đồng thế chấp. Tuy nhiên, khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng tiến hành xử lý tài sản thế chấp, ở đây là nhà đất, thì bên thứ ba khởi kiện, yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. TAND tỉnh Quảng Ngãi đã chấp nhận đơn khởi kiện vì Hội đồng xét xử cho rằng, đáng lẽ các đương sự phải ký hợp đồng bảo lãnh thế chấp, chứ không phải hợp đồng thế chấp, dù rằng hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm được các phòng công chứng xác thực và đăng ký thế chấp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Phiên xử phúc thẩm diễn ra sau đó vẫn y án sơ thẩm.
Nhiều ý kiến cho rằng TAND tỉnh Quảng Ngãi chưa hiểu đúng tinh thần của Bộ luật Dân sự 2005. Kể từ khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực, hệ thống ngân hàng đã thay đổi, loại hợp đồng bảo lãnh thế chấp, bảo lãnh cầm cố đã không còn tồn tại, thay vào đó là các hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp. Trong đó, bảo lãnh là cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán của bên thứ ba và không có tài sản đảm bảo; đối với hợp đồng cầm cố thì ngân hàng giữ luôn tài sản; đối với thế chấp, ngân hàng chỉ giữ giấy tờ tài sản.
Việc TAND tỉnh Quảng Ngãi cho rằng đương sự phải ký hợp đồng bảo lãnh thế chấp, vốn đã bị Bộ luật Dân sự 2005 “khai tử” khiến các chuyên gia và ngân hàng lo ngại về rủi ro nợ xấu tăng lên khi các hợp đồng cầm cố, thế chấp khác có thể cũng bị tuyên vô hiệu. Với cách tuyên án này, các khoản vay có tài sản đảm bảo có thể trở thành các khoản vay không có tài sản đảm bảo, trong khi có tới 80% hợp đồng tín dụng của ngân hàng đang được đảm bảo bằng biện pháp thế chấp, cầm cố.

Nghị định “đá” Luật
Theo Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật Chứng khoán - Ngân hàng - Đầu tư (BASICO), trong khi nhiều ngân hàng đang lo lắng bản án của TAND tỉnh Quảng Ngãi tạo tiền lệ xấu thì Nghị định 11/2012/NĐ-CP mới ban hành và sẽ có hiệu lực từ 10/4 tới đây có quy định về xử lý tài sản bảo lãnh như “thêm dầu vào lửa”. Điều 13 của Nghị định 11 quy định về việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh đưa ra trường hợp nếu các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản thì tài sản được xử lý theo quy định tại Nghị định này. Trong trường hợp không có thỏa thuận về cầm cố thế chấp tài sản thì bên bảo lãnh phải giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh. Hiểu theo Nghị định, trong giao dịch bảo lãnh, các bên có thể thỏa thuận cầm cố, thế chấp tài sản để đảm bảo giao dịch bảo lãnh.
Trong khi đó, Điều 361 Bộ luật Dân sự 2005 quy định “bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Như vậy, trong giao dịch bảo lãnh không có việc đưa tài sản vào để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bản thân bảo lãnh đã là 1 trong 7 biện pháp đảm bảo được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005. 
Các chuyên gia ngành luật cho rằng, Nghị định 11 đã hiểu sai tinh thần của Bộ luật Dân sự 2005 và có thể là cái cớ để tòa án vin vào để lý giải cho cách hiểu của họ. Đây là rủi ro tiềm ẩn cho hàng chục vạn hợp đồng thế chấp hiện tại của các ngân hàng.
Theo Luật sư Trần Minh Hải, để thống nhất cách hiểu và áp dụng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên thực hiện chức năng giải thích luật bằng cách có văn bản hướng dẫn rõ ràng Bộ luật Dân sự 2005 để cơ quan tư pháp thực hiện thống nhất. Đồng thời, TAND tối cao cần nghiên cứu các vấn đề pháp lý quy định về thế chấp, bảo lãnh để hiểu đúng nội dung của Bộ luật Dân sự 2005 và những khác biệt với Bộ luật Dân sự 1995, trên cơ sở đó có hướng dẫn xét xử với các tòa án địa phương.      
  Tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp dễ dẫn đến bất ổn trong giao lưu dân sự
Bộ Tư pháp nhận được phản ánh của một số tổ chức tín dụng về việc TAND các cấp tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng.

Bộ Tư pháp nhận thấy việc tuyên vô hiệu nói trên đã dẫn đến hệ quả là các khoản vay có đảm bảo trở thành không có đảm bảo. Do vậy phán quyết của TAND các cấp dễ dẫn đến những bất ổn trong giao lưu dân sự, kinh doanh, thương mại, ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành của thị trường tài chính – tín dụng.

Bộ Tư pháp đề nghị TAND tối cao nghiên cứu, hướng dẫn các TAND địa phương áp dụng thống nhất quy định Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2003 về thế chấp quyền sử dụng đất nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch.
Trích Công văn 1345 của Bộ Tư pháp gửi TAND Tối cao

Tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường về pháp lý và kinh tế
Theo quy trình tín dụng tại các NHTM, trước khi thực hiện cấp vốn vay, ngân hàng ký hợp đồng đảm bảo tiền vay, sau đó đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì hợp đồng được ký giữa 3 bên: ngân hàng, bên thế chấp, bên vay vốn. Hợp đồng thế chấp được xác thực tại các tổ chức hành nghề công chứng và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.

Trong thời gian gần đây, khi xử lý nợ vay bằng tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, một số bên thứ 3 đã yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do hợp đồng thế chấp không phải là biện pháp thế chấp mà chỉ là biện pháp bảo lãnh vay vốn. Theo một số tòa án, hợp đồng thế chấp nói trên phải được xác lập lại bằng một hợp đồng cụ thể theo quy định về hình thức bảo lãnh (tức hợp đồng bảo lãnh thế chấp).

Việc tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường về pháp lý và kinh tế, gây thiệt hại cho các ngân hàng, các khoản vay của NHTM có nguy cơ chuyển thành khoản nợ không có đảm bảo.

Hiệp hội Ngân hàng đề nghị TAND Tối cao có hướng dẫn cụ thể, chính xác về cách hiểu và áp dụng luật đối với trường hợp nhận thế chấp quyền sử dụng đất là tài sản đảm bảo, tránh sự chồng chéo, không thống nhất, tạo nên rủi ro cho hoạt động ngân hàng.

Trích Công văn số 17 của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam gửi TAND Tối cao