Hiển thị các bài đăng có nhãn TTHS. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TTHS. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự


1. Nguyên tắc “suy đoán vô tội” và sự cần thiết phải bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự
 “Suy đoán vô tội” là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng các giá trị cao quý của con người (nhân phẩm, danh dự) trong xã hội và coi một người có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định, khi người đó chưa bị Tòa án (cơ quan có thẩm quyền xét xử) kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, để loại trừ, ngăn ngừa sự tùy tiện, lộng quyền, áp đặt hay vi phạm pháp luật từ phía cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT mà Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam đã quy định rõ các hoạt động TTHS phải tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) “Mọi hoạt động TTHS của cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” (Điều 3 Bộ luật TTHS năm 2003).
Thuật ngữ “suy đoán vô tội” chưa được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam sử dụng và ghi nhận chính thức. Tuy nhiên, trên cơ sở những tư tưởng tiến bộ trong Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 “Một người bị buộc tội về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình...” và Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật...”, thì nội dung của nguyên tắc này đã được đề cập trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001 (Điều 72), Bộ luật TTHS năm 1988 (các điều 10, 11) và Bộ luật TTHS năm 2003 (các điều 910). Cho nên, xét dưới góc độ tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, yêu cầu của nguyên tắc “suy đoán vô tội” đòi hỏi tất cả các chủ thể, trước hết là các cơ quan THTT, người tiến hành TTHS phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm của công dân, sau đến những người khác, cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông... cũng phải đối xử và tôn trọng họ khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Còn khi họ đã có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, thì Nhà nước đã quy định các quyền và nghĩa vụ của họ với tư cách là người đã bị kết án.
Điều 72 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đó có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nhắc lại và đặt tên nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Ngoài ra, Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (Điều 72) ngày 23/11/2012 quy định: “1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
Nghiên cứu Điều luật này trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, chúng tôi nhận thấy, nội dung liên quan đến nguyên tắc “suy đoán vô tội” và một số điểm hạn chế, tồn tại của Điều 72 Hiến pháp hiện hành đã được Ban soạn thảo hoàn thiện như sau:
Một là, đã bỏ đi cụm từ “và phải chịu hình phạt” trong khoản 1 để bảo đảm tính thống nhất và chặt chẽ với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, sửa đổi năm 2009 về miễn hình phạt (Điều 54) vì phải bao quát hai trường hợp có hậu quả pháp lý khác nhau:
a) Một người phạm tội và đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt;
b) Một người phạm tội nhưng đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội nhưng không bị áp dụng hình phạt mà được miễn hình phạt.
Hai là, đã bổ sung nội dung “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” để bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN và quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như bất cứ sự buộc tội nào đối với họ” và Điều 11 (đã dẫn ở trên), cũng như Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc. Hơn nữa, logic đương nhiên là “người bị buộc tội” mới cần được “suy đoán vô tội”. Ngoài ra, Điều 32 Dự thảo đã bổ sung nội dung “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” cho bảo đảm tương thích với các Công ước quốc tế (đã dẫn), cũng như tôn trọng quyền bào chữa và trợ giúp pháp lý của những người bị buộc tội tương ứng với các giai đoạn TTHS, thậm chỉ bao gồm cả người bị tình nghi (người bị bắt).
Ba là, đã bổ sung cho chính xác trong các giai đoạn tố tụng và thuật ngữ thống nhất trong Bộ luật TTHS về người bị bắt và các người tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, tạm giam) về việc tôn trọng quyền con người của những người này. Khi họ bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Còn người nào làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 293, 294 Bộ luật Hình sự hiện hành
Từ nội dung Điều 32 Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung Điều 72 Hiến pháp hiện hành), chúng tôi xin đóng góp thêm để hoàn thiện Điều luật này, cũng như bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật TTHS như sau:
Một là, về cơ bản, chúng tôi nhất trí với những đề xuất của Ban soạn thảo sửa đổi Hiến pháp về Điều 32 Dự thảo lần này, tuy nhiên, có ba điểm nên sửa đổi, bổ sung bao gồm:
- Khoản 1 Điều 32 Dự thảo quy định: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Sau khi đã bỏ đi cụm từ “và phải chịu hình phạt” nội dung khoản này đã rất đầy đủ. Mặc dù vậy, để bảo đảm nội dung nguyên tắc “suy đoán vô tội” và thống nhất với quy định của Bộ luật TTHS, cũng như tương ứng với các chức năng cơ bản trong TTHS, khoản này nên bổ sung thêm nội dung: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
- Khoản 2 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” nên sửa đổi, bổ sung thành: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị Tòa án kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án” cho bảo đảm đầy đủ nội dung (logic là thẩm quyền kết án chỉ do duy nhất Tòa án, đồng thời không thể bị kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án), đồng thời phù hợp với khoản 7 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc, cũng như nguyên tắc pháp chế XHCN trong Hiến pháp và pháp luật.
- Khoản 3 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” nên sửa đổi, bổ sung thêm cả “những người khác theo quy định của pháp luật” (cùng với người bào chữa). Bởi lẽ, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân (Điều 56), nhưng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 còn quy định cả Trợ giúp viên pháp lý cũng được coi là người bào chữa thực hiện các nhiệm vụ như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện theo pháp luật... (điểm b khoản 3 Điều 21); hoặc dự phòng sau này có thể có thêm chủ thể nào đó được pháp luật quy định có quyền này.
- Khoản 4 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” nên sửa đổi, bổ sung cho ngắn gọn và thống nhất với Điều 29 Bộ luật TTHS năm 2003, cũng như cần phục hồi cả các quyền lợi khác cho họ ngoài việc bồi thường, khôi phục danh dự (chức vụ, lương bổng...) như sau: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong các hoạt động tố tụng đó gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh theo các quy định củapháp luật”.
Như vậy, Điều 32 Dự thảo Hiến pháp nên sửa đổi, bổ sung như sau:
 
Điều 72 Hiến pháp hiện hành
Điều 32 Dự thảo
Hiến pháp sửa đổi
Kiến nghị sửa đổi
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đó có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không aibị kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa và của những người khác theo quy định của pháp luật.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong các hoạt động tố tụng đó gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lýnghiêm minh theo các quy định của pháp luật.
Hai là, thông qua việc hoàn thiện Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, chúng tôi cho rằng, các bộ luật, luật dưới Hiến pháp phải phù hợp và thống nhất với Hiến pháp, vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản. Nếu không phù hợp, mâu thuẫn với Hiến pháp phải sửa đổi, bổ sung. Do đó, liên quan đến nội dung về “suy đoán vô tội”, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 đã gián tiếp thể hiện ởnguyên tắc: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, còn Điều 10 quy định nguyên tắc: “Xác định sự thật vụ án” nhưng nội dung thứ hai của Điều 10 “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” lại phản ánh nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội”. Vì vậy, có ba nội dung cần sửa đổi, bổ sung như sau:
- Sửa đổi tên gọi Điều 9 “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thành tên gọi “suy đoán vô tội” để tránh trùng lặp với nội dung của Điều luật này.
- Nội dung Điều 9 nêu: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” cần sửa đổi vấn đề liên quan đến vế thứ hai “và phải chịu hình phạt…” cho bảo đảm phù hợp với các quy định của BLHS và thực tiễn xét xử, cũng như thống nhất với Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi (đã nêu) với hai trường hợp tương ứng khác nhau.
- Chuyển nội dung thứ hai trong Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 (đã nêu) đưa vào Điều 9 cho phù hợp và phản ánh nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội” (còn Điều 10 chỉ còn một nội dung). Việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với các tư tưởng tiến bộ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc (đã nêu). Ngoài ra, việc bổ sung này còn bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan, người THTT trong việc chứng minh tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Hơn nữa, điều này còn tương thích với pháp luật TTHS nhiều nước (ví dụ: Điều 14 Bộ luật TTHS Liên bang Nga cũng quy định về nguyên tắc “suy đoán vô tội”). Đặc biệt, Điều 48 Bộ luật TTHS có quy định về người tham gia TTHS là “Người bị tạm giữ” - cũng là một chủ thể cần được suy đoán vô tội, do đó, nên bổ sung thêm chủ thể này đầy đủ hơn.
Như vậy, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành
Kiến nghị sửa đổi
Điều 9. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 9. Suy đoán vô tội
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
3. Mọi sự nghi ngờ về tội phạm của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định thì các cơ quan THTT, người THTT phải giải thích theo hướng có lợi cho họ.

Ba là, tương tự, để bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật TTHS, Điều 293 về “Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” và Điều 294 về “Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 nên sửa tên tội và nội dung thay cụm từ “ tội” thành cụm từ “phạm tội” cho đúng với bản chất của hành vi phạm tội do chủ thể có thẩm quyền thực hiện trong từng giai đoạn tương ứng khác nhau (điều tra, truy tố, xét xử).  
Hiện trong khoa học luật hình sự, BLHS và thực tiễn xét xử tồn tại hai khái niệm “người phạm tội” và “người có tội” nên cần có sự phân biệt rạch ròi, chỉ rõ tư cách tham gia tố tụng nhằm bảo đảm quyền lợi và sinh mệnh chính trị cho họ. Thuật ngữ “người phạm tội” dùng để chỉ một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. Nói một cách khác, hành vi do người đó thực hiện đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nào đó được quy định trong Phần các tội phạm BLHS và người thực hiện hành vi đó bị coi là chủ thể của tội phạm (phạm tội là động từ). Trong khi đó, thuật ngữ “người có tội” cũng được sử dụng để xác định một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng thu hẹp hơn với người phạm tội - với họ đã có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (có tội là tính từ). Cho nên, thời điểm phát sinh cơ sở của trách nhiệm hình sự là thời điểm một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng có thể trách nhiệm hình sự sẽ không được thực hiện trên thực tế, nếu có những điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự cho người đó theo quy định của pháp luật hình sự trên những cơ sở chung.
Như vậy, nhằm thực hiện đầy đủ và nghiêm minh các quy định của Hiến pháp và Bộ luật TTHS, chúng tôi cho rằng, tên tội danh và nội dung trong hai điều luật trên trong BLHS nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Hình sự hiện hành
Kiến nghị sửa đổi
Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không  tội
1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
......
Điều 294 - Tội không truy cứu trách nhiệmhình sự người có tội
1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
......
Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không phạm tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
......
Điều 294 - Tội không truy cứu trách nhiệmhình sự người phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là phạm tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
......

Tóm lại, suy đoán vô tội là một nguyên tắc văn minh, tiến bộ trên thế giới và trong pháp luật của nhiều quốc gia. Việc hoàn thiện các nội dung cơ bản của nó và bảo đảm tính thống nhất liên thông trong Hiến pháp, BLHS và Bộ luật TTHS không chỉ có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý quan trọng, mà còn là “lá chắn thép” trong việc phòng chống oan sai, tôn trọng và bảo vệ các giá trị cao quý của con người. Đặc biệt, qua đó còn đề cao trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trước số phận chính trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của công dân, họ vẫn có quyền và nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án./.

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

Một số vấn đề về sử dụng chứng cứ trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam


Trong quá trình chứng minh, muốn giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, muốn xác định sự thật khách quan, có cơ sở để kết luận đúng về hành vi phạm tội đã xảy ra thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có tài liệu, chứng cứ để chứng minh bản chất của người phạm tội. Chứng cứ là phương tiện của việc chứng minh, của việc xác định các sự kiện có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án hình sự. Thông qua các tài liệu, chứng cứ các sự kiện thực tế được xác định, khẳng định và đồng thời cũng phủ định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực tế. Rõ ràng vai trò, giá trị của chứng cứ là rất quan trọng, là cơ sở duy nhất, là phương tiện duy nhất để chứng minh trong vụ án hình sự. Khi giải quyết vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án cần xác minh những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được tiến hành xem xét,  cần phải khẳng định được rằng tội phạm đã xảy ra, xác định được người cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện. Tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm được điều đó, cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào chứng cứ. Thông qua chứng cứ, kiểm sát viên thực hành quyền công tố trước toà án đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo, còn người bào chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành trên cơ sở của các chứng cứ và chỉ bằng cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ được những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách quan. Như vậy, quá trình chứng minh thực chất và nói chung là quá trình giải quyết chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng hình sự đều được mở ra và kết thúc từ vấn đề chứng cứ, xuất phát từ chứng cứ. Vì vậy, chứng cứ là một trong những vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn của hoạt động tố tụng hình sự. Việc nhận thức đúng vấn đề chứng cứ sẽ là cơ sở lý luận, định hướng đúng đắn cho quá trình thu thập, nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá chứng cứ.
 Thông thường, một vụ án hình sự xảy ra bao giờ cũng để lại dấu vết và những dấu vết đó được thể hiện dưới những hình thức khác nhau, mà những dấu xết này có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào những dấu vết đã thu thập được để khởi tố, truy tố hay xét xử một người đã có hành vi phạm tội, những dấu vết đó được gọi là chứng cứ. Theo quy định tại Điều 64 BLTTHS thì: 1.Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.”
Như vậy, xét về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì một thông tin, tài liệu chỉ có thể được coi là chứng cứ của vụ án khi nó có đủ ba thuộc tính sau:
-Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra.
- Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này.
- Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ.
 Trong thực tế, tính hợp pháp của chứng cứ được xác định thông qua hoạt động chứng minh được toà án và tất cả người tham gia tố tụng thực hiện và tuân thủ.
Trong quá trình chứng minh, trong các giai đoạn tố tụng, hoạt động sử dụng chứng cứ gắn liên với hoạt động đánh giá chứng cứ, đánh giá chứng cứ và sử dụng chứng cứ có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời. Đánh giá chứng cứ là tiền đề, là điều kiện cho sử dụng chứng cứ. Sử dụng chứng cứ là sự kiểm nghiệm, xác định lại kết quả của hoạt động đánh giá chứng cứ. Đánh giá chứng cứ không đúng, tất yếu dẫn đến kết quả sai lầm, không đúng đắn của việc sử dụng. Ngược lại, việc sử dụng chứng cứ sai mục đích, không phù hợp giữa nội dung, giá trị chứng minh của chứng cứ với đối tượng cần phải chứng minh là làm hạn chế kết quả của hoạt động đánh giá chứng cứ.
Để đảm bảo việc sử dụng chứng cứ trong quá trình chứng minh vụ án hình sự một cách hiệu quả, cần nắm rõ được mục đích của việc sử dụng chứng cứ đó là:
* Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, chứng cứ đã thu thập được trọng vụ án được sử dụng để phát hiện, thu thập chứng cứ mới. Việc hoàn thiện nhận thức chân lý khách quan được hình thành dần trong các giai đoạn tố tụng, qua việc nhận thức chứng cứ của vụ án. Tuy nhiên, trong các giai đoạn tố tụng không phải tất cả các vụ án đều đã có đầy đủ các chứng cứ, nhất là trong giai đoạn điều tra vụ án. Vì vậy, việc phats hiện và thu thập thêm chứng cứ mới là hoạt động được tiến hành liên tục cho đến khi các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ chứng cứ chứng minh sự thật vụ án. Một trong những cách thức được sử dụng để thu thập thêm những chứng cứ mới là sử dụng  chứng cứ đã có, đã thu thập được từ trước. Từ lời khai của người bị hại, với những nội dung xác thực đã buộc bị can phải thay đổi thái độ khai báo, thừa nhận những lời cung trước đó là gian dối, không đúng sự thật, bị can đã phải nhận tội, khai ra những kẻ đồng phạm khác, cũng như những tài sản mà chúng đã chiếm đoạt, khai báo ra nới cất giấu, tiêu thụ tài sản đó.
Chứng cứ đã thu thập được trong vụ án dùng để nghiên cứu, kiểm tra và đánh giá tài liệu, chứng cứ mới và ngược lại. Trong cùng một vụ án, các chứng cứ có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, song chúng đều có quan hệ với nhau bởi những mối liên hệ logic, biện chứng. Để các định giá trị từng chứng cứ không thể không xem xét đến toàn bộ hệ thống chứng cứ, không thể không so sánh giá trị giữa các chứng cứ với nhau và tất yếu không thể không kiểm tra giá trị của chúng. Việc kiểm tra được tiến hành theo chiều thuận, từ chứng cứ đã có kiểm tra chứng cứ mới, hoặc ngược lại từ chứng cứ mới thu thập dùng để kiểm tra chứng cứ đã thu thập từ trước. Chẳng hạn sử dụng dầu vân tay  của kẻ phạm tội để lại ở hiện trường, cùng lời khai của người làm chứng để phủ định, bác bỏ lời khai về việc không có mặt ở hiện trường của kẻ phạm tội…
*Trong quá trình chứng minh ở các giai đoạn tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải sử dụng chứng cứ để ra quyết định tố tụng. Căn cứ vào các nguồn theo Điều 100 và 105 Bộ luật TTHS, các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án. “ Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can …” (Điều 126 BLTTHS). “1. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải làm bản kết luận điều tra. 2. Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra…” ( Điều 162 BLTTHS). Trong hoạt động kiểm sát điều tra, quyết định việc truy tố, Viện kiểm sát, kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố, bảo đảm việc điều tra được khách quan toàn diện và đầy đủ. Khi ra các quyết định tố tụng, đồi hỏi Viện kiểm sát phải tiến hành nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, các quyết định cuối cùng phải dựa trên cơ sở việc sử dụng đầy đủ, đúng đắn các chứng cứ. Tại khoản 1 Điều 167 Bộ luật TTHS đã quy định : “Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng”. Hoặc khi quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, nếu như qua nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy: “ 1.Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;………..” (Khoản 1 Điều 168 Bộ luật TTHS). Trong giai đoạn xét xử, mọi kết luận, quyết định cuối cùng Tòa án nhân dân cũng hoàn toàn dựa trên cở sở việc sử dụng chứng cứ. Chẳng hạn khi ra bản án, bản án của Tòa án phải dựa trên cơ sở chứng cứ đã thu thập, được kiểm tra chứng minh công khai tại phiên tòa.“ Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và phải giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định của Toà án và quyền kháng cáo đối với bản án.” (Khoản 3 Điều 224 Bộ luật TTHS). Trong trường hợp hồ sơ vụ án không có chứng cứ, chứng cứ chưa đầy đủ thì Tòa án không thể tiến hành xét xử, Thẩm phán có quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung: “a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;…” ( điểm a khoản 1 Điều 179 Bộ luật TTHS).
          Để việc sử dụng chứng cứ đạt được mục đích, dựa trên cơ sở, yêu cầu của pháp luật và thực tiễn tiến hành hoạt động chứng minh, chủ thể tiến hành tố tụng cần phải quán triệt và thực hiện một số vấn đề mang tính nguyên tắc trong sử dụng chứng cứ đó là:
           Chấp hành nguyên tắc khách quan toàn diện và đầy đủ trong tố tụng hình sự.
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được sử dụng những chứng cứ đã được phát hiện, thu thập theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ thu thập được qua biện pháp điều tra, trinh sát, phải được chuyển hóa thành chứng cứ hợp pháp mới được sử dụng. Những tài liệu, chứng cứ phải được kiểm tra, xác minh đầy đủ, phải đảm bảo đầy đủ ba thuộc tính của chứng cứ, phải phù hợp với thực tế khách quan, đảm bảo sự tin cậy vững chắc và có đủ căn cứ mới sử dụng được. Tiyệt đối không sử dụng chứng cứ chưa qua nghiên cứu, kiểm tra, xác minh làm căn cứ, cơ sở để đưa ra những quyết định pháp lý, hoặc sử dụng vào việc kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác. Khi sử dụng chứng cứ không được định kiến, chủ quan, thiên lệch, coi trọng chứng cứ này mà bỏ qua chứng cứ kia, chỉ coi trọng sử dụng chứng cứ gốc, chứng cứ trực tiếp mà bỏ qua, coi nhẹ chứng cứ sao chép, chứng cứ thuật lại, chứng cứ gián tiếp, không chỉ sử dụng chứng cứ buộc tội mà sử dụng cả chứng cứ gỡ tội và ngược lại. Khi ra một quyết định tố tụng kết luận về bất cứ vấn đề nào đó hay toàn bộ mọi vấn đề trong vụ án, người tiến hành tố tụng phải sử dụng tổng hợp mọi chứng cứ trong vụ án.
          Khi sử dụng chứng cứ phải tuân theo đúng những qui định của pháp luật. 
Pháp luật tố tụng hình sự đã qui định thế nào là chứng cứ, chứng cứ được xác định ở những nguồn cụ thể. Việc sử dụng những chứng cứ ở nguồn luật định phải chấp hành nghiêm chỉnh theo những qui định của pháp luật tố tụng. Đặc biệt với những chứng cứ là lời khai của những người tham gia tố tụng, do đặc điểm của những chứng cứ này thường bị xen lẫn yếu tố chủ quan, dễ bị sai lệch, vì vậy khi sử dụng các lời khai của người tham gia tố tụng ở các tư cách khác nhau phải tuân theo đúng những qui phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chẳng hạn, khi sử dụng lời khai của bị can, bị cáo làm chứng cứ thì phải hết sức thận trọng vì “ …Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án.  không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội” (khoản 2 Điều 72 BLTTHS). Đối với bị can, bị cáo là vị thành niên, hoặc người làm chứng dưới 16 tuổi thì chỉ được sử dụng lời cung của bị can, bị cáo, lời khai của người làm chứng ( là vị thành niên) để làm chứng cứ của vụ án khi việc hỏi cung được tiến hành theo đúng qui định của pháp luật; “…Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng……..Tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức….” (khoản 2,3 Điều 306 BLTTHS); “…Khi lấy lời khai của người làm chứng dưới 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của người đó tham dự…” (khoản 5 Điều 135 BLTTHS). Đối với lời khai của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, thì không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do những người trên trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó ( các Điều 68, 69,70 BLTTHS). Khi sử dụng lời khai của người làm chứng cần lưu ý “1.Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra. 2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.” (Điều 67 BLTTHS).
          Sử dụng chứng cứ phải đảm bảo tính kịp thời
Sau khi phát hiện, thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng cần tiến hành nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá ngay để sử dụng nhằm đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời của các hoạt động tiếp theo, vừa đảm bảo thời gian đã được quy định đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vừa đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, hạn chế những thiệt hại cho xã hội, bắt giữ ngay kẻ phạm tội không để chúng có thời gian lẩn trốn, tiêu hủy tài sản, chứng cứ tang vật, xóa hết dấu vết hoặc tiếp tục gây án. Mặt khác, các chứng cứ sau khi kiểm tra đánh giá, đã xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ thì chỉ được sử dụng đúng với giá trị của nó, giá trị chứng minh của từng chứng cứ đều có những giới hạn, phạm vi nhất định, việc sử dụng cần căn cứ vào giới hạn, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, không được phép phán đoán chủ quan, sử dụng gượng ép, ngoài khả năng chứng minh của từng chứng cứ. Sử dụng đúng giá trị chứng minh của chứng cứ cho phép người tiến hành tố tụng xác định đúng sự thật khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Ví dụ: Tại nhà riêng của Trần Văn T, cơ quan tiến hành tố tụng xác định phát hiện thấy có 1 chiếc xe máy, là tài sản đã bị chiếm đoạt trong một vụ trộm cắp xảy ra trước đó. Cơ quan tiến hành tố tụng không thể chỉ căn cứ vào chiếc xe máy có tại nhà riêng của Trần Văn T để ra quyết định khởi tố T hoặc quyết định bắt giữ T, bởi vì chưa có chứng cứ xác định mối quan hệ nhân quả giữa những hành vi mà T thực hiện để có chiếc xe máy đó, chưa có chứng cứ xác định mối quan hệ sở hữu giữa T và chiếc xe máy là hợp pháp hay bất hợp pháp….Chiếc xe máy có tại nhà riêng của T có thể do kẻ phạm tội có mối quan hệ thân quen với T sau khi trộm cắp được xe máy đã gửi ở đó, T không biết là tài sản trộm cắp nên đã cho gửi, hoặc cũng có thể do T không biết đó là tài sản phạm pháp nên đã mua nhầm…Trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng phải đặt các giả thiết khác nhau, tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh làm rõ mối quan hệ của T với chiếc xe máy, vì sao chiếc xe đó lại có ở tại nhà riêng của T? có đúng đó là chiếc xe bị trộm cắp không? Quan hệ của T với chủ xe như thế nào?…Chỉ khi nào có đủ chứng cứ chứng minh T đã phạm tội trộm cắp tài sản là chiếc xe máy thì mới quyết định bắt giữ T.
          Một ví dụ nữa: Nguyễn Tuấn N là cán bộ hải quan đang làm nhiệm vụ ở cửa khẩu, N phát hiện Hoàng Văn H chở thuốc lá lậu quan biên giới, H đã đưa một khoản tiền cho N để N bỏ quan và cho H chuyển thuốc lá lậu qua biên giới. Sự việc bị phát giác, cơ quan tiến hành tố tụng  phải căn cứ vào chứng cứ đã có để khởi tố vụ án, khởi tố Nguyễn Tuấn N hai tội: Tội nhận hối lộ và tội buôn lậu qua biên giới với vai trò là đồng phạm. Nếu không khởi tố N về tội buôn lậu quan biên giới, chỉ căn cứ vào hành vi nhận tiền của N và khởi tố một tội nhận hối lộ là bỏ lọt tội phạm, là không sử dụng hết giá trị chứng minh của chứng cứ.
 Vật chứng là chứng cứ phải đảm bảo sử dụng nhiều lần.
Không được xử lý vật chứng trước khi có quyết định của người có thẩm quyền, xử lý vật phải theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự, không được làm mất mát, hư hỏng, thất lạc chứng cứ vì trong một vụ án, vật chứng là chứng cứ không thể thay thế được, vật chứng được phát hiện, thu thập ngay từ giai đoạn điều tra, có nhiều vật chứng việc bảo quản rất phức tạp, khó khăn, tuy nhiên để đảm bảo sử dụng chứng cứ bằng vật chứng vào việc chứng minh vụ án đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm chỉnh những qui định của Bộ luật TTHS. Trong mọi trường hợp, khi vụ án chưa giải quyết xong, chưa có quyết định xử vật chứng theo qui định của pháp luật thì vật chứng phải được bảo quản, gìn giữ nguyên vẹn giá trị chứng minh và cả giá trị kinh tế của vật chứng, phải đảm bảo cho vật chứng có giá trị chứng minh được sử dụng nhiều lần cho đến khi kết thúc vụ án. Đặc biệt phải thận trọng khi sử dụng vật chứng là công cụ, hung khí, là vũ khí, chất nổ, những vật mang vết, dễ vỡ, dễ bị xóa dấu vết, những tài liệu chỉ có một bản là chứng cứ gốc chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo….Khi sử dụng để đấu tranh với bị can, bị cáo tuyệt đối không được đưa cho bị can, bị cáo trực tiếp cầm, nắm vật chứng, đề phòng bị can, bị cáo sử dụng ngay hung khí, vũ khí đó để khống chế, hành hung người tiến hành tố tụng hoặc chúng có thể tiêu hủy, xóa dấu vết làm mất giá trị chứng minh của chứng cứ.
          Tóm lại:  Sử dụng chứng cứ phải tuân thủ nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ trong tố tụng hình sự. Chỉ sử dụng các chứng cứ được phát hiện, thu thập theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự, và các chứng cứ đó phải được kiểm tra đầy đủ, bảo đảm ba thuộc tính của chứng cứ và phải phù hợp với thực tế khách quan. Trong quá trình tiến hành tố tụng, không chỉ cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh mà tất cả những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ  nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Tuy nhiên muốn sử dụng chứng cứ một cách hiệu quả, đạt mục đích thì phải nhận thức đầy đủ về chứng cứ. Đối với người tiến hành tố tụng có nhận thức đúng về chứng cứ thì quá trình chứng minh, việc phát hiện, thu giữ chứng cứ mới đúng, nếu nhận thức sai về chứng cứ, sẽ phát hiện, thu giữ những sự kiện, hiện tượng không phải là chứng cứ trong vụ án, từ đó dẫn tới việc sử dụng sai và giải quyết vụ án không đúng. Đối với người tham gia tố tụng có nhận thức đúng vấn đề về chứng cứ mới thực hiện quyền của mình như cung cấp và đưa ra chứng cứ có giá trị chứng minh tới các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo điều kiện giải quyết vụ án được đúng đắn, kịp thời. Chứng cứ cũng cần phải được mọi người, mọi công dân nhận thức đầy đủ để từ đó bảo quản, giữ nguyên giá trị chứng minh của chứng cứ từ khi phát hiện đến khi cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền. Nhận thức đúng về chứng cứ những người tham gia tố tụng cũng như mọi công dân có thể sử dụng chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình./.