Hiển thị các bài đăng có nhãn luật sư hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn luật sư hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra


I. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS) đã có quy định về các trường hợp nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp ở địa phương cho thấy, quy định hiện hành của BLTTHS còn chung chung, thiếu rõ ràng; trong khi đó, các văn bản dưới luật chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung này, dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp không thống nhất với nhau.
Về vấn đề nhập hoặc tách vụ án hình sự để điều tra được quy định tại Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau:
Điều 117. Nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra
1. Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm quy định tại Điều 313 và Điều 314 của Bộ luật hình sự.
2. Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
3. Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định.
Với các quy định đó, chủ thể tiến hành nhập và tách vụ án hình sự để điều tra chính là Cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra có thể nhập vụ án hình sự để điều tra trong 3 trường hợp: 1. Bị can phạm nhiều tội; 2. Nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm; 3. Cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm quy định tại Điều 313 và Điều 314 của Bộ luật hình sự.
Để tách vụ án hình sự để điều tra, Cơ quan điều tra cần đảm bảo đồng thời các điều kiện sau: 1. Không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm; 2. Việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
Có thể thấy quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc tách vụ án hình sự để điều tra mang tính tùy nghi, mang tính định tính, dẫn đến các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể hiểu việc nhập vụ án hình sự là hoạt động tố tụng tùy nghi, có thể nhập hoặc không nhập. Vấn đề tách vụ án hình sự cũng được quy định bằng những thuật ngữ chung chung như “thật cần thiết”, “không ảnh hưởng”…gây hiểu nhầm và không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Ngoài ra, quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự phải được gửi cho Viện kiểm sát, nhưng để làm gì, phê chuẩn hay kiểm sát việc nhập, tách vụ án hình sự thì Bộ luật Tố tụng hình sự cũng chưa quy định rõ ràng.
Những quy định chưa đầy đủ và rõ ràng đó của Bộ luật Tố tụng hình sự cùng với việc chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn về vấn đề này đã dẫn đến tình trạng không thống nhất và gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhập hoặc tách vụ án hình sự để điều tra.
II. Một số vướng mặc trong thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về nhập hoặc tách vụ án hình sự để điều tra:
1. Về vấn đề nhập vụ án hình sự để điều tra, thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự có một số vấn đề sau:
Thứ nhất, trường hợp một bị can thực hiện nhiều tội phạm nhưng ở những địa bàn khác nhau do các Cơ quan điều tra khác nhau có thẩm quyền điều tra.
Đây là trường hợp một bị can thực hiện một loại tội phạm nhưng phạm tội nhiều lần và ở những địa bàn khác nhau. Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm đầu tiên tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành tố tụng đối với vụ án đó. Tuy nhiên, các Cơ quan điều tra khác khi phát hiện tội phạm (sau) cũng tiến hành các hoạt động tố tụng tương tự. Mặc dù nhận được yêu cầu nhập vụ án hình sự để điều tra nhưng có trường hợp các Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm (sau) cố tình không nhập vụ án mà độc lập khởi tố, điều tra vụ án đó. Cũng có trường hợp Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm (sau) chậm trễ trong việc phối hợp để nhập vụ án hình sự, dẫn đến việc hết thời hạn điều tra và Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm (trước) phải hoàn thiện hồ sơ, chuyển cho Viện kiểm sát để đề nghị truy tố mà không thể đợi để nhập vụ án.
Vụ án xảy tại Thành phố Hồ Chí Minh: Năm 2000, Lê Thành Trung lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại quận 7 (TP.HCM) rồi bỏ trốn nên bị Công an quận 7 truy nã. Trung trốn sang quận 3, lại lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn nên cũng bị Công an quận 3 truy nã. Trung trốn tiếp về Duyên Hải (Trà Vinh) rồi bị bắt vì chiếm đoạt một chiếc xe máy. Sau đó, Trung được di lý về Công an quận 7.
Các cơ quan tố tụng quận 7 đã nhiều lần thông báo cho quận 3 phối hợp nhập vụ án để giải quyết chung nhưng không được hồi đáp. Vì thế, TAND quận 7 đã đưa Trung ra xét xử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phạt Trung hai năm tù. Năm 2003, vừa chấp hành án xong trở về, Trung lại bị Công an quận 3 bắt theo lệnh truy nã để điều tra về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sau đó, Trung tiếp tục bị TAND quận 3 phạt án tù.
Một vụ án khác, khoảng 2 giờ ngày 23-11-2010, tại đường Phạm Thế Hiển, quận 8 (TP.HCM), Nguyễn Văn Minh, Phan Văn Tùng, Đinh Thanh Vũ và Trần Văn Hồi đã chặn xe máy của một phụ nữ bắt đưa tiền. Khi nạn nhân từ chối, Tùng rút dao đâm thủng yên xe thị uy, Minh và Vũ cũng rút dao kề cổ nạn nhân, làm nạn nhân sợ hãi phải vét sạch túi được 1,3 triệu đồng nộp cho chúng.
Bị Công an quận 8 bắt, bốn gã này khai nhận chỉ trong vòng 2 tiếng trước, chúng đã thực hiện liên tiếp hai vụ cướp tại một quận giáp ranh là quận 7. Cụ thể, khoảng 0 giờ ngày 23-11, chúng đã dùng dao khống chế cướp điện thoại di động của một người đàn ông. 1 tiếng sau, chúng lại dùng dao khống chế cướp 400.000 đồng của một cặp vợ chồng.
Công an quận 8 đã gửi công văn yêu cầu Công an quận 7 phối hợp điều tra. Tuy nhiên, Công an quận 7 đã không phối hợp ngay mà độc lập khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Đầu năm 2011, khi hồ sơ vụ án được chuyển sang VKSND quận 7, cơ quan này mới làm công văn chuyển hồ sơ cho Công an quận 8 để phối hợp giải quyết. Về phần mình, do trước đó phải chờ đợi quá lâu nên cơ quan điều tra Công an quận 8 đã ra quyết định từ chối nhập vụ án, tự giải quyết riêng.
Có thể khái quát các trường hợp trên như sau: A  gây 2 vụ án ở 2 huyện khác nhau là B và C thuộc tỉnh H. Ở mỗi huyện này, A gây ra 1 vụ “trộm cắp tài sản”. Cơ quan điều tra huyện B khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với A về tội “trộm cắp tài sản” xảy ra ở địa phương mình. Cơ quan điều tra huyện C cũng tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với A về tội nêu trên (đối với hành vi phạm tội ở huyện C). Mặc dù được yêu cầu phối hợp nhập vụ án để điều tra, nhưng Cơ quan điều tra huyện C do nhiều lí do (chủ quan và khách quan) đã không (hoặc chậm trễ) phối hợp để nhập vụ án hình sự. Dẫn đến hết thời hạn điều tra nên Cơ quan điều tra huyện B kết thúc điều tra, đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can A. Sau đó, huyện C tiến hành truy tố, xét xử độc lập đối với A.
Với trường hợp trên, có quan điểm cho rằng, căn cứ Điều 117 BLTTHS thì các vụ án trên phải được nhập lại để cơ quan tư pháp huyện B tiến hành điều tra, truy tố, xét xử toàn bộ các hành vi của A ở cả hai huyện. Khi đó, bị cáo A chỉ bị tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” mà không phải bị xử lý bằng 2 lần, 2 bản án sẽ không phải chịu hình phạt nặng. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
Cũng có ý kiến cho rằng Điều 117 BLTTHS cũng không có quy định bắt buộc phải nhập vụ án của hai địa phương khác nhau để tiến hành điều tra. Trong vụ án này, các bị can thực hiện các hành vi phạm tội độc lập ở những địa phương khác nhau, nên có thể xử lý độc lập. Việc không nhập vụ án nêu trên là không trái pháp luật.
Theo chúng tôi, việc Cơ quan điều tra không tiến hành nhập vụ án trên để điều tra là trái pháp luật. Bởi lẽ, Điều 117, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rõ đây là trường hợp bị can phạm nhiều tội, có thể nhập vụ án hình sự để điều tra mà không phụ thuộc vào địa bàn thực hiện tội phạm. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Khi nhập vụ án hình sự để điều tra, bị cáo A chỉ bị tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” mà không phải bị xử lý bằng 2 lần, 2 bản án sẽ không phải chịu hình phạt nặng. Việc quy định bắt buộc phải nhập vụ án trong trường hợp này cũng góp phần hạn chế tiêu cực trong tố tụng hình sự, tránh oan, sai trong tố tụng hình sự. Trao đổi với nhiều điều tra viên ở địa phương, có nhiều trường hợp các Cơ quan điều tra còn cố tình không nhập vụ án để điều tra nhằm tăng hình phạt đối với bị can, bị cáo (phạm tội chuyên nghiệp, lưu manh, côn đồ…). Điều này vi phạm các nguyên tắc tố tụng hình sự.
Xảy ra tình trạng có nhiều quan điểm khác nhau về việc nhập vụ án trong trường hợp này là do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định chưa chặt chẽ về trường hợp nhập vụ án nếu bị can thực hiện tội phạm ở nhiều địa bàn khác nhau. Cần phải bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trường hợp này theo hướng quy định rõ Cơ quan điều tra nào có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khác nhập vụ án, thời hạn nhập vụ án, trách nhiệm đối với trường hợp chậm trễ trong việc nhập vụ án.
Thứ hai, trường hợp những bị can khác nhau phạm các tội khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ với nhau cả về thời gian và không gian hoặc trường hợp một người vừa là bị can, vừa là người bị hại.
Trong thực tiễn tố tụng hình sự, có nhiều trường hợp các bị can khác nhau phạm các tội khác nhau nhưng các tội này lại liên quan chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn bị can A thực hiện hành vi “cướp tài sản” để lấy tài sản đem bán cho B. A bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “cướp tài sản” được quy định tại khoản 1, Điều 133 – Bộ luật Hình sự. Cơ quan điều tra cũng khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với B về tội “chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự.
Trong một trường hợp khác, tháng 5-2010, Phạm Văn Trường gặp Trương Hồng Hào ở một quán cà phê tại huyện Châu Thành (Hậu Giang). Vốn xích mích từ trước, Trường dùng ly thủy tinh đập vào đầu Hào khiến Hào bị thương tật 14%. Hào cầm một cục gạch ống ném trúng trán Trường gây thương tật 31%. Sau đó, Hào yêu cầu Công an huyện Châu Thành khởi tố Trường. Thấy vậy, Trường cũng yêu cầu công an huyện khởi tố Hào.
Mới đây, Công an huyện Châu Thành đã ra quyết định khởi tố Trường về hành vi cố ý gây thương tích. Đối với Hào, dù xác định có dấu hiệu phạm tội cố ý gây thương tích nhưng cơ quan điều tra lại lúng túng, không biết nên nhập hành vi ném gạch của Hào vào chung một vụ án với Trường để xử lý hay tách ra thành một vụ án độc lập khác.
Trong những trường hợp này, có quan điểm cho rằng: Cơ quan điều tra phải nhập vụ án hình sự để điều tra và việc nhập vụ án nêu trên là đúng pháp luật và trường hợp trên không thể xử lý độc lập. Bởi lẽ, tính liên quan ở các hành vi của các vụ án nêu trên là chặt chẽ, khăng khít nhau cả về mặt thời gian và không gian. Nếu giải quyết độc lập hai vụ án sẽ gây khó khăn, phức tạp trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.
Ý kiến thứ hai cho rằng: Quyết định nhập vụ án nêu trên của cơ quan điều tra là trái pháp luật. Bởi vì, theo quy định tại khoản 1 Điều 117 BLTTHS thì chỉ được nhập vụ án khi cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm quy định tại Điều 313 và Điều 314 của BLHS. Trong trường hợp thứ hai, từng bị can A, B không phạm nhiều tội; B bị khởi tố về tội “chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là độc lập với tội mà cơ quan điều tra đã khởi tố trước đó với A. Trường hợp B phạm vào tội độc lập thì chỉ nhập vụ án khi B phạm tội “che giấu tội phạm” hoặc “không tố giác tội phạm” quy định tại Điều 313, 314 BLHS.
Theo chúng tôi, trong trường hợp này nếu đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự thì rõ ràng việc nhập vụ án hình sự để điều tra là trái pháp luật. Vì rõ ràng theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là những trường hợp “không thể” nhập vụ án hình sự để điều tra.
Trong trường hợp này có thể các vụ án có liên quan với nhau nhưng đây vẫn là những vụ án hoàn toàn độc lập cả về người phạm tội và tội phạm. Tính liên quan ở đây cũng chỉ được xác định một cách tương đối, không có căn cứ cụ thể thể xác định mức độ liên quan của những vụ án độc lập này.
Mặc dù việc tách vụ án hình sự có thể gây một số khó khăn cho hoạt động tố tụng như tốn kém công sức, lực lượng tố tụng, điều tra viên không thuận lợi trong hoạt động hỏi cung, lấy lời khai…nhưng việc không nhập vụ án là phù hợp với các quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc không nhập vụ án trong giai đoạn điều tra cũng đảm bảo cho các Cơ quan tiến hành tố tụng khác hoạt động được thuận lợi. Rõ ràng Tòa án phải xử trường hợp trên thành 2 vụ án riêng lẻ. Không thể trong cùng một phiên tòa mà một người vừa là bị cáo, vừa là người bị hại.
2. Về vấn đề tách vụ án hình sự để điều tra, khoản 2 Điều 117 BLTTHS quy định: Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Cũng tương tự như trường hợp nhập vụ án được nêu ở phần trên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn có những tranh cãi về điều khoản này.
Trong một vụ án hình sự, 3 bị can A, B và C là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định và nơi cư trú rõ ràng cùng thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra đã khởi tố cả ba đối tượng trên về cùng tội danh trên, trong đó A, B bị tạm giam còn C thì bỏ trốn (đã có lệnh truy nã). Khi hết thời hạn tạm giam đối với A và B (bao gồm cả thời hạn đã gia hạn), thì thời hạn điều tra vẫn còn nhưng không xác định được C đang ở đâu. Do không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với A và B, Cơ quan điều tra đã kết thúc điều tra đề nghị truy tố A và B.
Có quan điểm cho rằng vụ án này cần tách vụ án đối với bị can C, để sau khi thời hạn điều tra đã hết mà vẫn không bắt được C thì cơ quan điều tra căn cứ Khoản 1 Điều 160 BLTTHS để ra quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với C.
Quan điểm thứ hai cho rằng, không thể tách hành vi của C ra thành 1 vụ án riêng. Bởi vì tách như vậy sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, vì thực tế A, B và C cùng thực hiện một hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm tổ chức hoặc thực hành. Theo quan điểm này thì Cơ quan điều tra có thể ra quyết định tạm đình chỉ  điều tra đối với C ngay khi kết luận điều tra với A, B vì thời hạn điều tra (không tính thời hạn gia hạn) đối với C đã hết.
Theo chúng tôi, đây là trường hợp Cơ quan điều tra không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm (vì C đang trốn), và việc tách C ra để xử lý riêng cũng không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án. Do vậy, đối chiếu với quy định tại Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự, vụ án trên cần được tách ra để đảm bảo việc truy tố đối với A và B khi hết thời hạn tạm giam đối với A và B. Đồng thời, sau khi hết thời hạn điều tra vụ án mà vẫn không xác định được C đang ở đâu thì Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 160 BLTTHS.
III. Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhập và tách vụ án hình sự để điều tra:
Từ những quy định chưa rõ ràng và thống nhất của Bộ luật Tố tụng hình sự về nhập, tách vụ án hình sự để điều tra cũng như từ những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định này, chúng tôi đề xuất một số vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhập và tách vụ án hình sự để điều tra như sau:
Một là, tránh dùng những thuật ngữ chung chung trong quy định của điều luật quy định về nhập và tách vụ án hình sự để điều tra vì sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau hoặc hiểu tùy nghi. Khoản 1 Điều 117 quy định: “Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án…”. Quy định này dẫn đến việc tư duy cho rằng việc nhập vụ án để điều tra là quyền, chứ không phải là nghĩa vụ của Cơ quan điều tra, và rằng đây là một quy phạm tùy nghi, Cơ quan điều tra nếu xét thấy thuận lợi cho hoạt động điều tra thì có thể nhập vụ án, không nhập cũng không sao (mặc dù thuộc các trường hợp mà khoản 1 Điều 117 quy định). Điều này dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, mà nhiều trường hợp việc nhập hay không nhập vụ án ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 117 quy định: “Được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết… và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.”. Thế nào là “trường hợp thật cần thiết” và “không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án” hoàn toàn thuộc nhận định cảm tính của từng Cơ quan tố tụng khi mà hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn. Điều này cũng dẫn đến cách áp dụng khác nhau của các Cơ quan tiến hành tố tụng.
Hai là, Bộ luật Tố tụng hình sự cần quy định rõ ràng hơn theo phương pháp liệt kê, loại trừ từng trường hợp cần tách hoặc nhập vụ án. Và cũng quy định rõ ràng là chỉ được nhập hoặc tách vụ án hình sự để điều tra trong những trường hợp đó mà thôi, tránh trường hợp các Cơ quan điều tra nhập và tách vụ án trong những trường hợp mà Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định như hiện nay.
Ba là, Bộ luật Tố tụng hình sự cần quy định rõ chủ thể tiến hành nhập, tách vụ án hình sự để điều tra trong trường hợp bị can thực hiện tội phạm ở nhiều địa bàn khác nhau theo hướng Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm đầu tiên là Cơ quan điều tra có quyền yêu cầu các Cơ quan điều tra khác tiến hành nhập vụ án hình sự để điều tra. Việc nhập vụ án hình sự giữa các Cơ quan điều tra khác nhau phải thông qua Viện kiểm sát. Liên quan đến quy định này cần quy định rõ thời hạn nhập vụ án hình sự từ khi có yêu cầu, trình tự, thủ tục nhập vụ án hình sự…
Bốn là, quy định rõ về thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra trong trường hợp nhập và tách vụ án hình sự để không gây bất lợi cho bị can trong quá trình điều tra vụ án hình sự.
Năm là, trong  thời gian chờ Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi cần phải có một thông tư liên tịch giữa ba ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án hướng dẫn cụ thể về việc tách, nhập vụ án để áp dụng thống nhất.
Theo chúng tôi, Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được sửa đổi như sau:
“Điều 117. Nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra
1. Cơ quan điều tra nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm quy định tại Điều 313 và Điều 314 của Bộ luật hình sự.
2. Cơ quan điều tra tách vụ án trong trường hợp không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm hoặc các bị can trong vụ án và việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
3. Cơ quan điều tra đầu tiên tiến hành tố tụng đối với vụ án đó theo thẩm quyền có quyền yêu cầu các Cơ quan điều tra cùng cấp nhập vụ án để điều tra. Trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu nhập vụ án, Cơ quan điều tra nhận được yêu cầu phải tiến hành nhập vụ án.
4. Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định để kiểm sát việc nhập hoặc tách vụ án hình sự.”./.
 Nguồn: www.moj.gov.vn

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự


1. Nguyên tắc “suy đoán vô tội” và sự cần thiết phải bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự
 “Suy đoán vô tội” là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng các giá trị cao quý của con người (nhân phẩm, danh dự) trong xã hội và coi một người có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định, khi người đó chưa bị Tòa án (cơ quan có thẩm quyền xét xử) kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, để loại trừ, ngăn ngừa sự tùy tiện, lộng quyền, áp đặt hay vi phạm pháp luật từ phía cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT mà Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam đã quy định rõ các hoạt động TTHS phải tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) “Mọi hoạt động TTHS của cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” (Điều 3 Bộ luật TTHS năm 2003).
Thuật ngữ “suy đoán vô tội” chưa được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam sử dụng và ghi nhận chính thức. Tuy nhiên, trên cơ sở những tư tưởng tiến bộ trong Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 “Một người bị buộc tội về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình...” và Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật...”, thì nội dung của nguyên tắc này đã được đề cập trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001 (Điều 72), Bộ luật TTHS năm 1988 (các điều 10, 11) và Bộ luật TTHS năm 2003 (các điều 910). Cho nên, xét dưới góc độ tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, yêu cầu của nguyên tắc “suy đoán vô tội” đòi hỏi tất cả các chủ thể, trước hết là các cơ quan THTT, người tiến hành TTHS phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm của công dân, sau đến những người khác, cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông... cũng phải đối xử và tôn trọng họ khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Còn khi họ đã có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, thì Nhà nước đã quy định các quyền và nghĩa vụ của họ với tư cách là người đã bị kết án.
Điều 72 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đó có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nhắc lại và đặt tên nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Ngoài ra, Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (Điều 72) ngày 23/11/2012 quy định: “1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
Nghiên cứu Điều luật này trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, chúng tôi nhận thấy, nội dung liên quan đến nguyên tắc “suy đoán vô tội” và một số điểm hạn chế, tồn tại của Điều 72 Hiến pháp hiện hành đã được Ban soạn thảo hoàn thiện như sau:
Một là, đã bỏ đi cụm từ “và phải chịu hình phạt” trong khoản 1 để bảo đảm tính thống nhất và chặt chẽ với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, sửa đổi năm 2009 về miễn hình phạt (Điều 54) vì phải bao quát hai trường hợp có hậu quả pháp lý khác nhau:
a) Một người phạm tội và đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt;
b) Một người phạm tội nhưng đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội nhưng không bị áp dụng hình phạt mà được miễn hình phạt.
Hai là, đã bổ sung nội dung “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” để bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN và quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như bất cứ sự buộc tội nào đối với họ” và Điều 11 (đã dẫn ở trên), cũng như Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc. Hơn nữa, logic đương nhiên là “người bị buộc tội” mới cần được “suy đoán vô tội”. Ngoài ra, Điều 32 Dự thảo đã bổ sung nội dung “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” cho bảo đảm tương thích với các Công ước quốc tế (đã dẫn), cũng như tôn trọng quyền bào chữa và trợ giúp pháp lý của những người bị buộc tội tương ứng với các giai đoạn TTHS, thậm chỉ bao gồm cả người bị tình nghi (người bị bắt).
Ba là, đã bổ sung cho chính xác trong các giai đoạn tố tụng và thuật ngữ thống nhất trong Bộ luật TTHS về người bị bắt và các người tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, tạm giam) về việc tôn trọng quyền con người của những người này. Khi họ bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Còn người nào làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 293, 294 Bộ luật Hình sự hiện hành
Từ nội dung Điều 32 Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung Điều 72 Hiến pháp hiện hành), chúng tôi xin đóng góp thêm để hoàn thiện Điều luật này, cũng như bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật TTHS như sau:
Một là, về cơ bản, chúng tôi nhất trí với những đề xuất của Ban soạn thảo sửa đổi Hiến pháp về Điều 32 Dự thảo lần này, tuy nhiên, có ba điểm nên sửa đổi, bổ sung bao gồm:
- Khoản 1 Điều 32 Dự thảo quy định: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Sau khi đã bỏ đi cụm từ “và phải chịu hình phạt” nội dung khoản này đã rất đầy đủ. Mặc dù vậy, để bảo đảm nội dung nguyên tắc “suy đoán vô tội” và thống nhất với quy định của Bộ luật TTHS, cũng như tương ứng với các chức năng cơ bản trong TTHS, khoản này nên bổ sung thêm nội dung: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
- Khoản 2 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” nên sửa đổi, bổ sung thành: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị Tòa án kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án” cho bảo đảm đầy đủ nội dung (logic là thẩm quyền kết án chỉ do duy nhất Tòa án, đồng thời không thể bị kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án), đồng thời phù hợp với khoản 7 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc, cũng như nguyên tắc pháp chế XHCN trong Hiến pháp và pháp luật.
- Khoản 3 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” nên sửa đổi, bổ sung thêm cả “những người khác theo quy định của pháp luật” (cùng với người bào chữa). Bởi lẽ, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân (Điều 56), nhưng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 còn quy định cả Trợ giúp viên pháp lý cũng được coi là người bào chữa thực hiện các nhiệm vụ như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện theo pháp luật... (điểm b khoản 3 Điều 21); hoặc dự phòng sau này có thể có thêm chủ thể nào đó được pháp luật quy định có quyền này.
- Khoản 4 Điều 32 Dự thảo quy định: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” nên sửa đổi, bổ sung cho ngắn gọn và thống nhất với Điều 29 Bộ luật TTHS năm 2003, cũng như cần phục hồi cả các quyền lợi khác cho họ ngoài việc bồi thường, khôi phục danh dự (chức vụ, lương bổng...) như sau: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong các hoạt động tố tụng đó gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh theo các quy định củapháp luật”.
Như vậy, Điều 32 Dự thảo Hiến pháp nên sửa đổi, bổ sung như sau:
 
Điều 72 Hiến pháp hiện hành
Điều 32 Dự thảo
Hiến pháp sửa đổi
Kiến nghị sửa đổi
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đó có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không aibị kết án hai lần về một tội phạm mà người đó đã bị kết án.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa và của những người khác theo quy định của pháp luật.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong các hoạt động tố tụng đó gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lýnghiêm minh theo các quy định của pháp luật.
Hai là, thông qua việc hoàn thiện Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, chúng tôi cho rằng, các bộ luật, luật dưới Hiến pháp phải phù hợp và thống nhất với Hiến pháp, vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản. Nếu không phù hợp, mâu thuẫn với Hiến pháp phải sửa đổi, bổ sung. Do đó, liên quan đến nội dung về “suy đoán vô tội”, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 đã gián tiếp thể hiện ởnguyên tắc: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, còn Điều 10 quy định nguyên tắc: “Xác định sự thật vụ án” nhưng nội dung thứ hai của Điều 10 “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” lại phản ánh nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội”. Vì vậy, có ba nội dung cần sửa đổi, bổ sung như sau:
- Sửa đổi tên gọi Điều 9 “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thành tên gọi “suy đoán vô tội” để tránh trùng lặp với nội dung của Điều luật này.
- Nội dung Điều 9 nêu: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” cần sửa đổi vấn đề liên quan đến vế thứ hai “và phải chịu hình phạt…” cho bảo đảm phù hợp với các quy định của BLHS và thực tiễn xét xử, cũng như thống nhất với Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi (đã nêu) với hai trường hợp tương ứng khác nhau.
- Chuyển nội dung thứ hai trong Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 (đã nêu) đưa vào Điều 9 cho phù hợp và phản ánh nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội” (còn Điều 10 chỉ còn một nội dung). Việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với các tư tưởng tiến bộ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc (đã nêu). Ngoài ra, việc bổ sung này còn bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan, người THTT trong việc chứng minh tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Hơn nữa, điều này còn tương thích với pháp luật TTHS nhiều nước (ví dụ: Điều 14 Bộ luật TTHS Liên bang Nga cũng quy định về nguyên tắc “suy đoán vô tội”). Đặc biệt, Điều 48 Bộ luật TTHS có quy định về người tham gia TTHS là “Người bị tạm giữ” - cũng là một chủ thể cần được suy đoán vô tội, do đó, nên bổ sung thêm chủ thể này đầy đủ hơn.
Như vậy, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành
Kiến nghị sửa đổi
Điều 9. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 9. Suy đoán vô tội
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
3. Mọi sự nghi ngờ về tội phạm của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định thì các cơ quan THTT, người THTT phải giải thích theo hướng có lợi cho họ.

Ba là, tương tự, để bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật TTHS, Điều 293 về “Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” và Điều 294 về “Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 nên sửa tên tội và nội dung thay cụm từ “ tội” thành cụm từ “phạm tội” cho đúng với bản chất của hành vi phạm tội do chủ thể có thẩm quyền thực hiện trong từng giai đoạn tương ứng khác nhau (điều tra, truy tố, xét xử).  
Hiện trong khoa học luật hình sự, BLHS và thực tiễn xét xử tồn tại hai khái niệm “người phạm tội” và “người có tội” nên cần có sự phân biệt rạch ròi, chỉ rõ tư cách tham gia tố tụng nhằm bảo đảm quyền lợi và sinh mệnh chính trị cho họ. Thuật ngữ “người phạm tội” dùng để chỉ một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. Nói một cách khác, hành vi do người đó thực hiện đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nào đó được quy định trong Phần các tội phạm BLHS và người thực hiện hành vi đó bị coi là chủ thể của tội phạm (phạm tội là động từ). Trong khi đó, thuật ngữ “người có tội” cũng được sử dụng để xác định một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng thu hẹp hơn với người phạm tội - với họ đã có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (có tội là tính từ). Cho nên, thời điểm phát sinh cơ sở của trách nhiệm hình sự là thời điểm một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng có thể trách nhiệm hình sự sẽ không được thực hiện trên thực tế, nếu có những điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự cho người đó theo quy định của pháp luật hình sự trên những cơ sở chung.
Như vậy, nhằm thực hiện đầy đủ và nghiêm minh các quy định của Hiến pháp và Bộ luật TTHS, chúng tôi cho rằng, tên tội danh và nội dung trong hai điều luật trên trong BLHS nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Hình sự hiện hành
Kiến nghị sửa đổi
Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không  tội
1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
......
Điều 294 - Tội không truy cứu trách nhiệmhình sự người có tội
1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
......
Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không phạm tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
......
Điều 294 - Tội không truy cứu trách nhiệmhình sự người phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là phạm tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
......

Tóm lại, suy đoán vô tội là một nguyên tắc văn minh, tiến bộ trên thế giới và trong pháp luật của nhiều quốc gia. Việc hoàn thiện các nội dung cơ bản của nó và bảo đảm tính thống nhất liên thông trong Hiến pháp, BLHS và Bộ luật TTHS không chỉ có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý quan trọng, mà còn là “lá chắn thép” trong việc phòng chống oan sai, tôn trọng và bảo vệ các giá trị cao quý của con người. Đặc biệt, qua đó còn đề cao trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trước số phận chính trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của công dân, họ vẫn có quyền và nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án./.

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp