Thứ Hai, 13 tháng 12, 2010

HÒA GIẢI DÂN SỰ

Trong vụ án dân sự , luật sư chúng ta tùy điều kiện và tình tiết vụ án, cố gắng thực hiện các thủ tục hòa giải vừa có lợi cho hai bên đương sự, đồng thời có lợi cho luật sư chúng ta.
Căn cứ các qui định của Bộ Luật Dân sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự: Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt bên nào. Các thỏa thuận của các bên không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do vậy, khi có tranh chấp dân sự việc hòa giải của các bên được pháp luật khuyến khích.
Điều 10 của Bộ luật Tố tụng dân sự qui định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự theo qui định của bộ luật này”. Các đương sự gồm có: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, tham gia hòa giải do tòa án tiến hành.
Về trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, nguyên tắc hòa giải phải được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
1. Trường hợp thứ nhất: Hòa giải và chuẩn bị xét xử (hòa giải lần 1)
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; Trừ trường hợp vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được.

- Những vụ án dân sự không được hòa giải, gồm có: Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội (Điều 181 Bộ Luật Tố tụng dân sự).
- Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được, gồm có: Bị đơn đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể hòa giải được vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 182 Bộ Luật Tố tụng dân sự).
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì tòa án lập Biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gởi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải.
Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập Biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được chánh án tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự  nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do sự nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Trường hợp thứ hai: Hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm (hòa giải lần 2)
Tại phiên tòa sơ thẩm, sau khi chủ tọa phiên tòa thực hiện các thủ tục hỏi tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án và sự thỏa thuận của họ là tự nguyện; không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm nêu trên, thì hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo qui định của pháp luật.
3. Trường hợp thứ ba: Hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm (hòa giải lần 3)
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Sau khi chủ tọa phiên tòa thực hiện các thủ tục hỏi đương sự, tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì hội đồng xét xử phúc thẩm ra Bản án phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc chia án phí sơ thẩm; nếu không thỏa thuận được với nhau thì tòa án quyết định theo qui định của pháp luật.
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐOÀN LUẬT SƯ TPHCM

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét