Hiển thị các bài đăng có nhãn tư vấn đầu tư. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tư vấn đầu tư. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Tư vấn đầu tư

Tư vấn về tất cả các lĩnh vực và khía cạnh của đầu tư nước ngoài là một trong những hoạt động tư vấn trọng tâm của NPKlaw. NPKlaw đã và đang tư vấn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua rất nhiều dự án, bao gồm Thiết bị cứu hộ & PCCC, Nhiệt điện, Khai khoáng, luyện thép, Xi măng - Vôi công nghiệp, Xây dựng, phân bón, dược phẩm, hàng tiêu dùng và rất nhiều lĩnh vực khác.

         Phạm vi công việc do chúng tôi thực hiện bao gồm chuẩn bị các văn kiện cần thiết cho việc cấp phép đầu tư và thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam và tại nước ngoài, xem xét cơ cấu công ty hiện thời và cơ cấu đề xuất, đại diện cho khách hàng trong các cuộc đàm phán và thảo luận với các cơ quan chính quyền Trung ương và địa phương và với các đối tác có liên quan. Trong nhiều trường hợp, chúng tôi là luật sư tư vấn chung cho các công ty và tư vấn cho các công ty trong suốt quá trình hoạt động - từ khi công ty mới được cấp phép đầu tư và trong mọi bước phát triển và hoạt động của công ty. Chúng tôi là luật sư tư vấn các vấn đề luật Việt Nam và các quốc gia liên quan trong lĩnh vực đầu tư của các hãng KFT, CNBM, HUDEC, HAVALGROUP, SEOHEE GROUP, DONGAH GROUP, POSCO E&C, MORITA, SIC-LIME, TERRUZI -FERCALX, F.L SMITH, EYEFIVE INC, SITHONG, LUVINA, HITACHI, XCMG, LIUGONG, HH GROUP, GLOBAL CONNECTION INC..vv.

          Các luật sư của chúng tôi đặc biệt có kinh nghiệm tư vấn trong các giao dịch đầu tư trong nước và có yếu tố nước ngoài - các giao dịch mua bán, sát nhập, và liên doanh, cũng như các giao dịch đầu tư chứng khoán vốn và các giao dịch làm thay đổi quyền kiểm soát công ty. Chúng tôi cũng tư vấn cho các công ty liên quan đến các quan hệ hợp đồng với các khách hàng, nhà cung cấp và nhà phân phối trong nước và quốc tế. Cụ thể là các dịch vụ pháp lý chính sau:
       -  Tư vấn, phân tích, thống kê số liệu theo chủ đề về chính sách, pháp luật đầu tư của Việt Nam;
       -  Tư vấn tìm kiếm đối tác, dự án cần hợp tác đầu tư trong nước;
-  Tư vấn hoàn thiện các giải pháp cho dự án đầu tư, soạn thảo, chuẩn bị hồ sơ cần thiết để xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho dự án; cung cấp dịch vụ đại diện pháp lý cho nhà đầu tư để hoàn tất các thủ tục đăng ký đầu tư cũng như các thủ tục sau giấy phép tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
-  Tư vấn soạn thảo, đàm phán, ký kết các hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, thỏa thuận đầu tư;
-  Tư vấn cho nhà đầu tư trong nước tiến hành các hoạt động đầu tư tại nước ngoài;
-  Cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
          Nếu quý vị cần thêm thông tin để biết NPKlaw có thể hỗ trợ mình về những vấn đề liên quan đến đầu tư, xin vui lòng liên hệ các luật sư Thành viên của chúng tôi qua email:  info@npklaw.com hoặc liên hệ trực tiếp đến số: +84 988 505 572.

Advice on all the sector and aspect of foreign investment is one of the core activities of NPKlaw. NPKlaw has advised for investors at home and abroad through a variety of projects, including rescue & fire fighting equipment, thermal-power plant, mining, steel, cement - lime industry, Construction, fertilizer, pharmaceutical, consumer goods, and many other fields.
The our scope of work including preparation of necessary documents for getting investment license and establishment of enterprise in Vietnam and abroad, considering the current structure and proposed re-structure , representative for clients in negotiation and discussion with the central and local government agencies and related partners. In many cases, we are general counsel for companies and advising during its operation - from the new company is licensed unitl all its investment and development activities. We counsel all matters law of Vietnam and the related countries in the investment field for KFT, CNBM, Hudec, HAVALGROUP, SEOHEE GROUP, DongAh GROUP, POSCO E&C, MORITA, SIC-LIME, TERRUZI-FERCALX, FL SMITH, INC. EYEFIVE, Sithong, Luvina, HITACHI, XCMG, Liugong, HH GROUP, GLOBAL CONNECTION INC .. etc..
   Our lawyers have particular experience in counseling investment transactions in the domestic and foreign elements - sales, merger & acquisition and joint venture transactions, as well as investment in securities, capital transactions and company control change transactions. We also advise companies regarding the contractual relationship with clients, suppliers and distributors in domestic and abroad. especially, the following main legal services:
       - Consulting, analysis, statistical data on the topic of policy, investment law of Vietnam;
       - Consulting partner search, projects looking for  domestic investors;
    - Consulting to complete solutions for investment projects, drafting and preparing necessary documents to apply for getting certificate of investment project; providing legal representation services for investors to complete procedures for investment registration and licensing procedures at the state agencies;
     - Consulting of drafting, negotiating and signing the joint venture agreement, business cooperation contracts, investment agreements;
       - Consulting for domestic investors to conduct investment activities in foreign countries;
       - Provide annual  legal advice to FDI enterprises in Vietnam.
       If you need more information to know NPKlaw can support on issues related to investment, please contact our lawyers through email: info@npklaw.com or contact followed number: +84.988.505.572.

.................................................................................................
NPKlaw & Associates firm - MINH LONG LAW OFFICE
Office: No 078 Doc Ngu Str, Ba Dinh Dist, Ha Noi, Viet Nam
Hotline: +84.988.505.572 - +84.913.579.801
Tel: 84-4-3 211 5053
Fax: 84-4-3 211 5054
          nghiempk@npklaw.com
-------------------------------------------------------------------------------------------------

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013

Về cơ chế chống chuyển giá trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế

Chính sách quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá trong giai đoạn vừa qua đã có những bước thay đổi tích cực cả về mặt pháp lý và thực tế ứng dụng. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình mới, dựa vào Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đã được phê duyệt, Bộ Tài chính đã soạn thảo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế.

Thỏa thuận xác định giá trước và khả năng áp dụng trong hoạt động quản lý thuế
Chính sách quản lý thuế  đối với hoạt động chuyển giá trong giai đoạn vừa qua đã có những bước thay đổi tích cực cả về mặt pháp lý và thực tế ứng dụng. Về cơ bản, các quy định về xác định giá thị trường đối với sản phẩm trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết được dựa trên hướng dẫn của OECD, phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cụ thể, Thông tư 66/2010/TT-BTC ngày 22/4/2010 của Bộ Tài chính (Thông tư 66) về cơ bản đã điều chỉnh được các hành vi chuyển giá của doanh nghiệp liên kết. Việc quy định các bên liên kết đã rõ ràng, cụ thể hơn các quy định trước đây. Đặc biệt, nguồn thông tin, dữ liệu được phép sử dụng để phân tích, so sánh về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu xác định giá thị trường của doanh nghiệp và cơ quan thuế, như: (i) quy định về khác biệt trọng yếu trong so sánh giao dịch liên kết với giao dịch độc lập đã được lượng hóa, không chỉ mang tính định tính như quy định trước đây, đảm bảo cho việc hiểu và áp dụng thống nhất giữa cơ quan thuế với người nộp thuế và giữa nội bộ cơ quan thuế với nhau; (ii) hướng dẫn về xác định giá thị trường đã được quy định riêng đối với trường hợp mua và trường hợp bán, đảm bảo thống nhất giữa nguyên tắc chung với việc hướng dẫn cụ thể về xác định giá thị trường; (iii) mẫu biểu kê khai thông tin giao dịch liên kết được quy định cụ thể, rõ ràng hơn, thuận tiện co việc kê khai của người nộp thuế…
Việc ban hành và thực hiện Thông tư 66 đã góp phần nâng cao hiệu quả Quản lý thuế, tăng cường thu cho ngân sách nhà nước, góp phần bảo vệ lợi ích và quyền đánh thuế của quốc gia và đảm bảo công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp. “Nhờ có Thông tư 66, trong năm 2011, ngành thuế đã kiểm tra và truy thu khoảng 6.009 tỷ đồng tiền thuế…”.
Tuy nhiên, các quy định hiện hành còn hạn chế quyền hạn của cơ quan thuế, hình thức xử lý đối với doanh nghiệp có hành vi chuyển giá tránh thuế còn quá nhẹ, quy định xác định giá thị trường chưa được linh hoạt đối với một số doanh nghiệp có giao dịch liên kết, quá trình thực hiện của người nộp thuế cũng như cơ quan thuế chưa thực sự thuận tiện. Các biểu hiện cụ thể là:
- Việc quản lý giá giao dịch chuyển giao sản phẩm giữa các bên liên kết chưa được quy định một cách cụ thể trong luật hiện hành;
- Hành vi chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tinh vi, phức tạp, do vậy thời gian để xử lý giải quyết cho một vụ việc chuyển giá thường bị kéo dài. Một trong những khó khăn lớn, đó là căn cứ xử lý về ấn định giá vì cơ quan thuế rất khó xác định giá giao dịch thông thường trên thị trường (giá thỏa thuận khách quan giữa các bên không có quan hệ liên kết). Hiện nay, việc xác định quan hệ liên kết rất khó khăn, sự mua, bán có thể diễn ra qua các khâu trung gian (ngoài các đối tượng liên kết theo quy định tại Thông tư 66) theo sự chỉ định của nhà đầu tư mà cơ quan quản lý Nhà nước chưa có văn bản để chế tài. Mặt khác, hàng hóa lại rất đa dạng, giá cả còn tùy thuộc vào uy tín nhãn hiệu, thị hiếu người tiêu dùng… Do đó, việc quy định cùng mặt hàng trong việc xác định giá cả là chưa phù hợp, cần phải có tiêu chí xác định cho từng ngành nghề cụ thể…
- Mức độ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với các trường hợp chuyển giá còn quá nhẹ, quy định chung với các hành vi vi phạm khác về thuế (quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành, tại Nghị định số 98/2007/NĐ-CP và Thông tư số 61/2007/TT-BTC) mà chưa có hình thức xử phạt riêng, nghiêm khắc hơn nên chưa đủ sức răn đe đối với người nộp thuế có hành vi chuyển giá tránh thuế (trường hợp cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp liên kết, thực hiện điều chỉnh giá làm giảm lỗ của doanh nghiệp thì cũng không có chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với doanh nghiệp; trường hợp cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp liên kết, thực hiện điều chỉnh giá làm tăng số thuế thu nhập doanh nghiệp thì cũng chỉ xử phạt kê khai sai (10%) và phạt chậm nộp (0,05%/1 ngày chậm nộp). Các trường hợp chuyển giá dẫn tới số lỗ lũy kế bằng hoặc vượt số vốn chủ sở hữu thì cũng chưa có quy định bắt buộc người nộp thuế không được hoàn thuế giá trị gia tăng hoặc phải giải thể doanh nghiệp;
- Thanh tra thuế đối với hoạt động chuyển giá là lĩnh vực quản lý khó, phức tạp, tốn nhiều thời gian và nguồn lực để thu thập thông tin, phân tích, so sánh, loại trừ khác biệt ảnh hưởng đến đơn giá sản phẩm được chuyển giao, lựa chọn và áp dụng phương pháp xác định giá thị trường… Tuy nhiên, theo quy định của Luật Thanh tra hiện hành, không quy định riêng thời gian thanh tra thuế đối với hoạt động chuyển giá mà quy định chung như thời gian thanh tra thuế đối với các trường hợp thông thường khác. Hạn chế này đã dẫn tới các hiệu qủa thanh tra về giá chuyển nhượng trong giai đoạn vừa qua chưa cao;
- Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp liên kết tại Việt Nam ngày càng phổ biến, tinh vi và phức tạp. Để Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá đạt hiệu quả cao, cơ quan thuế cần thiết có quyền điều tra để xác định hành vi chuyển giá của người nộp thuế. Tuy nhiên, tại các văn bản pháp quy hiện hành không quy định cơ quan thuế có quyền điều tra;
- Chưa cho phép áp dụng cơ chế thỏa thuận trước giữa cơ quan thuế và người nộp thuế về giá giao dịch liên kết của người nộp thuế trong tương lai (APA);
- Quy định về kê khai thông tin giao dịch liên kết chưa thực sự giảm thiểu gánh nặng thực hiện nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp có hành vi chuyển giá thông qua các giao dịch liên kết có giá trị nhỏ sẽ ảnh hưởng không đáng kể đến số thu ngân sách nhà nước và lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành của Việt Nam, doanh nghiệp vẫn phải xác định giá thị trường và kê khai đối với giao dịch liên kết có giá trị nhỏ trong khi chi phí và thời gian xác định giá thị trường, kê khai với cơ quan thuế là đáng kể và không thấp hơn đối với việc xác định giá thị trường và kê khai giao dịch lớn.
Những hạn chế trên về Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá như nêu trên có thể do các nguyên nhân như sau:
- Việt Nam đã có quy định về việc doanh nghiệp tự tính thuế, tự khai thuế và tự chịu trách nhiệm trong việc chấp hành, tuy nhiên, ý thức tuân thủ về xác định giá thị trường của doanh nghiệp trong giai đoạn 2006-2009 rất thấp. Việc không tuân thủ kê khai thông tin giao dịch liên kết là lý do chính của việc doanh nghiệp chưa phát hiện vướng mắc về chính sách để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung chính sách QLT được kịp thời;
- Việc Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá trong giai đoạn vừa quan của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chưa được coi là nhiệm vụ cấp bách, cơ quan thuế chưa có đội ngũ công chức chuyên nghiệp, chuyên sâu về lĩnh vực giá chuyển nhượng và có kinh nghiệm thực tiễn trong việc thanh tra, kiểm tra, lập hồ sơ xác định giá thị trường đối với giao dịch liên kết. Đây là nguyên nhân hạn chế trong việc rà soát vướng mắc, đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá kịp thời.
Một số điều khoản mới trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế
Từ các nguyên nhân gây ra các hạn chế trên, dựa vào Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đã được phê duyệt, Bộ Tài chính đã soạn thảo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật QLT (Dự thảo). Bản Dự thảo có một số điều khoản mới và quan trọng như:
Các quy định áp dụng cơ chế xác định trước về giá tính thuế (APA).
Cơ quan thuế được quyền ấn định thuế dựa trên doanh thu trong trường hợp vi phạm pháp luật về thuế.
Doanh nghiệp phát sinh lỗ có thể bị kiểm tra định kỳ, thu hồi giấy phép kinh doanh và mã số thuế.
Cơ quan thuế Việt Nam được phép thu thập các thông tin từ cơ quan thuế của những nước có ký kết hiệp định thuế với Việt Nam.
Cơ quan thuế được trao quyền điều tra hình sự đối với vi phạm pháp luật về thuế.
Cơ chế xác định trước về giá tính thuế (Advance Pricing Arrangement –APA)
Hiện tại, pháp luật thuế của Việt Nam chưa có quy định cho phép cơ quan thuế và người nộp thuế ký kết thực hiện APA. Dự thảo bổ sung một số điều khoản tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng cơ chế xác định trước về giá tính thuế tại Việt Nam. APA là một thỏa thuận có hiệu lực thi hành trong một khoảng thời gian không quá 05 năm, xác định các căn cứ tính thuế và phương pháp xác định giá thị trường của các giao dịch liên kết do cơ quan Quản lý thuế xác định trước khi doanh nghiệp nộp tờ khai Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và tờ khai hải quan có liên quan.
Thực tế APA là vấn đề mới nên Bộ Tài chính đang triển khai thực hiện thí điểm cho phép một vài doanh nghiệp lớn hoạt động tại Việt Nam được ký kết và áp dụng để Bộ Tài chinh có kinh nghiệm và cơ sở lựa chọn những phương án phù hợp trước khi ban hành các quy định hướng dẫn thực hiện APA (đang thí điểm tại tập đoàn Samsung).
Ấn định thuế TNDN dựa trên doanh thu
Dự thảo cho phép cơ quan thuế được quyền ấn định thuế khi người nộp thuế vi phạm pháp luật về thuế (bao gồm cả quy định về xác định giá thị trường) theo phương pháp dựa trên doanh thu sử dụng tỷ lệ giá trị gia tăng hoặc tỷ suất lợi nhuận do Bộ Tài chính quy định áp dụng đối với từng ngành nghề và hoạt động kinh doanh cho từng thời kỳ nhất định.
Kiểm tra định kỳ và thu hồi giấy phép kinh doanh đối với các doanh nghiệp phát sinh lỗ
Dự thảo đề xuất đưa những doanh nghiệp có số lỗ chiếm từ 50% trở lên nhưng chưa vượt quá số vốn chủ sở hữu vào diện phải kiểm tra thuế định kỳ, thu hồi giấy phép kinh doanh, vô hiệu hoá mã số thuế và đình chỉ việc sản xuất kinh doanh.
Mở rộng thu thập thông tin về người nộp thuế từ nguồn ở nước ngoài
Dự thảo cho phép cơ quan Quản lý thuế thu thập, xử lý thông tin bao gồm cả việc thu thập và sử dụng các thông tin do cơ quan thuế của những nước đã ký kết hiệp định với Việt Nam về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập, nhằm phục vụ cho công tác Quản lý thuế, trong đó có quản lý vấn đề chuyển giá.
Giao chức năng điều tra hình sự cho cơ quan thuế
Theo quy định của Dự thảo, cơ quan thuế được quyền điều tra hình sự về hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, nếu trốn thuế từ 100 triệu đồng Việt Nam trở lên (khoảng 4.900 Đô la Mỹ) thì người nộp thuế có thể bị điều tra và xử lý hình sự.
Thỏa thuận xác định giá trước
Từ những dự kiến sửa đổi, bổ sung một số quy định về thuế và xác định giá thị trường, Luật Quản lý thuế sẽ có nội dung về thỏa thuận định giá trước. Theo đó, cơ quan thuế sẽ tham khảo và tính toán, đưa ra mức thuế rồi trao đổi với nhà đầu tư trước khi đầu tư. Khi phương thức thỏa thuận giá định trước được tuân thủ nghiêm ngặt, nguy cơ điều chỉnh chuyển giá sẽ được loại trừ. Doanh nghiệp liên quan cũng sẽ giảm bớt được thủ tục giấy tờ và tiết kiệm chi phí vì thời gian thực hiện một cuộc thanh tra chuyển giá rất dài và phải chuẩn bị rất nhiều tài liệu để xác định giá thị trường. Hơn nữa, việc dự kiến ban hành quy định về APA sẽ giúp cải thiện tính minh bạch về quy trình Quản lý thuế thông qua việc tham gia của cả cơ quan thuế và người nộp thuế vào một thỏa thuận ràng buộc và giúp hai bên kiểm soát và theo dõi tốt hơn các vấn đề về xác định giá thị trường. APA không chỉ tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp tuân thủ tốt hơn các quy định về xác định giá thị trường mà còn làm tăng khả năng chắc chắn của việc tuân thủ thông qua việc giảm thiểu hoặc tránh nguy cơ bị thanh tra về chuyển giá trong thời hạn áp dụng APA. APA cũng giúp ngăn ngừa việc đánh thuế trùng.
Điều kiện áp dụng thỏa thuận xác định giá trước
Để hiểu rõ hơn APA và việc đưa APA vào luật Quản lý thuế có gì ưu việt hơn so với các cuộc thanh tra giá chuyển nhượng, chúng ta sẽ so sánh giữa APA và thanh tra giá chuyển nhượng.
- Cả APA và thanh tra giá chuyển nhượng đều nhằm mục đích xác định giá thị trường của giao dịch liên kết giữa các bên có quan hệ liên kết, nhưng thanh tra giá chuyển nhượng là xác định giá thị trường cho các năm trước còn APA là thỏa thuận giá thị trường cho các năm tiếp theo. Thanh tra giá chuyển nhượng do cơ quan thuế ấn định một mức giá thị trường cụ thể để tính thuế và người nộp thuế có nghĩa vụ chứng minh, còn APA thì có sự thỏa thuận giữa cơ quan thuế và người nộp thuế và thường sử dụng một khoảng giá để tính toán, điều này phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Trong việc lựa chọn số liệu so sánh, thanh tra giá chuyển nhượng có thể sử dụng số liệu không công khai, số liệu được cập nhập từ hệ thống dữ liệu của ngành thuế và chỉ ngành thuế được khai thác, nhưng khi thỏa thuận xác định giá trước, đối tượng nộp thuế chỉ có thể sử dụng những thông tin được công khai và số liệu thông tin nội bộ.
Như vậy, khi so sánh APA và thanh tra giá chuyển nhượng, chúng ta dễ dàng thấy, APA được thỏa thuận trong khuôn khổ đàm phán, vì vậy nó sẽ tránh đánh thuế hai lần ngay từ đầu; đẩy nhanh quá trình hoàn tất thủ tục; tạo thuận lợi cho việc đánh thuế trên giá chuyển nhượng; giảm bớt gánh nặng về hành chính công cho doanh nghiệp; bảo đảm khả năng tiên liệu về thuế cho ban lãnh đạo công ty; cơ quan thuế chủ động hơn trong việc thu thuế vì APA có sự đảm bảo nhất định về khả năng thu.
_________________
Tài liệu tham khảo:
Báo cáo của Bộ Tài chính tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII, ngày 24/11/2011.
Tổng cục Thuế, Báo cáo kết quả khảo sát “Thực trạng QLT đối với hoạt động chuyển giá giữa doanh nghiệp Việt Nam với các bên liên kết giai đoạn 2006-2010”, 2011, Hà Nội.

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Chiến lược “mượn xác” của nhà đầu tư ngoại


Gần đây, nếu để ý sẽ thấy một số doanh nghiệp tại Việt Nam, sau khi được nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần chi phối, thì sự hiện diện của họ trở nên mờ nhạt hơn so với trước đó. Điểm dễ thấy nhất là hoạt động kinh doanh đi theo chiều hướng xấu hơn hay các hoạt động quảng bá sản phẩm đã không còn được chăm chút kỹ nữa. Phải chăng khi mua doanh nghiệp Việt, không ít nhà đầu tư ngoại chỉ quan tâm đến phần xác là hệ thống phân phối, chi nhánh, đại lý...; phần hồn là sản phẩm và thương hiệu không phải là đích nhắm của họ?

Kinh doanh lỗ lã, thương hiệu mờ nhạt

Chuyện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đi xuống sau mua bán và sáp nhập không phải là hiếm. Một ví dụ là Công ty Thực phẩm Quốc tế (IFS). IFS là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, được Trade Ocean Holdings Sdn Bhd (Malaysia) thành lập vào năm 1991. Đến năm 2006, IFS niêm yết 23% vốn tại Sàn Giao dịch TP.HCM (HoSE).
Hồi đầu năm 2011, Kirin, tập đoàn thực phẩm hàng đầu của Nhật, đã mua lại 57% vốn từ các thành viên sáng lập và mua tiếp 23% cổ phiếu niêm yết nữa sau đó. Đến nay, Kirin sở hữu 80% vốn IFS. Sau 2 năm về dưới trướng của Kirin, tình hình kinh doanh của IFS vẫn không có triển vọng gì sáng sủa. Điều khiến nhà đầu tư băn khoăn là không phải IFS không có điều kiện để tạo ra lợi nhuận.
Về mặt thương hiệu, Wonderfarm là cái tên đã rất quen thuộc trên thị trường. Ngoài dòng sản phẩm chủ lực là nước yến và trà bí đao, IFS liên tục giới thiệu nhiều nhóm sản phẩm mới khác như nước dừa (thực phẩm chế biến), nước xá xị (có gas), nước trái cây (10 loại), 4 nhóm bánh (23 loại) và trà xanh Wonderfarm. Về lợi thế kinh doanh, IFS sở hữu hệ thống phân phối đến 110.000 điểm bán hàng. IFS cũng được công ty mẹ Kirin cho vay vốn với lãi suất 0% năm 2011 và 1,7% năm 2012 (USD). Điều này đã giúp giảm đáng kể chi phí lãi vay của Công ty qua các năm.
Mặc dù có nhiều lợi thế cạnh tranh nhưng IFS vẫn báo lỗ 2 năm liên tiếp. Nếu đặt hoạt động kinh doanh của IFS trong bối cảnh nhóm ngành nước giải khát, kết quả kinh doanh này cũng không tương xứng. Theo Công ty Truyền thông Tài chính StoxPlus, tỉ suất lợi nhuận của nhóm ngành nước giải khát đạt xấp xỉ 20% trong năm 2012.
Lần giở báo cáo tài chính của IFS lại thấy giá vốn hàng bán, chi phí quản lý và chi phí tài chính liên tục giảm từ năm 2010. Tuy nhiên, chi phí bán hàng và chi phí khác tăng mạnh, khiến IFS lỗ lớn. Ở điểm này lại phát sinh một khúc mắc khác. Chẳng hạn, trong quý IV/2012, IFS thuyết minh chi phí hoa hồng chiếm đến 50% tổng chi phí. Nhưng theo lẽ thường, hoa hồng cho đại lý và nhà phân phối tăng nghĩa là doanh nghiệp bán được hàng và doanh thu tăng. Vậy mà doanh thu của IFS cứ liên tục giảm kể từ năm 2010 đến nay.
Một chuyện khó hiểu nữa là IFS quyết định thanh lý tài sản không sử dụng trong năm 2012 có giá trị hơn 45 tỉ đồng, làm phát sinh chi phí khác. Nhưng giá trị thanh lý lại không được ghi nhận vào mục thu nhập khác.

Đi đường vòng

Theo IFS, nguyên nhân lỗ lớn liên tục 2 năm qua là chi phí tăng mạnh, nhất là chi phí bán hàng vượt cả lợi nhuận bán hàng. Tuy nhiên, một chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong ngành thực phẩm tiêu dùng (không muốn nêu tên) cho rằng giải thích này vẫn chưa đủ sức thuyết phục nhà đầu tư. Đi tìm lý do thực sự đằng sau các khoản lỗ lớn này cũng không phải là điều dễ dàng.
IFS từng là doanh nghiệp bị phạt và truy thu thuế (giai đoạn 2007 - 2009) gần 12 tỉ đồng. Cùng với quyết định hủy niêm yết trong năm 2013, IFS có khả năng đang nằm trong diện nghi vấn chuyển giá. Năng lực quản lý của một tập đoàn thực phẩm đa quốc gia như Kirin với hệ thống phân phối rộng lớn của IFS lại không thể tạo ra lợi nhuận là cơ sở cho sự hoài nghi này.
Vị chuyên gia trên cho rằng, khả năng rất lớn là Kirin đang chuyển hệ thống phân phối các sản phẩm của IFS sang cho mình. Theo đó, các sản phẩm mang thương hiệu Wonderfarm sẽ không còn được ưu tiên như trước. Về lâu dài, sản phẩm thương hiệu Wonderfarm sẽ dần biến mất và được thay thế bằng thương hiệu Kirin.
Nhưng tại sao Kirin lại không muốn giữ thương hiệu Wonderfarm? Mấu chốt vấn đề nằm ở sản phẩm chính của Kirin. Theo thông tin Kirin Holdings công bố trên website, sản phẩm chính của họ là các thức uống có cồn và riêng sản phẩm bia, Kirin đã có thị phần đứng đầu ở Nhật. Tập đoàn này cũng có một vài loại thức uống không cồn khác nhưng không đáng kể. Trước mắt, họ có thể giữ lại những thương hiệu lâu đời của IFS song hành với các sản phẩm mới do họ đưa vào. Nhưng về lâu dài, các sản phẩm với chất lượng quốc tế của họ với sức cạnh tranh cao có thể sẽ lấn lướt các sản phẩm của IFS trong hệ thống phân phối có sẵn của doanh nghiệp này.
Từ những ngày đầu mua IFS, Kirin cũng thừa nhận, nhà đầu tư mới phải mất ít nhất 5 năm để chiếm lĩnh thị trường Việt Nam nếu chỉ bằng tự lực. Do đó, Kirin chấp nhận đi đường vòng như một số thương hiệu nước ngoài để rút ngắn thời gian.
Việc sản phẩm mang thương hiệu trong nước được doanh nghiệp nước ngoài mua và dần biến mất đã xảy ra không ít lần ở Việt Nam. Bibica cũng đang đối mặt với áp lực này. Tuy nhiên, Bibica có dòng sản phẩm tương đồng với đối thủ nước ngoài nên quá trình thay thế sẽ kéo dài. Hay lúc Unilever mua P/S thì thương hiệu này đang chiếm lĩnh thị trường trong nước nên đã được giữ lại. “Đằng này, sản phẩm nước giải khát của IFS lại không phải là mục tiêu Kirin quan tâm nên quá trình thay thế chắc chắn sẽ diễn ra khốc liệt hơn”, vị chuyên gia nói trên nhận xét.

Theo NCĐT

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

Mô hình công ty SPV la gì?


Sau vụ Sacombank Bị thâu tóm, thị trường mới biết ngân hàng vẫn có cách lách quy định sở hữu tối đa 15% cổ phần ở ngân hàng khác, bằng cách đồng sở hữu với các công ty liên quan.
Những cái tên như Đầu tư Sài Gòn Exim, Đầu tư Sài Gòn Á Châu chỉ mới xuất hiện trong đợt thâu tóm này và khiến người ta liên tưởng đến các công ty SPV (Special Purpose Vehicle) trên thế giới. SPV là những công ty con được thành lập để thực hiện một nhiệm vụ nào đó, thường là giúp làm sạch báo cáo tài chính của công ty mẹ. Hình thức này đã có từ lâu trên thế giới nhưng có vẻ còn lạ với nhiều nhà đầu tư Việt Nam.
Chuyện SPV ở Mỹ
Khái niệm công ty SPV được nhắc đến ở Mỹ từ lâu, nhưng đến khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nổ ra giới tài chính mới chú ý nhiều hơn đến loại hình công ty này.
Cuộc khủng hoảng hình thành ở Mỹ và lan nhanh ra toàn thế giới bắt nguồn từ tình trạng bong bóng giá bất động sản. Nguyên nhân sâu xa của nó chính là tình trạng cho vay dưới chuẩn tràn lan của các ngân hàng ở nền kinh tế hàng đầu thế giới này.
Các thống kê kinh tế cho thấy, các ngân hàng Mỹ đã duy trì mức lãi suất thấp trong một thời gian dài. Cá biệt, từ giữa năm 2003 đến giữa năm 2004, lãi suất cho vay chỉ 1%/năm. Lãi suất thấp tạo điều kiện cho người dân đổ xô vay tiền mua nhà, đất. Tham lợi nhuận, các ngân hàng sẵn sàng cho vay cả những đối tượng không đủ tiêu chuẩn vay. Hệ quả là nguồn tiền dồi dào này đã khiến giá bất động sản bị đẩy cao hơn giá trị thực một cách nhanh chóng.
Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ các ngân hàng không muốn một mình gánh chịu rủi ro từ các khoản nợ khổng lồ này. Họ đã gom các khoản nợ lại thành một gói, rồi chia nhỏ ra thành các cổ phần và bán cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư sẽ được hưởng phần lớn lãi suất của người vay trả định kỳ; ngân hàng nhận phần nhỏ xem như phí quản lý.
Sau khi bán nợ, các ngân hàng đã lập ra những công ty SPV chỉ để quản lý các khoản nợ này. Vậy là báo cáo tài chính của ngân hàng đã sạch. Thậm chí, các ngân hàng còn được lợi nhờ có thêm nguồn tiền mới để cho vay. Trong trường hợp người vay không trả được nợ, các công ty SPV và nhà đầu tư phải chịu. Nói cách khác, các công ty SPV lúc này được lập ra để xử lý nợ xấu cho ngân hàng.
Về hình thức, ngân hàng chỉ sở hữu dưới 51% cổ phần ở các công ty này để không phải giải thích thêm trong báo cáo tài chính. Vì vậy, dù về thực chất ngân hàng có khả năng chi phối mọi hoạt động của SPV, nhưng về mặt luật pháp mối liên hệ với SPV chỉ là khoản đầu tư dài hạn. Rất nhiều công ty SPV tồn tại được nhờ sự xếp hạng hời hợt và đáng ngờ của các công ty đánh giá tín nhiệm của Mỹ thời đó.
... Và ở Việt Nam
Chuyện lập ra các công ty SPV ở Việt Nam còn khá mới và những công ty như Đầu tư Sài Gòn Exim, Đầu tư Sài Gòn Á Châu... có thể được xem là những ví dụ đầu tiên của mô hình này.
Theo chuyên viên nghiên cứu của một quỹ đầu tư tại TP.HCM (không muốn nêu tên), hình thức này đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 2006, 2007. “Một tập đoàn nọ có trụ sở ở TP.HCM đã nhờ nhân viên đứng tên lập ra hàng trăm công ty kiểu này nhằm xử lý các khoản nợ xấu của công ty mẹ trong nhiều năm qua. Nói không ngoa, có lẽ chính vị chủ tịch đó bây giờ cũng không nhớ tập đoàn mình có bao nhiêu công ty con”, ông này nói.
Các SPV ở Việt Nam cũng tồn tại với hình thức tương tự như ở Mỹ. Chẳng hạn, Eximbank chỉ sở hữu 11% cổ phần của Công ty Đầu tư Sài Gòn Exim dưới dạng đầu tư. Vị chuyên viên trên đánh giá, để nắm được quyền chi phối, số cổ phần còn lại có thể từ nguồn tiền cá nhân của những người thuộc nhóm đi thâu tóm. Vì thế, thị trường không dễ nhận biết và cơ quan quản lý cũng khó kiểm soát.
Ngoài 2 công ty vừa nêu, thời gian gần đây thị trường còn chứng kiến một số giao dịch đáng ngờ có nguồn gốc từ các công ty kiểu này.
Trường hợp của Chứng khoán Sacombank (SBS) là một ví dụ. Vào quý II/2011, SBS báo lỗ 163 tỉ đồng. Cuối năm, con số được nâng lên 610 tỉ đồng và sau kiểm toán, Công ty báo lỗ 788 tỉ đồng. Đến quý I/2012, SBS báo lỗ thêm 660 tỉ đồng. Nhà đầu tư khi đó đã đặt nghi vấn phải chăng SBS đang gánh trách nhiệm chịu lỗ thay công ty mẹ là Ngân hàng Sacombank.
Ông Alan Phan, Chủ tịch Quỹ Đầu tư Viasa, cho biết chuyện lập công ty SPV ở Mỹ là hợp pháp. Bởi lẽ, khi công ty có hoạt động gì mọi cổ đông đều được biết. Bên cạnh đó, Ủy ban Chứng khoán Mỹ hoàn toàn có thể kiểm tra dòng tiền ở các công ty này. Tuy nhiên, nếu lập ra với mục đích giấu nợ thì lại là phạm pháp.
Ở Việt Nam thì khác. Dòng tiền chảy đi từ một công ty khó phân biệt rõ ràng do có nhiều nguồn gốc khác nhau và không thể hiện rõ trên báo cáo tài chính. Đó có thể là khoản cho vay, khoản cầm cố chứng khoán hoặc ủy thác đầu tư..., nhưng khi thể hiện trên báo cáo tài chính đều chỉ được ghi vào các khoản “khác” như khoản phải thu khác, tài sản có khác...

Theo: Nhịp Cầu Đầu tư

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

Lãnh đạo cá nhân hay lãnh đạo tập thể?

Nhiều người vẫn cho rằng, CEO là người duy nhất có khả năng làm thay đổi cả công ty. Lối tư duy này không chỉ đáng ngại mà còn thiếu công bằng.
Hiện nay, chúng ta cần phải có sự đổi mới về tư duy. Tất cả các ngành nghề như xuất bản, tài chính, ôtô, bất động sản... thậm chí cả nhiều quốc gia cũng đang trải qua quá trình cải cách. Những nền kinh tế từng hùng mạnh một thời đang rơi vào suy thoái, còn những nền kinh tế mới nổi lại vừa cạnh tranh vừa hợp tác với các cường quốc ấy. Mô hình thương mại mới đã thay thế mô hình xưa cũ, những mô hình mới này lấy phần mềm điện toán và dịch vụ làm trung tâm. Thế giới đang ngày càng phức tạp, các CEO trên thế giới với vai trò là người lãnh đạo doanh nghiệp, sẽ khó hành động một cách đơn độc. Doanh nhân chỉ có thể đối đầu với những thách thức trong tương lai khi và chỉ khi xây dựng và duy trì được một tập thể lãnh đạo hùng mạnh, linh hoạt, đa dạng và đoàn kết mật thiết xung quanh mình.
Năm 2010, Tập đoàn IBM đã tiến hành một cuộc điều tra đối với hơn 1.500 CEO trên toàn cầu. Kết quả cho thấy, 79% số CEO được hỏi cho rằng họ sẽ phải đối mặt với tình hình khó khăn phức tạp gấp bội so với hiện tại. Tỉ lệ này cho thấy, ý kiến, tư duy và kinh nghiệm đơn nhất của nhà lãnh đạo doanh nghiệp sẽ không thể đủ cho nền tảng thành công của một công ty.
Năm 2011, Tập đoàn IBM tiếp tục thực hiện điều tra thu thập thông tin đối với hơn 3.000 Giám đốc Công nghệ thông tin (CIO) trên toàn cầu. Kết quả cho thấy so với bất cứ giai đoạn nào trong quá khứ, hiện nay CEO và CIO đoàn kết mật thiết hơn rất nhiều, họ sử dụng các phát minh công nghệ thông tin mới để nâng cao thành tích kinh doanh của công ty.
Các kết quả điều tra của IBM đã chỉ rõ, cho dù lãnh đạo tập thể trước mắt vẫn chưa phải là mục tiêu của các nhà quản lý, nhưng sức nặng tương quan giữa quyết định tập thể và quyết định cá nhân đã ngày càng có sự chuyển dịch, và ngày càng rõ rệt hơn.
Một điều thú vị là, IBM luôn là một tổ chức thực hành mô hình lãnh đạo tập thể. Trong suốt tiến trình phát triển của mình, công ty này đã tạo ra một đội ngũ lãnh đạo hùng mạnh. Ngay cả khi Louis V. Gerstner, người được đánh giá là CEO giàu sức hút nhất của IBM, từ nhiệm, IBM vẫn tiếp tục lớn mạnh. Năm 2002, Gerstner, người đã xoay chuyển một đế chế IBM đang suy tàn quay lại thời thịnh vượng, đột ngột từ chức. Khi đó rất nhiều người trong công ty này lo ngại sẽ xuất hiện một khoảng trống lãnh đạo. Tình hình khi đó chẳng khác gì ở Apple khi Jobs thoái lui khỏi vị trí CEO: Apple đang ở vào thời kỳ cực thịnh. Tuy nhiên, bi kịch đã không xảy ra tại IBM thời kỳ hậu Gerstner. IBM vẫn phát triển trong thế không gì cản nổi, đến nay giá trị thị trường của tập đoàn công nghệ này thậm chí đã vượt mặt cả Microsoft. IBM đã thu được những lợi ích từ việc thúc đẩy mô hình lãnh đạo tập thể. IBM luôn chú trọng bồi dưỡng những nhà lãnh đạo cao cấp xuất sắc kế cận, phụ tá cho CEO. Họ không chỉ là người tiếp quản công ty trong tương lai, mà còn giúp cho sự vận hành thường ngày của công ty thông suốt hơn.
Thu được lợi ích từ mô hình lãnh đạo tập thể không chỉ có những tập đoàn khổng lồ, mà hiệu quả còn phát huy ở những công ty nhỏ hơn, như trường hợp của General Electric. Năm 2007, 19 vị trí lãnh đạo cao cấp nhất của GE Power Generation, một trong những bộ phận lâu đời nhất của công ty này, đã tề tựu về trung tâm huấn luyện quản lý của GE ở Crotonville, New York. Đây là trung tâm bồi dưỡng năng lực lãnh đạo do các nhà điều hành giàu kinh nghiệm đảm trách. Kết quả của chuyến tập huấn là họ đã khởi thảo nên nhiều kế hoạch phát triển, trong đó bao gồm việc chú ý đến các thị trường mới nổi. Chỉ trong 4 ngày ngắn ngủi, nhóm này đã hoạch định một cách hiệu quả và đạt được một sách lược thống nhất, đồng thời bắt tay vào thực hiện. Chính thị trường mới nổi lúc này đã trở thành khu vực then chốt trong chiến lược tổng thể của GE.
Một trường hợp khác là Công ty Thiết kế Frog. Công ty này đã chuyển đổi mô hình lãnh đạo từ cá nhân sang tập thể. Hartmut Esslinger, người sáng lập Frog, đã thực hiện sự điều chỉnh này trước khi ông từ nhiệm vào năm 2006. Ông là một CEO liên hợp, chứ không phải là tiếng nói quyết định cao cấp duy nhất của công ty. Ông hiểu rằng, thị trường ngày càng phức tạp, mối liên kết toàn cầu ngày càng mật thiết, yêu cầu các doanh nghiệp phải tư duy tập thể, quyết định tập thể. Để hoàn thiện mô hình này, Frog đã tuyển thêm kỹ sư và các nhà hoạch định chiến lược thương mại. Các nhà quản lý mỗi tuần đều tiến hành hội ý qua điện thoại, mỗi tháng tham gia một cuộc họp lãnh đạo. Tại các cuộc họp này, các vấn đề ngắn và dài hạn được đưa ra bàn thảo. Các bố cáo công ty trước khi được công bố sẽ trải qua sự kiểm duyệt của nhiều lãnh đạo cao cấp để đảm bảo rằng thông tin và ngôn ngữ phù hợp với mục tiêu công ty.
Tất nhiên, không phải ai cũng ủng hộ mô hình quản lý tập thể. RIM nhà sản xuất thiết bị di động đang lâm vào cảnh khó khăn hiện vẫn đang tiến hành thẩm định lại tính hiệu quả của mô hình CEO liên hợp. Có một số cổ đông đã bày tỏ rõ ràng rằng, họ hy vọng Chủ tịch công ty này sẽ thay thế mô hình cặp đôi CEO bằng mô hình một CEO duy nhất. Nhưng các nhà phân tích lại cho rằng điều này rất khó xảy ra. Pierre Ferragu, nhà phân tích hàng đầu của hãng Sanford C. Bernstein, trong một báo cáo gửi các nhà đầu tư đã khẳng định: “Thay đổi chính sách quản lý hay cải tổ cấp quản lý là điều không thể xảy ra.”
Đồng thời, hiện nay một số công ty giàu sức sáng tạo nhất, thành công nhất trên thị trường cũng đích thực đang dựa vào mô hình lãnh đạo tập thể. Mark Zuckerberg, CEO của Facebook, giai đoạn đầu cũng thể hiện phong cách lãnh đạo CEO đơn nhất. Tuy nhiên, kể từ năm 2008, sau khi tuyển dụng Sheryl Sandberg làm Giám đốc Điều hành (COO), công ty này đã phát triển thần tốc, sức ảnh hưởng cũng từ đó tăng lên. Có người cho rằng, đó chẳng qua là việc “dùng người lớn giữ trẻ”, nhưng thực chất mô hình lãnh đạo tập thể là một chiến lược lãnh đạo giúp cho nhiều công ty thu được lợi ích lớn.
Tóm lại, hợp tác tập thể là chìa khóa bảo đảm thành công của bất cứ công ty mới nào, bất kể người đứng đầu của công ty đó là ai, được nhân viên ngưỡng mộ nhiều hay ít. Ý tưởng luôn là ý tưởng, chỉ khi có sự tập hợp lại của nhiều thành viên cùng chung chí hướng thì ý tưởng đó mới có thể biến thành hiện thực, tạo ra lợi nhuận, đồng thời giúp cho lợi nhuận đó tăng lên không ngừng. 
(Theo Fortune China)

Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

9 Sự thật kinh ngạc về Bill Gates

Mỗi ngày Bill Gates kiếm được 20 triệu USD, nếu đổi tài sản của tỷ phú này thành tờ tiền 1 USD có thể làm con đường từ trái đất tới mặt trăng. Đó là một vài ví dụ trong số 9 so sánh thú vị xung quanh tài sản khổng lồ của tỷ phú Bill Gates, người sáng lập hãng phần mềm Microsoft.

1. Bill Gates kiếm được 250 USD mỗi giây, khoảng 20 triệu USD mỗi ngày và 7,8 tỷ USD một năm.
2. Nếu ông ấy đánh rơi một USD, ông ấy sẽ không buồn nhặt lại vì như vậy sẽ mất 4 giây, tức khoảng 1.000 USD.
3. Nợ của nước Mỹ là 5,62 nghìn tỷ USD, nếu được giao trả món nợ này, Bill Gates sẽ trả xong trong chưa đầy 10 năm.
4. Bill Gates có thể làm từ thiện khoảng 15 USD cho mỗi người trên trái đất mà vẫn còn giữ lại cho riêng mình được 5 triệu USD.
5. Michael Jordan là vận động viên được trả lương cao nhất ở Mỹ. Nếu vận động viên này không ăn không uống, giữ lại toàn bộ thu nhập khoảng 30 triệu USD mỗi năm, thì phải đợi đến đến năm 227 tuổi mới giàu như Bill Gates hiện nay.
6. Nếu Bill Gates là một quốc gia, ông ấy sẽ là quốc gia giàu có thứ 37 trên trái đất.
7. Nếu bạn có thể đổi tất cả tiền của Bill Gates thành tờ 1 USD, bạn có thể làm con đường nối từ trái đất đến mặt trăng. Để làm con đường bằng các tờ tiền 1 USD này, bạn phải mất 1.400 năm và sử dụng 713 máy bay Boeing 747 để chở số tiền đó.
8. Năm nay, Bill Gates đã ở tuổi 54. Nếu giả dụ sống thêm 35 năm nữa, ông ta phải tiêu 6,78 triệu USD mỗi ngày mới hết số tiền ông ấy kiếm được hiện nay.
9. Nếu người dùng hệ điều hành Microsoft Windows có thể lấy được 1 USD với mỗi lần máy tính treo vì lỗi của hệ điều hành, Bill Gates sẽ phá sản chỉ trong 3 ngày.

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2011

Giữ hay bỏ Luật Đầu tư?

Qua sáu năm thực thi, Luật Đầu tư đã bộc lộ hàng loạt bất cập và đây có lẽ không còn là chuyện tranh cãi. Vậy thì nên xử lý như thế nào với bộ luật này? Hiện vẫn còn quan điểm khác nhau.
Sáu năm trước
Không phải đợi đến bây giờ mà ngay từ khi còn đang dự thảo, Luật Đầu tư đã gây một phản ứng mạnh mẽ từ xã hội, trong đó có rất nhiều ý kiến “can gián” đề nghị Quốc hội không nên ban hành đạo luật này.
Bầu không khí “nóng” đến mức TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Trưởng ban Kinh tế vĩ mô thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) lúc bấy giờ đã dám công khai có ý kiến “ngược” với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư của mình. Ông nói thẳng ra rằng không cần phải có Luật Đầu tư vì thực chất những thủ tục đặt ra nhằm quản lý các lĩnh vực có tính chất chuyên ngành thì đã có những luật, văn bản pháp lý khác xử lý hết rồi.
Lo ngại về môi trường đầu tư có thể xấu đi, ba phòng thương mại Hoa Kỳ, Úc và châu Âu đã đồng gửi một lá thư đến chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Việt Nam “khẩn thiết đề nghị” không thông qua dự thảo Luật Đầu tư. Theo họ, dự luật nói trên sẽ “có tác động vô cùng tiêu cực đến không khí kinh doanh và kinh tế ở Việt Nam”. Thời điểm sát nút trước khi Quốc hội bàn thông qua dự luật vào tháng 11-2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) còn tranh thủ tổ chức tọa đàm (cuộc tọa đàm này được mọi người lúc đó gọi là “nỗ lực cuối cùng”), trong đó nêu rất nhiều ý kiến băn khoăn, lo lắng.
Trong khi đó, những người có thẩm quyền lại có cách nhìn khác. Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, người được giao trọng trách chỉ đạo việc soạn thảo lúc bấy giờ, khẳng định thủ tục đăng ký đầu tư sẽ “đơn giản hơn rất nhiều”, đồng thời hứa “chúng tôi sẽ lắng nghe” (Tuổi Trẻ, 1-11-2005). TS. Nguyễn Đình Tài, một thành viên Ban soạn thảo Dự luật Đầu tư, cũng cam đoan với báo chí rằng doanh nghiệp sẽ “được” nhiều hơn “mất”. Ông cho rằng sở dĩ phải có thủ tục đăng ký, thẩm tra đầu tư là để Nhà nước quản lý, hạn chế tình trạng doanh nghiệp “ma”, hạn chế các “dự án không triển khai đầu tư mà đi bán đất, bán nhà”... (Người Lao Động, 31-10-2005).
Một thành viên soạn thảo khác là ông Hoàng Thanh Phú, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, thì tuyên bố chắc nịch “tới đây Quốc hội thảo luận, chắc sẽ thông qua thôi. Không cần thiết phải dừng lại! Không có lý do nào để dừng lại cả!” (Vietnamnet, 28-10-2005). Quả nhiên, sau đó ngày 29-11-2005 Luật Đầu tư đã được Quốc hội thông qua.
Và bây giờ
Thế nhưng, đúng như cảnh báo, Luật Đầu tư đã bộc lộ rất nhiều bất cập trong quá trình thực thi. Một bộ luật mà theo các chuyên gia, gây hết sức lúng túng cho cả cơ quan quản lý nhà nước lẫn doanh nghiệp. Trong cuộc hội thảo mới đây do VCCI tổ chức, ông  Phan Đức Hiếu, Trưởng nhóm Nghiên cứu rà soát Luật Đầu tư, Phó ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh thuộc CIEM, thừa nhận có rất nhiều quy định trùng lặp, bất hợp lý trong Luật Đầu tư cần phải bỏ hoặc viết lại. Những quy định này, theo ông, không tạo thêm giá trị nào cho quản lý nhà nước và xã hội mà còn gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Một trong những ví dụ “bức bối” nhất được các chuyên gia dẫn ra là quy định về thủ tục đăng ký, thẩm tra đầu tư. Mục tiêu của quy định này thực sự không rõ. Cụ thể, muốn triển khai một dự án đầu tư, tùy theo tính chất, quy mô nhà đầu tư phải làm thủ tục đăng ký hoặc thẩm tra đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Trong đó, nhà đầu tư phải giải trình hàng loạt vấn đề như về sử dụng đất đai; xây dựng; xử lý môi trường…
Tuy nhiên, sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư vẫn phải lặp lại những thủ tục nói trên tại các cơ quan khác theo quy định của các luật chuyên ngành. Như vậy, rõ ràng thủ tục đăng ký, thẩm tra là thừa và chồng lấn.
Theo LS. Ngô Quang Hiệp, Công ty Tư vấn - Đầu tư và Chuyển giao công nghệ, thủ tục đầu tư còn chồng lấn lên cả Luật Doanh nghiệp khi quy định giấy chứng nhận đầu tư vừa là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Ngay trong giấy chứng nhận đầu tư, ở phần dự án và đăng ký kinh doanh nhiều thông tin ghi trùng lặp và “chẳng có ý nghĩa gì cả”. Mặc dù đặt ra nhiều thủ tục có vẻ chặt chẽ nhưng, theo ông Hiếu, tình trạng trì hoãn dự án đầu tư để đầu cơ đất đai, tài nguyên vẫn tràn lan. 
Trong khi đó, các doanh nghiệp phải vật lộn khổ sở với những thủ tục nhiêu khê, thiếu minh bạch. “Kể từ ngày thực thi Luật Đầu tư và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, một số vụ và chuyên viên của một bộ nọ bỗng trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết” - TS. Lê Nết, Công ty LCT Lawyers, phát biểu tại cuộc hội thảo. Ai cũng biết vị luật sư muốn ám chỉ đến tình trạng “chạy” thủ tục đầu tư đang diễn ra phổ biến hiện nay. TS. Nết cho biết một tình hình hết sức “nguy ngập” đang diễn ra là nhiều nhà đầu tư đã “bỏ” Việt Nam để sang những nơi có môi trường kinh doanh tốt hơn như Thái Lan, Indonesia…
Giữ, bỏ?
Hầu hết, các chuyên gia đều đề nghị nên sớm xem xét lại Luật Đầu tư. Sau khi đề xuất bỏ bớt đi nhiều quy định bất hợp lý, ông Phan Đức Hiếu, cho rằng Luật Đầu tư vẫn nên được giữ lại một số nội dung cần thiết nhưng cần được viết lại theo một tư duy khác trên cơ sở nâng cao hiệu quả về quản lý nhà nước và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Trong khi đó, một số ý kiến lại cho rằng Luật Đầu tư cần được sửa đổi hoặc thay thế bằng một luật về khuyến khích đầu tư. Trong đó, Nhà nước tập trung quy định về chính sách đầu tư và khuyến khích đầu tư, tức là định hướng vào những lĩnh vực mà Nhà nước thấy cần thiết, còn đầu tư như thế nào là vấn đề kinh tế do doanh nghiệp tư quyết định.
Theo LS. Trần Thanh Tùng, Công ty Luật P&P, nếu theo hướng trên thì cần phải bỏ khoảng 70-80% nội dung Luật Đầu tư và chỉ giữ lại một số nội dung thực sự vẫn còn cần thiết như quy định về bảo đảm đầu tư; ưu đãi đầu tư… “Vấn đề bảo đảm đầu tư là rất cần thiết vì nếu không có một sự tuyên bố rõ ràng thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ khó lòng an tâm khi đầu tư tại Việt Nam”, ông Tùng giải thích. Đồng tình với ý kiến trên, LS. Ngô Quang Hiệp tha thiết “nếu bỏ, cái bỏ đầu tiên phải là giấy chứng nhận đầu tư”.
Mạnh bạo hơn, một số chuyên gia như TS. Lê Nết, TS. Nguyễn Quốc Vinh, Công ty Luật Tilleke&Gibbins thì đề nghị nên bỏ luôn Luật Đầu tư, thậm chí cũng không cần luật khuyến khích và bảo đảm đầu tư. Hiện nay, chỉ có hai loại ưu đãi cơ bản là ưu đãi về đất và thuế, hai vấn đề này đã được quy định bởi pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế.
Còn vấn đề bảo đảm đầu tư thực chất đã được quy định tại điều 5 Luật Doanh nghiệp với nội dung không khác gì so với Luật Đầu tư. Các vấn đề khác như đất đai, xây dựng, ngoại hối… đều đã có các luật chuyên ngành điều chỉnh, do đó Luật Đầu tư hoàn toàn không cần thiết.
Theo TS. Nguyễn Quốc Vinh, trong trường hợp bỏ Luật Đầu tư, việc thành lập, tổ chức của tất cả các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được thực hiện trên một sân chơi thống nhất là đăng ký theo Luật Doanh nghiệp. Khi đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp sẽ được hoạt động khi đã đảm bảo tuân thủ các điều kiện do pháp luật quy định (nếu có).
Riêng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có một số hạn chế về thị trường và lao động thì thực hiện theo các văn bản cam kết của Việt Nam với WTO. “Để kiểm soát vấn đề này, cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ cần ghi những quy định cấm hay hạn chế vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nhìn vào đấy, doanh nghiệp sẽ biết để thực hiện. Họ phải tránh những nội dung bị cấm nếu không muốn bị trừng phạt. Hậu kiểm chính là chỗ đó!”, ông Vinh phân tích.
                                                                                                           
Nguồn: thesaigontimes.vn

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Người nước ngoài có được phép góp vốn vào Công ty trong nước?

Về nguyên tắc, người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam phải tuân thủ theo Luật Đầu tư số 59/2005/QH11.
Theo đó, người nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam bắt buộc phải có dự án đầu tư và phải làm thủ tục xin Giấy phép đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư. Điều luật này có thể đã làm nản lòng không ít Việt kiều về nước làm ăn nhưng "quên" không mang theo dự án. Có lẽ nhìn thấy được điều này nên mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cá nhân và công ty) mua lại phần vốn góp của các Công ty trong nước với những điều kiện hết sức dễ dàng. Chính sách này có hiệu lực kể từ ngày 15/08/2009.
Theo đó, người nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam bắt buộc phải có dự án đầu tư và phải làm thủ tục xin Giấy phép đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư. Điều luật này có thể đã làm nản lòng không ít Việt kiều về nước làm ăn nhưng "quên" không mang theo dự án. Có lẽ nhìn thấy được điều này nên mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cá nhân và công ty) mua lại phần vốn góp của các Công ty trong nước với những điều kiện hết sức dễ dàng. Chính sách này có hiệu lực kể từ ngày 15/08/2009.
Đối tượng nào được góp vốn, mua cổ phần?
Có 4 đối tượng được chấp nhận, bao gồm:
1. Công ty/Chi nhánh Công ty nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam
2. Công ty liên doanh tại Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài trên 49%
3. Quỹ đầu tư, Công ty chứng khoán có trên 49% vốn đầu tư nước ngoài
4. Cá nhân người nước ngoài cư trú hoặc không cư trú tại Việt Nam

Doanh nghiệp nào được chuyển nhượng vốn góp, bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài?
Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đều được phép, bao gồm:
1. Công ty cổ phần
2. Công ty TNHH (bao gồm cả Công ty TNHH 1 thành viên)
3. Công ty hợp danh
4. Doanh nghiệp tư nhân
5. Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu

Điều kiện?
Cá nhân người nước ngoài chỉ cần có Hộ chiếu và mở tài khoản cá nhân tại một Ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Đối với người mua cổ phần hoặc nhận chuyển nhượng là Công ty nước ngoài thì chỉ cần có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc bất cứ giấy tờ gì chứng minh tư cách pháp lý của Công ty đó tại nước sở tại, cùng với việc mở riêng một tài khoản vốn đầu tư tại Ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Nhà đầu tư nước ngoài sẽ phải mặc nhiên chấp nhận các điều kiện quy định trong Điều lệ công ty nếu các điều kiện đó không trái luật.

Thực hiện như thế nào?
Hội đồng thành viên (Công ty TNHH) hoặc Hội đồng Quản trị (Công ty cổ phần) sẽ họp để thông qua phương án huy động vốn góp và tỷ lệ góp vốn của Nhà đầu tư nước ngoài. Riêng Công ty TNHH 1 thành viên và Doanh nghiệp tư nhân, nếu chuyển nhượng hoặc nhận thêm vốn góp thì cùng lúc làm thủ tục nhận vốn góp và chuyển đổi thành Công ty TNHH 2 thành viên trở lên hoặc Công ty cổ phần (nếu có đủ từ 3 thành viên trở lên).
Nhà đầu tư nước ngoài nếu mua cổ phần phổ thông của Công ty cổ phần trong 3 năm đầu thành lập thì có khả năng trở thành cổ đông sáng lập của Công ty sau khi được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận. Tuy nhiên, nếu Công ty cổ phần đó đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và trở thành Công ty đại chúng thì việc mua cổ phần sẽ phải áp dụng theo luật về chứng khoán

Ls Phan Ngiêm
0988 505 572