Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) về bản chất là những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức kinh doanh (ĐĐKD) được các chủ thể tham gia thị trường chấp nhận. Khi được sử dụng, nó có thể gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng. Xuất phát từ vai trò của hoạt động ngân hàng cũng như mức độ ảnh hưởng của hành vi CTKLM đối với đời sống kinh tế xã hội, việc kiểm soát, ngăn ngừa, phát hiện, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng cần được tiến hành một cách chủ động, có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và các chủ thể tham gia thị trường

Kể từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp và hoạt động theo nguyên tắc thị trường, thị trường ngân hàng Việt Nam đã có nhiều bước phát triển và làm tốt vai trò trung chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế. Trước những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường, các chủ thể kinh doanh ngân hàng (KDNH) cũng phải không ngừng củng cố nhằm tạo lập sức mạnh cho mình trong quá trình cạnh tranh. Tuy nhiên, cũng xuất hiện ngày càng nhiều hành vi CTKLM, tồn tại ở nhiều lĩnh vực KDNH như: thu hút tiền gửivới mức lãi suất tiền gửi cao hơn tại một số ngân hàng khiến cho tiền gửi chuyển lòng vòng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác; quảng cáo đưa ra không đúng hoặc gây hiểu lầm vềnguồn lực tài chính, đưa ra những báo cáo kiểm toán gây hiểu lầm để hỗ trợ những quảngcáo, với quan điểm là để thu hút người gửi tiền từ những ngân hàng khác; khoản vay lãi suấtthấp hơn cho khách hàng của một lĩnh vực cụ thể so với lãi suất cho người vay các khu vựckhác; cho một khách hàng vay để họ có thể sử dụng khoản vay đó như là một khoản tiền gửi tốithiểu để mở một tài khoản;...[1] Do đó, việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề liên quan đến hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
1. BẢN CHẤT CỦA HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về CTKLM. Hành vi CTKLM có thể hiểu là những hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường vi phạm những chuẩn mực ĐĐKD thông thường, có thể gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng[2]. Quan điểm khác cho rằng, CTKLM là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm đến lợi ích của chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội[3]. CTKLM là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là gây cho một hay một số đối thủ cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây thiệt hại trong hoạt động kinh doanh[4].
Dưới góc độ pháp lý, hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về ĐĐKD, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng[5]. Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi CTKLM theo quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản chất pháp lý của hành vi CTKLM chính là mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi CTKLM là hành vi vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của CTKLM giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi CTKLM, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi CTKLM và thiệt hại[6].
            Ở Việt Nam, pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ra đời muộn. Theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) năm 1997 (sửa đổi 2004), các tổ chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp pháp. Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn hệ thống các TCTD và lợi ích hợp pháp của các bên. Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm: khuyến mại bất hợp pháp; thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của TCTD khác và của khách hàng; đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ; các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác.
Luật Cạnh tranh được ban hành năm 2004 đã kiểm soát hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường thông qua quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi CTKLM. Do vậy, các quy định của Luật các TCTD cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Theo quy định tại Điều 9 Luật các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 quy định về hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật; nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi CTKLM có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức.
Với quy định này, Luật các TCTD năm 2010 đã đặt nền móng cho việc xây dựng các quy định nhằm phát hiện, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng. Từ những phân tích trên, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng như sau:
Thứ nhất, đây là hành vi của các TCTD phát sinh trong hoạt động KDNH, trái với đạo đức thông thường trong kinh doanh. Pháp luật hiện hành chưa có quy định về đạo đức trong kinh doanh mà chỉ có quy định về đạo đức xã hội trong Bộ luật Dân sự 2005. Theo đó, đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về đạo đức xã hội, có thể rút ra những dấu hiệu cơ bản của ĐĐKD thông thường trong hoạt động KDNH như sau:
- Là những chuẩn mực ứng xử chung giữa các TCTD do pháp luật hoặc Hiệp hội Ngân hàng quy định trên cơ sở sự đồng thuận của các thành viên của Hiệp hội trong hoạt động kinh doanh. Những chuẩn mực ứng xử chung giữa các TCTD trong KDNH có thể là sự ổn định của thị trường tiền tệ, các biện pháp tương trợ giữa các thành viên khi thị trường gặp khó khăn, bảo đảm khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng thuận lợi cho khách hàng, các cam kết về chất lượng dịch vụ...
- Được cộng đồng các TCTD thừa nhận và tôn trọng.
Thứ hai, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của TCTD khác hoặc với khách hàng. Thiệt hại ở đây được là những thiệt hại về vật chất, tức là ảnh hưởng tới doanh thu, khả năng sinh lợi trong hoạt động của đối thủ cạnh tranh và những tổn hại về uy tín của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Về dấu hiệu có thể gây thiệt hại cần xem xét kỹ lưỡng, vì hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm với những thông tin không tốt, nó sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của các TCTD, nó cũng có thể “giết chết” một TCTD cũng như gây tác động xấu đối với xã hội, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Do vậy, khi có dấu hiệu có thể gây thiệt hại, đối thủ cạnh tranh cần tìm đến một giải pháp hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh thiệt hại cho cả hai bên cũng như đối với nền kinh tế và xã hội.
Người phải chứng minh mức độ thiệt hại là đối thủ cạnh tranh của TCTD; cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực thi công vụ nếu phát hiện ra hành vi CTKLM thì phải báo cáo kịp thời đến Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công thương để có biện pháp phối hợp xử lý. Vấn đề đặt ra là, hành vi CTKLM có mức độ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường hẹp, thường chỉ tác động đến lên một số chủ thể nhất định mà không ảnh hưởng đến một khu vực thị trường rộng như hành vi hạn chế cạnh tranh, ngay cả khi hành vi đó do tính chất mức độ nguy hại của nó xâm phạm đến các đối tượng được Luật Hình sự bảo vệ[7]. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực ngân hàng, do sự khác biệt trong hoạt động, chúng tôi cho rằng, việc xác định mức độ ảnh hưởng của hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng cần được hiểu là trên phạm vi rộng, trên toàn bộ thị trường ngân hàng, bởi lẽ:
- Trong thực tiễn hoạt động, xu hướng hợp tác giữa các TCTD với nhau để cùng tồn tại và phát triển là tất yếu, vấn đề đặt ra là sự hợp tác của các TCTD được thực hiện đến đâu và đến mức nào là nội dung cần phải được quan tâm giải quyết triệt để. Chúng ta vẫn còn nhớ sự kiện Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu do tin đồn thất thiệt đã bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ, nếu không có sự cam kết của Thống đốc NHNN và sự hỗ trợ của NHNN và các ngân hàng thương mại trên địa bàn thì nguy cơ phá sản ngân hàng này là điều có thể xảy ra. Bên cạnh đó, trong hoạt động, các TCTD hỗ trợ cho nhau. Sự hợp tác giữa các TCTD chỉ thật sự bình đẳng, thân thiện và minh bạch nếu việc hợp tác này diễn ra công khai, rõ ràng và có thể kiểm soát được.
- Hoạt động KDNH là hoạt động rủi ro rất cao, thường xuyên chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô như tình trạng lạm phát, thay đổi trong chính sách của Ngân hàng Nhà nước và dựa trên niềm tin của người gửi tiền, nên nếu ngân hàng “gặp sự cố” thì sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung cấp vốn cho nền kinh tế.
- Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, các TCTD tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ, sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng; đặc biệt trong những năm gần đây, số lượng sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng mới tăng lên nhanh chóng về quy mô và đa dạng về loại hình càng làm cho vấn đề kiểm soát hành vi CTKLM trở nên khó khăn và phức tạp hơn.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng như sau: Hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng là hành vi của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động ngân hàng trái với những chuẩn mực thông thường về ĐĐKD, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp khác của TCTD, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD.
2. THẨM QUYỀN VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNHTRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
Khi đề cập đến hành vi CTKLM, người ta thường nhấn mạnh đến tính “không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi cạnh tranh không đẹp, không phù hợp với ĐĐKD, mà hệ quả của những hành vi này có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng, làm thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng trên thị trường? Chúng ta có thể nhận thấy các biện pháp kiểm soát hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ta hiện nay như sau:
Một là, thẩm quyền xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng của NHNN Việt Nam. KDNH là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, cơ quan các thẩm quyền quản lý hoạt động ngân hàng thuộc về NHNN Việt Nam. NHNN Việt Nam thực hiện việc thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng thông qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền[8]; cụ thể Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; tham mưu, giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng thực hiện hoạt động giám sát chuyên ngành về ngân hàng theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc NHNN[9]. Như vậy, NHNN có quyền xử phạt hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng được thực hiện thông qua các quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Hai là, thẩm quyền xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng của cơ quan quản lý cạnh tranh. Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranhNghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranhNghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 về việc Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranhNghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, thì Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, đồng thời triển khai các chương trình phổ biến pháp luật, tham vấn và giải đáp các vướng mắc liên quan đến Luật Cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp định hình chiến lược kinh doanh phù hợp với các quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, thẩm quyền và thủ tục xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN và Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công thương lại không thống nhất với nhau. Cụ thể:
Thứ nhất, thủ tục xử lý đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN được tiến hành theo thủ tục hành chính, trong khi đó, việc xử lý đối với hành vi CTKLM được tiến hành theo thủ tục tố tụng cạnh tranh[10] được tiến hành trên cơ sở thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Thứ hai, khi phát hiện ra hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng thì thẩm quyền xử lý sẽ thuộc cơ quan nào? Theo quy định của Luật Cạnh tranh, Cơ quan Quản lý cạnh tranh có thẩm quyền điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi CTKLM; xử lý, xử phạt hành vi CTKLM. Việc điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh được tiến hành khitổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh (sau đây gọi chung là bên khiếu nại) có đơn khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh. Đối tượng bị điều tra vụ việc cạnh tranh bao gồm[11]: i) tổ chức, cá nhân khiếu nại theo quy định tại Điều 58 của Luật Cạnh tranh; ii) tổ chức, cá nhân bị cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện là đang hoặc đã thực hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong thời hạn hai năm, kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện. Từ các quy định hiện hành cho thấy, chỉ có Cơ quan quản lý cạnh tranh mới có quyền điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh.
Ngoài ra, hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính rủi ro cao, mức độ và phạm vi ảnh hưởng của hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng rất lớn, do vậy, yêu cầu đối với người tiến hành điều tra, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng không chỉ am hiểu pháp luật mà còn cần có những hiểu biết nhất định về hoạt động ngân hàng thì mới có thể xử lý có hiệu quả. Pháp luật hiện hành chưa có quy định về nghĩa vụ chuyển giao vụ việc cạnh tranh từ Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng thuộc NHNN sang cho Cục quản lý cạnh tranh Bộ Công thương trong trường hợp phát hiện ra hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng. Nói khác đi, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể nhằm xác định thẩm quyền của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công thương cũng như mức độ tham gia của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trong điều tra, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng.
3.KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 vừa được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định rõ: “Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường... Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả”; “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng”. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 đã xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đến năm 2010 như sau: “Xây dựng môi trường pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Các chính sách và quy định pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng góp phần tạo môi trường lành mạnh và động lực cho các TCTD, doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất kinh doanh. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và phân biệt đối xử giữa các TCTD”.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy, các quy định hiện hành về hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng còn chung chung, chưa phản ánh được những nét đặc thù trong việc điều chỉnh hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng đã phát sinh những khó khăn, bất cập nhất định, bản thân hành vi CTKLM, tiêu chí xác định mang tính trừu tượng, khó xác định và cũng khó chứng minh. Để bảo đảm ngăn ngừa, xử lý có hiệu quả hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng, theo chúng tôi, Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, xây dựng và sớm ban hành bộ chuẩn quy tắc về đạo đức trong hoạt động KDNH. Việc xác định thế nào là chuẩn mực ĐĐKD, các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh cũng rất khó khăn. Không những thế, trong Luật các TCTD hiện hành cũng mới chỉ quan tâm đến quy định phẩm chất đạo đức của những người nắm giữ các chức danh quản lý điều hành của TCTD; vấn đề rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng khi tác nghiệp mới được đề cập trong thời gian gần đây. Do vậy, chỉ khi ban hành được bộ chuẩn ĐĐKD ngân hàng thì mới có được cơ sở để xác định “tính không lành mạnh” trong hành vi cạnh tranh của các TCTD làm căn cứ để điều tra, xử lý.
Thứ hai, làm rõ quan niệm “hợp tác” và “cạnh tranh” trong hoạt động ngân hàng, làm cơ sở cho việc xác định hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng. Theo Từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh là “đua tranh với nhau giữa những người theo đuổi cùng một mục đích, nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình thế có lợi nhất”[12], hợp tác là “cùng chung sức, giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó nhằm một mục đích chung”[13]. Như đã phân tích, trong hoạt động, các TCTD có mối liên hệ khá chặt chẽ với nhau, tuy nhiên, có những chủ thể lợi dụng việc hợp tác giữa các chủ thể kinh doanh để trục lợi bất hợp pháp hoặc gây khó khăn cho đối tác. Do vậy, theo chúng tôi, hành vi lợi dụng “chính sách hợp tác” trong kinh doanh hoặc theo yêu cầu của NHNN của TCTD phải được coi là hành vi CTKLM.
Thứ ba, về khái niệm hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng, có quan điểm cho rằng[14]“Hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng là hành vi cạnh tranh của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà trái với các chuẩn mực thông thường về ĐĐKD, có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác”. Với quan niệm này, dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi CTKLM là “vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận” mà thực hiện các hành vi vi phạm “chuẩn mực thông thường về ĐĐKD”, chúng tôi cho rằng, với cách tiếp cận này, hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng đã thu hẹp quá nhiều hành vi CTKLM theo quy định của Luật Cạnh tranh. Thực tế cho thấy, việc thực hiện hành vi CTKLM của các chủ thể trên thị trường không phải lúc nào cũng vì mục tiêu lợi nhuận, trong thực tế, để gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh đã “hy sinh mục tiêu lợi nhuận” sử dụng các hành vi CTKLM thì hành vi này phải được coi là CTKLM.
Thứ tư, thống nhất thẩm quyền và thủ tục xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng theo thủ tục tố tụng cạnh tranh do Hội đồng Cạnh tranh tiến hành, không nên quy định song song hai thủ tục xử lý hành vi CTKLM tương ứng với thẩm quyền của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Cục Quản lý Cạnh tranh. Theo đó, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có trách nhiệm phát hiện, chuyển giao và phối hợp với Hội đồng Cạnh tranh trong việc điều tra, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng. Thực hiện kiến nghị này sẽ bảo đảm tính thống nhất của pháp luật trong việc điều tra, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng, bởi lẽ, Hội đồng Cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh[15].


[1] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tờ trình Chính phủ về việc ban hành Nghị định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, tháng 6/2011.
[2] Tăng Văn Nghĩa (2009), Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.132.
[3] Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 30,31.
[4] Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 241.
[5] Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004.
[6] Nguyễn Hữu Huyên, Phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/12/09/2069/
[7] Tăng Văn Nghĩa (2009), Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.136.
[8] Khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010.
[9] Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
[10] Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục giải quyết, xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định của Luật này.
[11] Điều 65 Luật Cạnh tranh 2004.
[12] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1989, tr. 129.
[13] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1989, tr.489.
[14] Dự thảo Nghị định quy định về hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng và hình thức xử lý đối với những hành vi này (Dự thảo lần 2, tháng 6/2011).
[15] Khoản 2 Điều 53 Luật Cạnh tranh 2004.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét