Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI


I. Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh :
 Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm đầu của thế kỷ này được diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị trường thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói riêng với tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại và gay gắt phức tạp hơn về tính chất và quy mô.
      Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song đa số các nhà khoa học đều thống nhất rằng, tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Theo đó, tranh chấp kinh tế có thể có các dạng cơ bản sau :
 - Tranh chấp trong kinh doanh : được diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ thể, đó là những tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
 - Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư : Loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BTO, BT, BOT, thực hiện các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại đa phương.
 Thực tế cho thấy, trong các loại hình tranh chấp kinh tế trên, tranh chấp trong kinh doanh là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong một số trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương nhau.
 Mặt khác, tranh chấp trong kinh doanh còn được hiểu là sự bất đồng về một hiện tượng pháp lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh doanh và thông thường gắn liền với các yếu tố , lợi ích về mặt tài sản. Do đó, có thể khái quát những đặc điểm tranh chấp trong kinh doanh như sau :
 · Nó luôn gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các chủ thể.
 · Các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh thường là các doanh nghiệp.
· Nó là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những xung đột về mặt lợi ích kinh tế của các bên.
 Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các tranh chấp trong kinh doanh chủ yếu tồn tại dưới dạng các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, phản ánh tính đơn điệu của các lợi ích cần bảo vệ trong mô hình kinh tế này. Ngược lại, trong điều kiện kinh tế thị trường, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế kéo theo sự đa dạng về đối tượng chủ thể và lợi ích cần bảo vệ, sự xuất hiện của các phương thức kinh doanh, thị trường và các yếu tố sản xuất phi truyền thống làm phát sinh nhiều dạng tranh chấp mới, ví dụ như : tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty, giữa các thành viên công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty; tranh chấp trong việc mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu; tranh chấp về liên doanh, liên kết kinh tế, … Chính sự thay đổi về nội dung và hình thức tranh chấp trong kinh doanh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã và đang đòi hỏi các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp với các yêu cầu của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
  II. Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại
 Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát sinh tranh chấp. Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh, vì vậy giải quyết các tranh chấp phát sinh được coi là tự thân của các quan hệ kinh tế. Ở góc độ khái quát chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được.
              Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải đáp ứng các yêu cầu sau :
 - Nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh doanh.
 - Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh.
- Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.
- Ít tốn kém nhất.
 “Dù đó là tranh chấp gì đi chăng nữa thì vì sự công bằng và hiệu quả kinh tế mà cần thiết phải có một cơ chế để giải quyết tranh chấp”. Có nhiều cách thức khác nhau để giải quyết tranh chấp. Tùy thuộc vào phong tục tập quán, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế – xã hội mà mỗi quốc gia trên thế giới có các cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh rất khác nhau. Nhìn chung cho đến thời điểm hiện tại, các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được áp dụng rộng rãi trên thế giới bao gồm : thương lượng, hoà giải, trọng tài (phi chính phủ) và giải quyết thông qua tòa án. Để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn đã đặt ra, trong phần này chỉ đề cập đến trình tự, thủ tục của hai hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh đang được áp dụng rất phổ biến đó là : trọng tài và tòa án.
 1. Khái niệm và đặc điểm của Tố tụng tòa án.
  Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, tòa án phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật đã quy định, cụ thể đó là những nguyên tắc cơ bản; trình tự, thủ tục khởi kiện; trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc tại tòa án, thi hành bản án, quyết định của tòa án; quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan,… Đây chính là thủ tục tố tụng tòa án. Ở hầu hết các quốc gia, cùng với việc ban hành những đạo luật về nội dung, Nhà nước cũng ban hành những quy định về thủ tục tố tụng để tòa án giải quyết các tranh chấp kinh doanh.
    Như vậy, tố tụng tòa án chính là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để giải quyết các tranh chấp kinh doanh bằng tòa án.
  Thực tiễn pháp luật tố tụng của các nước cho thấy, tố tụng tòa án đều có chung một số đặc điểm cơ bản sau :
 - Ở hầu hết các nước trên thế giới, thủ tục tố tụng tòa án áp dụng cho các tranh chấp trong kinh doanh được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn  như : về hội đồng xét xử, về thời gian của các trình tự tố tụng, … Do vậy, ở các quốc gia này người ta không hình thành luật tố tụng riêng cho các tranh chấp trong kinh doanh mà chỉ có luật về tố tụng dân sự.
 Ví dụ : Ở Cộng hoà Liên bang Đức, Luật tố tụng đối với các vụ án dân sự và thương mại được quy định thống nhất trong Bộ luật tố tụng dân sự; ở Pháp, Anh và Mỹ các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đều được áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự.
 - Tố tụng tòa án là thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án – một cơ quan Nhà nước, hoạt động xét xử của nó mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và đóng vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật.
 -  Phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành và thủ tục giải quyết của Tòa án rất chặt chẽ, rất phức tạp và không thể thay đổi được. Phán quyết của tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị  hoặc có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Trong tố tụng tòa án, các phiên tòa xét xử thường được tổ chức công khai, bản án được công bố rộng rãi.
  2. Khái niệm và đặc điểm của tố tụng trọng tài.
  Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
 Cũng như thủ tục tố tụng tòa án, trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh trọng tài cũng phải tuân theo các trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật quy định, từ việc khởi kiện, xét xử, thi hành phán quyết trọng tài, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia,… Đây chính là thủ tục tố trọng tài. Nói cách khác, tố tụng trọng tài được hiểu là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài.
Tố tụng trọng tài nhìn chung có các đặc điểm cơ bản sau :
 - Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài.
 -  Tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận.
- Tố tụng trọng tài đảm bảo cho đương sự quyền tự định đoạt của mình một cách cao nhất, các đương sự có quyền lựa chọn trọng tài viên, quyền lựa chọn địa điểm giải quyết tranh chấp, lựa chọn quy tắc tố tụng….
- Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Về nguyên tắc, trọng tài không xét xử công khai, do đó ngoài nguyên đơn và bị đơn, trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần thiết.
- Quy tắc tố tụng trọng tài của các quốc gia rất khác nhau, nhưng nhìn chung quy tắc lựa chọn trọng tài viên và thủ tục của hầu hết các trung tâm trọng tài trên thế giới đều theo khuôn mẫu của Quy tắc trọng tài mẫu UNCITRAL.
- Trọng tài thương mại của các nước trên thế giới chủ yếu tồn tại dưới hai dạng cơ bản :
 · Trọng tài vụ việc (Trọng tài Ad – hoc) là hình thức trọng tài được lập ra để giải quyết những tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp đó.Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là không có trụ sở, không có bộ máy giúp việc và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. Về nguyên tắc, các bên đương sự khi yều cầu trọng tài Ad-hoc xét xử có quyền lựa chọn thủ tục, các phương thức tiến hành tố tụng.
·  Trọng tài thường trực (còn gọi là quy chế) là những trọng tài có hình thức tổ chức, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. Phần lớn các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới đều được thành lập theo mô hình này dưới các tên gọi như Trung tâm trọng tài, Ủy ban trọng tài, Viện trọng tài, Hội đồng trọng tài quốc gia và Quốc tế. Trọng tài thường trực có quy chế tố tụng riêng và được quy định rất chặt chẽ. Về cơ bản, các đương sự không được phép lựa chọn thủ tục tố tụng.
 3.  Sự khác nhau cơ bản giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài.
 Tòa án và trọng tài đều là những hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, chúng đóng vai trò một bên trung lập với các bên trong quan hệ tranh chấp. Hoạt động giải quyết tranh chấp của tòa án và trọng tài có điểm giống nhau và có thể phân biệt với các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh khác đó là chúng căn cứ vào pháp luật và hợp đồng của các bên trong quan hệ tranh chấp, xem xét sự thật vụ án và độc lập ra phán quyết, phán quyết này được đảm bảo thi hành. Vì chúng có thẩm quyền xem xét và ra phán quyết cho nên thủ tục tố tụng của tòa án và trọng tài rất chặt chẽ và được pháp luật quy định. Thủ tục tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài đều dựa trên những nguyên tắc chung như : tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, đảm bảo sự độc lập của người tài phán, … Tuy nhiên, vì đây là hai hình thức giải quyết tranh chấp độc lập, cho nên giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài cũng có những sự khác biệt cơ bản sau đây :
 Một là : Về tính chất pháp lý.
 Giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý của mỗi loại cơ quan này. Tòa án là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố tụng, tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự công cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Trong khi đó, các trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp. Tính phi chính phủ của trọng tài thương mại thể hiện ở chỗ, các trung tâm trọng tài không do Nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa thuận xin phép Nhà nước để được thành lập, các trung tâm trọng tài thương mại không nằm trong cơ cấu thiết chế nào của bộ máy Nhà nước và cũng không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước mà là một tổ chức xã hội nghề nghiệp. Trọng tài được thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh một cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện phù hợp với tâm lý của nhà doanh nghiệp. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa tòa án và trọng tài đã quyết định sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
  Hai là : Về thẩm quyền.
 Thẩm quyền theo vụ việc : dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, thực tế cho thấy tòa án thường có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài. Tòa án có thẩm quyền giải quyết hầu hết tất cả các tranh chấp trong kinh doanh. Trong khi đó, khác với tòa án, thẩm quyền của trọng tài có thể thay đổi, hoặc thu hẹp lại tùy theo từng trung tâm trọng tài.
Thẩm quyền theo lãnh thổ : Đối với tòa án, không phải vụ tranh chấp trong kinh doanh nào cũng được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được tòa án thụ lý giải quyết khi được chuyển đến tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại, trong tố tụng trọng tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết cho mình theo ý muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa ra trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh chấp. Như vậy, về thẩm quyền vụ việc thì tòa án có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài, còn thẩm quyền lãnh thổ trong tố tụng trọng tài lại không được đặt ra như đối với tòa án.
  Ba là : Các giai đoạn tố tụng
     Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ xét xử một lần các tranh chấp kinh doanh. Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tố tụng tòa án. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định của người đó. Trong khi đó, trong tố tụng tòa án có nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp phán quyết của tòa án còn có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Chính vì  thủ tục tố tụng tòa án phải thông qua nhiều giai đoạn xét xử khác nhau đã dẫn tới việc kéo dài thời gian xét xử, đây là điều mà các nhà kinh doanh không mong muốn.
  Bốn là : Điều kiện khởi kiện
     Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện – một nguyên tắc cốt lõi trong tố tụng trọng tài, sự hình thành trọng tài là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự và trong quá trình tố tụng trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Các bên đương sự hoàn toàn có thể lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể, không có sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Chính vì vậy, đối với tố tụng trọng tài, khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa thuận trước về việc này. Điều này có nghĩa là : sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền khởi kiện của đương sự. Đây là điều mà trong tố tụng tòa án không có.
  Năm là : Nguyên tắc xét xử tập thể.
 Tố tụng trọng tài không có nguyên tắc xét xử tập thể như trong tố tụng tòa án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình là quyền của các bên tranh chấp, pháp luật không can thiệp. Pháp luật chỉ can thiệp vào vấn đề này khi các bên không thỏa thuận được với nhau về cách thức lựa chọn trọng tài viên mà thôi. Ví dụ, khi các bên không đạt được sự nhất trí trong việc chọn một trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình theo quy định của pháp luật, mỗi bên tranh chấp sẽ chọn cho mình một trọng tài viên. Hai người được chọn sẽ chọn một người thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp hai trọng tài không chọn được người thứ ba đó thì quyền quyết định thuộc về tòa án.
  Sáu là : Tính công khai của hoạt động tố tụng.
Trong tố tụng tòa án, Việc xét xử của tòa án không chỉ có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự mà còn có ý nghĩa giáo dục việc tuân theo pháp luật. Do vậy, hầu hết các phiên tòa đều được tiến hành công khai, các bản án thường được công bố rộng rãi trước công chúng. Điều này dẫn đến khó khăn khi bảo vệ các thông tin bí mật. Trong khi đó, trong tố tụng trọng tài, mọi tình tiết và kết quả đều không được công bố công khai nếu không được sự chấp thuận của các bên. Xuất phát từ nhu cầu phải bảo vệ một cách nghiêm ngặt các bí mật nghề nghiệp của các nhà kinh doanh mà pháp luật không bắt buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải tiến hành công khai. Quyết định của trọng tài cũng như những căn cứ để trọng tài ra quyết định sẽ không được công bố công khai nếu các bên không có yêu cầu. Quyết định của trọng tài chỉ được phép công bố rộng rãi khi các bên đồng ý. Có thể nói. Nguyên tắc này hoàn toàn đối lập với nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng tòa án. 
 Bảy là : Tính mềm dẻo, linh hoạt  trong thủ tục tố tụng.
 Tố tụng trọng tài là một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục tố tụng đơn giản, thuận tiện, đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp. Ví dụ như : trong tố tụng trọng tài các bên có thể chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng tài viên mà mình tín nhiệm, tin tưởng có thể giải quyết mâu thuẫn của họ, các bên cũng có thể chọn địa điểm để tiến hành trọng tài mà thấy là thuận tiện, thậm chí các bên có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc tố tụng áp dụng cho vụ kiện.
Trong khi đó, tố tụng tòa án bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng nghiêm ngặt, phải tuân thủ các yêu cầu nhiều khi mang tính nghi thức, luật áp dụng được coi là bất di bất dịch.
 Tám là : Phán quyết.
 Ở cả hai hình thức tố tụng này, việc xét xử tranh chấp đều được kết thúc bằng việc ra bản án, quyết định của tòa án hoặc phán quyết trọng tài. Nhưng phán quyết của trọng tài và bản án, quyết định của tòa án trong nhiều trường hợp cũng có những điểm khác nhau cơ bản.
     Trong tố tụng tòa án, bản án, quyết định của tòa án khi đã có hiệu lực nếu các bên không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp luật. Trong khi đó, ở một số quốc gia, không phải lúc nào quyết định của trọng tài cũng được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế của Nhà nước. Ở nhiều Quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, khi quyết định của trọng tài hợp pháp mà không được bên thua kiện thi hành tự nguyện thì theo yêu cầu của phía bên kia, cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành như một phán quyết của tòa án. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia, mà ở đó sự phối hợp hoạt động giữa tòa án và trọng tài chưa cao và chưa được pháp luật quy định (ví dụ như ở Việt Nam trong thời gian từ trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trở về trước) thì việc sử dụng cơ chế tòa án phê chuẩn quyết định của trọng tài để trên cơ sở đó mà cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài là chưa có điều kiện thực hiện. Vì vậy, ở các quốc gia này các quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài không được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài thì bên kia có quyền đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án .
  1.2. Cơ sở lý luận của việc thiết lập mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài.
 Sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình trọng tài là một vấn đề đã được đề cập đến rất nhiều trong khoa học pháp lý. Xung quanh vấn đề này cũng có nhiều ý kiến tranh cãi và tiếp cận dưới nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng thống nhất với nhau ở khía cạnh : trọng tài không thể thoát ly khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Nhà nước cần phải đóng một vai trò nhất định trong quá trình tố tụng trọng tài. Vấn đề là Nhà nước sẽ tác động trọng tài đến đâu và liệu Nhà nước can thiệp một cách tích cực hay tiêu cực vào trọng tài. Sự can thiệp của Nhà nước có thể tích cực nhưng cũng có thể tác động không tốt đến trọng tài. Sự can thiệp đó sẽ là tích cực nếu Nhà nước quan tâm đến kết quả trọng tài và can thiệp khi cần thiết nhằm giúp các bên tham gia trọng tài đạt được mục đích trọng tài trên cơ sở công lý, công bằng. Sự can thiệp đó có thể là không tích cực nếu nó nhằm chỉ để bảo vệ quyền lợi của một bên tham gia mà không công bằng đối với tất cả các bên. Vai trò của Nhà nước là bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi chung và quyền lợi riêng của các bên tham gia trọng tài. Chính vì vậy, sự cần thiết phải duy trì “mối quan hệ lẫn nhau và năng động giữa mong muốn của các bên tham gia trọng tài và quyền lợi của hệ thống pháp luật quốc gia trong việc bảo đảm công bằng cho quá trình trọng tài và quyền lợi to lớn của quốc gia”  là mối quan tâm của Luật trọng tài ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực tế ở các nước cho thấy, sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước trong quá trình tố tụng trọng tài được thể hiện thông qua tòa án, thông qua vai trò của tòa án trong quá trình tố tụng trọng tài.
 Theo thông lệ và tập quán thương mại của nhiều nước trên thế giới và quốc tế, xét về bản chất, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự nguyện của các bên tranh chấp. Bằng một Điều khoản trọng tài (trong hợp đồng kinh tế, thương mại) hay bằng một Thỏa thuận trọng tài (lập ra sau khi tranh chấp đã phát sinh), các bên tự nguyện đưa tranh chấp ra giải quyết bằng một cơ quan trọng tài (Ủy ban trọng tài hoặc trọng tài viên) do các bên lựa chọn. Các bên tự thỏa thuận về phạm vi các tranh chấp mà trọng tài được quyền giải quyết, thỏa thuận về luật áp dụng (luật nội dung và các qui tắc tố tụng), thỏa thuận về tính chung thẩm và hiệu lực bắt buộc của phán quyết trọng tài đối với các bên tranh chấp,… Như vậy, thẩm quyền của cơ quan trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp đồng” hay “quyền lực đại diện” do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm.
 Trong khi đó, Tòa án là người đại diện của quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp) để xét xử theo pháp luật của Quốc gia các tranh chấp trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Các bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực bắt buộc đối với mọi công dân, tổ chức có liên quan và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Chính sự khác biệt về nguồn gốc quyền lực của tòa án và trọng tài như đã phân tích ở trên đã đặt ra ít nhất hai vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa hai loại cơ quan này trong việc đảm bảo hiệu quả của trong tài, đó là :
 - Trong quá trình tố tụng trọng tài, theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, trọng tài có quyền ra các quyết định có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp nhưng lại không có quyền ra lệnh bắt buộc đối với bất kỳ bên thứ ba nào khác có liên quan đếntranh chấp. Chính sự hạn chế về quyền lực này nên không phải lúc nào trọng tài cũng có khả năng bảo đảm cho quá trình trọng tài diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả (ví dụ: trọng tài không thể bắt buộc nhân chứng, giám định viên tham gia phiên họp xét xử của trọng tài nếu họ không tự nguyện,….). Sau khi có phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp, cho dù các bên đã thỏa thuận rằng phán quyết trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc nhưng nếu một trong hai bên không tự nguyện thi hành thì trọng tài cũng không có quyền và nghĩa vụ cưỡng chế thi hành phán quyết hay quyết định do chính mình ban hành. Trong những trường hợp như vậy, hiệu quả của việc thi hành phán quyết trọng tài sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào mức độ hợp tác giữa tòa án và trọng tài, trong đó tòa án với quyền lực Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, giúp đỡ trọng tài khi cần thiết.
 - Trong quá trình tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thể hoạt động trong phạm vi thẩm quyền do các bên giao phó, cụ thể là trọng tài chỉ được giải quyết một số loại tranh chấp nhất định và theo cách thức nhất định do các bên lựa chọn và thỏa thuận trong điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài. Nếu trọng tài vượt quá thẩm quyền được ủy nhiệm hoặc không tuân thủ các nguyên tắc tố tụng trong thỏa thuận trọng tài, không thực hiện đầy đủ, đúng đắn, khách quan, vô tư, công bằng trách nhiệm được các bên giao phó thì theo nguyên tắc đại diện, các quyết định của trọng tài sẽ có thể bị chính các bên tranh chấp yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, hủy bỏ, không công nhận và không cho thi hành để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của họ và để thực thi công lý. Như vậy, cũng như đối với mọi “quyền lực hợp đồng” hay “quyền lực đại diện” khác, ở đây cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát của quyền lực Nhà nước đối với trọng tài để bảo đảm cho trọng tài ngay từ khi bắt đầu thành lập và trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp sẽ không vượt quá thẩm quyền được giao, sẽ thực hiện đúng đắn, vô tư, khách quan, trung lập các trách nhiệm của mình, do đó hiệu lực của các quyết định trọng tài cũng sẽ được bảo đảm, hiệu quả trọng tài được nâng cao. Đa số các quốc gia đều quy định tòa án chính là cơ quan đại diện cho quyền lực Nhà nước để thực hiện việc giám sát đối với trọng tài.
 Có thể nói, mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài chính là thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ và giám sát quá trình tố tụng trọng tài. Nội dung của mối quan hệ này luôn được công nhận và quy định ở trong luật về trọng tài ở tất cả các nước trên thế giới, mặc dù có thể khác nhau ở góc độ này hoặc góc độ khác. Bên cạnh đó, trong khi xử lý mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài cần phải đảm bảo hai yêu cầu đặt ra là vừa phòng ngừa, hạn chế sự can thiệp không cần thiết của tòa án vào quá trình trọng tài, vừa bảo đảm được vai trò hỗ trợ và kiểm tra giám sát cần thiết của tòa án để nâng cao hiệu quả của tố tụng trọng tài. Tùy theo điều kiện, truyền thống pháp luật, các học thuyết và quan điểm pháp lý về tố tụng trọng tài ở từng quốc gia mà quan hệ giữa tòa án và trọng tài được thể chế hóa ở những mức độ khác nhau tại những văn bản khác nhau nhưng thông thường là trong luật trọng tài, luật tố tụng dân sự hoặc tố tụng thương mại của từng nước và trong các điều ước quốc tế về trọng tài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét