Không
bàn luận đến việc đúng hay sai từ những lý do ngân hàng đưa ra để từ
chối thanh toán nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng xét dưới góc độ quản trị ngân
hàng, thì nguyên nhân chính là một số ngân hàng đã đặt vấn đề quản trị
rủi ro nghiệp vụ sai định hướng. Cách nào để hạn chế tranh chấp và
nghiệp vụ bảo lãnh không “vàng, thau lẫn lộn”?
Đặt sai định hướng quản trị rủi ro
Dường
như với quan điểm rủi ro là ở khâu phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh,
nên một số ngân hàng đã đặt nặng vấn đề quản trị rủi ro vào khâu này,
bằng cách đưa ra các điều kiện chặt chẽ, khó khăn, rối rắm với bên nhận
bảo lãnh, để nếu như phát sinh sự kiện bên nhận bảo lãnh đòi tiền bảo
lãnh, ngân hàng sẽ có nhiều lý do, căn cứ, yêu cầu, khiến cho bên nhận
bảo lãnh gặp khó khăn trong việc đòi tiền. Từ đó, dẫn tới nhiều trường
hợp ngân hàng triển khai nghiệp vụ bảo lãnh nhưng lại cố gắng tìm cách
thoái thác nghĩa vụ, đùn đẩy rủi ro về phía người nhận bảo lãnh thông
qua những điều kiện được thể hiện trong cam kết bảo lãnh như: yêu cầu
bảo lãnh của bên nhận bảo lãnh phải được ghi bằng văn bản; yêu cầu bảo
lãnh phải được gửi đến tận “trụ sở” ngân hàng trước một thời điểm xác
định; bên nhận bảo lãnh phải gửi kèm theo văn bản yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh hồ sơ chứng minh bên được bảo lãnh đã vi phạm nghĩa
vụ; văn bản bảo lãnh chỉ được lập thành một bản chính duy nhất…
Với
cách quản trị rủi ro như trên, đương nhiên bên nhận bảo lãnh sẽ gặp khó
khăn trong việc nhận thanh toán tiền từ ngân hàng trong những trường
hợp bên được bảo lãnh trây ì, có biểu hiện lợi dụng các nội dung cam kết
bảo lãnh để bắt bí ngân hàng và bên nhận bảo lãnh. Như trường hợp trong
hạn thanh toán bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh gửi văn bản yêu cầu thanh
toán nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng cũng muốn thanh toán, nhưng lại nhận
được công văn của bên được bảo lãnh thông báo yêu cầu ngân hàng không
được thanh toán vì cho rằng, mình chưa vi phạm nghĩa vụ. Ngân hàng sẽ
khó mà thanh toán tiền bảo lãnh trong trường hợp này, vì về nguyên tắc
pháp lý, có sự vi phạm nghĩa vụ của một bên hay không, chỉ có tòa án
hoặc trọng tài mới có thẩm quyền quyết định. Vậy là, với cách định hướng
quản trị rủi ro như vậy, ngân hàng sẽ tạo ra sự phản cảm trong con mắt
của cộng đồng DN về hình ảnh, giá trị và uy tín của cam kết bảo lãnh và
của chính ngân hàng.
Quản trị rủi ro theo bản chất tín dụng
Ngân
hàng cần xác định rõ định hướng quản trị rủi ro ở khâu giải quyết cấp
bảo lãnh và bảo đảm tiền vay đối với việc cấp bảo lãnh. Nên lựa chọn
hình thức bảo lãnh vô điều kiện, để thanh toán bảo lãnh không khác gì
việc thanh toán một L/C. Tức là, ngân hàng chỉ cần nhận được văn bản yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thì lập tức thanh toán cho bên nhận
bảo lãnh, mà không cần biết về lý do yêu cầu. Sau đó, ngân hàng buộc bên
được bảo lãnh nhận nợ bắt buộc và sẽ xử lý tài sản bảo đảm của khách
hàng trong trường hợp chậm trả nợ.
Để
bảo lãnh trở thành vô điều kiện đúng nghĩa, các nội dung điều kiện ràng
buộc đối với bên nhận bảo lãnh cần giảm thiểu ở mức tối đa.
Ngân
hàng cần xác định rõ bản chất của bảo lãnh cũng giống như một khoản cấp
tín dụng thông thường. Theo đó, công tác quản trị rủi ro đối với nghiệp
vụ bảo lãnh không nên đặt quá nặng, quá chặt ở khâu ràng buộc trách
nhiệm giữa ngân hàng với bên nhận bảo lãnh. Vấn đề trọng tâm cần đặt ra
trước khi ngân hàng triển khai nghiệp vụ bảo lãnh cho một khách hàng cụ
thể đó là việc đánh giá và thẩm định kỹ lưỡng khả năng trả nợ của khách
hàng, cũng như khả năng xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không thanh
toán được khoản nợ phát sinh từ thanh toán bảo lãnh. Các biện pháp bảo
đảm tiền vay có mức an toàn cao nhất như ký quỹ, cầm cố, thế chấp nên
được áp dụng theo thứ tự ưu tiên lần lượt.
Đối
với các ngân hàng đã tồn tại và triển khai nghiệp vụ bảo lãnh theo định
hướng quản trị rủi ro này, thì để tránh tình trạng “vàng, thau lẫn lộn”
trong nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng cần phổ biến cho cộng đồng DN biết
và nhận thức rõ hơn về định hướng triển khai nghiệp vụ bảo lãnh của ngân
hàng mình. Đồng thời, ngân hàng cần cung cấp những chiếc khiên bảo vệ
vững chắc cho cán bộ – nhân viên mình để phòng tránh rủi ro cho họ và
cho chính ngân hàng. Chiếc khiên bảo vệ đó chính là kiến thức, thông
tin, sự hiểu biết về nghiệp vụ bảo lãnh và các kiến thức cơ bản liên
quan đến nghiệp vụ bảo đảm tiền vay như: cách thức lựa chọn hình thức
bảo đảm an toàn nhất; cách thức xác định loại tài sản bảo đảm nên nhận,
loại tài sản bảo đảm không nên nhận; hệ thống rủi ro tồn tại trong các
nhóm tài sản bảo đảm, khung pháp lý điều chỉnh các vấn đề sở hữu tài
sản.
… và phòng ngừa rủi ro pháp lý
Thông
tư 28/2012/TT-NHNN ngày 3/10/2012 hướng dẫn nghiệp vụ cấp bảo lãnh của
ngân hàng đã có hiệu lực. Có nhiều quan điểm khen sự chặt chẽ của thông
tư này, nhưng thực tế cho thấy, có những phiền toái và rủi ro pháp lý
rắc rối nảy sinh cho giới ngân hàng.
Thứ
nhất, khoản 2, Điều 18, Thông tư 28 quy định, “trường hợp ngày hết hiệu
lực bảo lãnh trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết thì ngày hết hiệu lực
được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo”. Thông thường, hệ thống công
nghệ quản trị, theo dõi thông tin của các ngân hàng sau khi được cập
nhật yếu tố thời hạn theo thỏa thuận chỉ có thể xác định ngày hết hạn
theo thỏa thuận này. Với quy định mới nêu trên, nếu như ngân hàng không
tìm cách điều chỉnh công nghệ, thì sẽ dẫn tới rủi ro cho ngân hàng là
bảo lãnh tưởng như đã hết hạn, ngân hàng hết trách nhiệm, nhưng hóa ra
vẫn còn. Do vậy, khi triển khai nghiệp vụ, ngân hàng cần quy định để cán
bộ tín dụng tính toán tránh ngày cuối cùng của thời hạn rơi vào ngày
lễ, ngày nghỉ, nhằm tránh vướng mắc từ quy định nêu trên.
Thứ
hai, theo Điều 15, Thông tư 28, các hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh
của ngân hàng cần phải có chữ ký của ba người, thay vì một người như
trước đây, bao gồm: người đại diện theo pháp luật, người quản lý rủi ro
hoạt động bảo lãnh, người thẩm định khoản bảo lãnh. Quy định này có
nhiều vấn đề rủi ro, vướng mắc, vô lý còn phải bàn, nhưng đã là quy định
thì ngân hàng đương nhiên phải chấp hành, để bảo đảm hiệu lực pháp lý
cho các văn bản giao dịch bảo lãnh. Do đó, trong nội bộ ngân hàng nên có
một quy định hệ thống hóa về việc ủy quyền nói chung, trong đó điều
tiết cả cơ chế ủy quyền ký các văn bản nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, để
bảo đảm khả năng theo dõi, xử lý các vấn đề liên quan đến ủy quyền trong
hệ thống.
Để
nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tồn tại, phát triển, các ngân hàng nên chú
trọng vào thương hiệu, uy tín, năng lực quản trị rủi ro kinh doanh của
mình và khiến cho DN nhìn thấy điều đó ẩn sau các văn bản cam kết bảo
lãnh ngân hàng. Ngân hàng cũng nên nhận biết và quản trị tốt các rủi ro
pháp lý từ môi trường pháp lý, tránh tình trạng “ngân hàng bảo lãnh cho
người, còn mình thì để cho ruồi nó bâu”.
Nguồn: Tinnhanhchungkhoan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét