Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

Bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự


Ngày 10/10/2011, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 70/2011/TT-BCA quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một số nội dung liên quan đến quyền của người bào chữa cho người bị tạm giam và bị can trong vụ án hình sự.
1. Người bị tạm giam, bị can được giải thích quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và thực hiện thủ tục nhờ người bào chữa
Khi giao Quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, Quyết định khởi tố bị can cho bị can, Điều tra viên phải lập biên bản, trong đó phải giải thích và ghi rõ ý kiến của người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào chữa hay không. Trường hợp người bị tạm giữ hoặc bị can bị tam giam cần nhờ người bào chữa, thì Điều tra viên phải hướng dẫn họ làm văn bản đề nghị người đại diện hợp pháp hoặc viết giấy yêu cầu luật sư (có họ tên, địa chỉ rõ ràng) bào chữa cho họ, và trong vòng 24 giờ kể từ khi bị tam giữ, tạm giam, Cơ quan điều tra có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị, giấy yêu cầu của họ, bằng thư bảo đảm hoặc chuyển phát nhanh đến đối tượng cụ thể mà họ đề nghị hoặc yêu cầu. Trường hợp người bị tạm giữ, bị can viết giấy nhờ người thân mời luật sư bào chữa cho họ thì trong thời gian hạn 24 giờ kể từ khi người bị tạm giữ, bị can có giấy nhờ người thân, Cơ quan điều tra có trách nhiệm gửi giấy đó cho người thân của người bị tạm giữ, bị can bằng thư bảo đảm hoặc chuyển phát nhanh. Trường hợp người bị tạm giữ, bị can chưa nhờ người bào chữa thì trong lần đầu lấy lời khai của họ, Điều tra viên phải hỏi rõ họ có nhờ người bào chữa không và phải ghi ý kiến của họ vào biên bản.
Ngoài ra, Thông tư số 70, còn quy định quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và thực hiện thủ tục nhờ người bào chữa cho bị can trong những trường hợp bị can phạm tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình; bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất...
2. Người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị tạm giữ
Sau khi được cấp giấy chứng nhận, người bào chữa có quyền đề nghị Điều tra viên giao các quyết định tố tụng liên quan đến người được bào chữa và thông báo cách thức liên lạc của Cơ quan điều tra, Điều tra viên với mình khi cần thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can. Điều tra viên phải thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can cho người bào chữa trước 24 giờ, nếu người bào chữa ở xa có thể thông báo trước 48 giờ, trường hợp không thể trì hoãn được thì Điều tra viên tiến hành lấy lời khai, hỏi cung và sau đó phải thông báo cho người bào chữa biết.
3. Thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa đối với luật sư
Hồ sơ Luật sư đề nghị cấp giấy chứng nhận người bào chữa và tham gia tố tụng phải có đủ 03 loại giấy tờ sau đây: 1) Bản sao có chứng thực Thẻ luật sư; 2) Giấy yêu cầu luật sư của người bị tạm giữ, bị can hoặc của người thân của những người này; 3) Giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của Đoàn luật sư (nếu Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân). Trường hợp Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa thì Luật sư được cử phải có văn bản phân công của Đoàn Luật sư thay cho giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư.
Sau khi nhận đủ các giấy tờ hợp lệ nói trên, trong thời hạn 03 ngày (hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ người) Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa, nếu từ chối thì phải có văn bản nêu rõ lý do.
4. Trong quá trình thực hiện trách nhiệm bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can Luật sư có quyền:
- Đề nghị thay đổi Điều tra viên nếu có căn cứ thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42 hoặc điểm b khoản 1 Điều 44 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
- Đưa ra yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa đề nghị Điều tra viên làm sáng tỏ các tình tiết liên quan trong vụ án, bảo đảm cho vụ án được điều tra toàn diện, khách quan, đúng pháp luật;
- Gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam;
- Được nhận Kết luận điều tra, đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra.
Thông tư số 70/2011/TT-BCA có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/12/2011.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét