Pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự (BA-QĐDS) của Tòa
án nước ngoài (TANN) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan trong trường hợp
BA-QĐDS của TANN có nhu cầu thi hành tại Việt Nam. Một trong những nội
dung quan trọng của pháp luật trong lĩnh vực này là việc xác định phạm
vi các BA-QĐDS của TANN có thể được xem xét công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam, bởi vấn đề này có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá
trình giải quyết vụ việc. Bài viết phân tích quy định của pháp luật hiện
hành, so sánh với kinh nghiệm lập pháp quốc tế, đề xuất các kiến nghị
nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật[1].
1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
Pháp luật Việt Nam hiện hành tiếp cận khái niệm phán
quyết của cơ quan tài phán nước ngoài ở phạm vi hẹp, nghĩa là chỉ bao
gồm các bản án, quyết định do TANN ban hành. Tuy nhiên, phạm vi các bản
án, quyết định của TANN cũng khác nhau trong các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên cũng như văn bản pháp luật trong nước mà điển
hình là Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004.
1.1. Quy định của các Hiệp định tương trợ tư pháp (TTTP) mà Việt Nam là thành viên
Đến thời điểm hiện tại, chỉ có các Hiệp định TTTP mà
Việt Nam ký kết với các nước là có quy định về vấn đề công nhận và cho
thi hành BA-QĐDS của TANN. Xem xét nội dung của các hiệp định, chúng ta
thấy nội hàm khái niệm phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài rất
khác nhau ở từng hiệp định cụ thể:
Theo Điều 51, Điều 52 Hiệp định TTTP giữa Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam và Liên bang Nga năm 1999, thì bản án,
quyết định của TANN gồm hai loại: quyết định về các vụ kiện không mang
tính chất tài sản; và quyết định về các vụ kiện mang tính chất tài sản. Quyết
định về các vụ kiện không mang tính chất tài sản bao gồm: “1. Bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật về các vụ kiện dân sự không mang
tính chất tài sản do Toà án của bên ký kết này tuyên được công nhận trên
lãnh thổ của bên ký kết kia…; 2. Quyết định về những vụ kiện hôn nhân,
gia đình không mang tính chất tài sản của các cơ quan khác, không phải
là Toà án”.Còn quyết định về các vụ kiện mang tính chất tài sản bao gồm:
“Bản án, quyết định của Toà án về các vụ kiện dân sự; Phần bồi thường
thiệt hại do tội phạm gây ra trong bản án, quyết định hình sự của Toà
án; Thoả thuận của các đương sự tại phiên toà về giải quyết vụ kiện dân
sự mang tính chất tài sản được Toà án công nhận và văn bản công chứng có
hiệu lực thi hành theo pháp luật của Bên ký kết nơi được công chứng”.
Hiệp định TTTP giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng
hòa nhân dân Mông Cổ năm 2000 cũng có cách định nghĩa về bản án, quyết
định của TANN tương tự với Hiệp định TTTP giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam
và Liên bang Nga năm 1999. Theo đó, BA-QĐDS của TANN gồm hai loại: quyết
định về các vấn đề không mang tính chất tài sản; quyết định về các vấn
đề mang tính chất tài sản. Quyết định về các vấn đề không mang tính chất
tài sản bao gồm: “Các quyết định đã có hiệu lực về các vấn đề dân sự
(bao gồm cả lao động) và gia đình không mang tính chất tài sản do cơ
quan tư pháp, cơ quan hộ tịch, cũng như cơ quan giám hộ và trợ tá của
Bên ký kết này đã ra”. Quyết định về các vấn đề mang tính chất tài sản
bao gồm: “Các quyết định của Tòa án về các vấn đề dân sự (bao gồm cả lao
động) và gia đình mang tính chất tài sản; Các thoả thuận hoà giải do
Toà án công nhận; Các quyết định về bồi thường thiệt hại trong các bản
án hình sự”.
Tương tự, Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Belarut năm
2000 quy định, bên cạnh các BA-QĐDS do Tòa án của các bên ký kết ban
hành thì quyết định về những vụ kiện hôn nhân, gia đình, lao động của
các cơ quan khác không phải là Tòa án cũng được xem xét công nhận và cho
thi hành trên lãnh thổ của nhau (khoản 2 Điều 56).
Như vậy, các Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Liên
bang Nga, Mông Cổ, Belarut tiếp cận khái niệm phán quyết của cơ quan tài
phán nước ngoài theo nghĩa rộng, bao gồm bản án, quyết định của Tòa án
và quyết định do các cơ quan khác không phải là Tòa án ban hành. Tuy
nhiên, một số Hiệp định TTTP khác lại tiếp cận khái niệm phán quyết của
cơ quan tài phán nước ngoài theo nghĩa hẹp. Cụ thể:
Điều 15 Hiệp định TTTP giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1999 quy định:“Các quyết định của Tòa
án nói trong Hiệp định này ở Cộng hòa XHCN Việt Nam bao gồm: BA-QĐDS và
biên bản hòa giải của Tòa án; Ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bao gồm:
phán quyết, tài định và biên bản hòa giải của Tòa án”. Cụ thể bao gồm: “Các
quyết định của Toà án về các vấn đề dân sự; Các quyết định của Toà án
về việc bồi thường thiệt hại dân sự trong bản án hình sự”.
Điều 44 Hiệp định TTTP giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 1999 quy định: Nước ký kết này sẽ
công nhận và thi hành bản án, quyết định sau đây của Nước ký kết kia
trên lãnh thổ nước mình theo quy định của Hiệp định này: “1. BA-QDDS, kể
cả bản án, quyết định của Toà án về lao động, hôn nhân, thừa kế và các
bản án, quyết định khác ghi trongHiệp định này; 2. Quyết định về phần
tài sản trong bản án hình sự”.
Các Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Cuba năm 1984, Hungary năm 1985, Bungary năm 1986… đều có các quy định tương tự.
Như vậy, các Hiệp định TTTP đều không đưa ra định
nghĩa về bản án, quyết định của TANN mà áp dụng phương pháp liệt kê các
loại bản án, quyết định của Tòa án nước ký kết này sẽ được công nhận và
cho thi hành trên lãnh thổ của nước ký kết kia. Xem xét quy định của các
Hiệp định TTTP, chúng ta thấy phạm vi các phán quyết được xem là
BA-QĐDS do Tòa án ban hành cũng rộng hẹp khác nhau. Nếu Hiệp định TTTP
giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga năm 1999 cũng như Hiệp định
TTTP giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Mông Cổ năm 2000
quy định phạm vi các BA-QĐDS của Tòa án ban hành rất rộng, bao gồm các
bản án, quyết định không mang tính chất tài sản; bản án, quyết định mang
tính chất tài sản trong lĩnh vực dân sự; Thoả thuận của các đương sự
tại phiên toàvà cả các văn bản công chứng có hiệu lực thi hành theo pháp
luật của Bên ký kết nơi được công chứng, có thể là bản án, quyết định
do Tòa án ban hành nhưng cũng có thể là quyết định trong lĩnh vực dân sự
do cơ quan khác không phải là Tòa án ban hành (cơ quan tư pháp, cơ quan
hộ tịch, cơ quan giám hộ…) thì phạm vi các BA-QĐDS của Tòa án ban hành
theo Hiệp định TTTP giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào năm 1999 lại rất hẹp, chỉ bao gồm BA-QĐDS về lao động, hôn
nhân, thừa kế và các quyết định về phần tài sản trong bản án hình sự do
Tòa án ban hành. Vì các Hiệp định TTTP chỉ liệt kê mà không định nghĩa
BA-QĐDS của TANN, nên không có cơ sở để đánh giá quy định của Hiệp định
TTTP nào là phù hợp, đúng đắn. Tuy nhiên, một đặc điểm chung có thể rút
ra được, là đa số các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì
phạm vi các phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài được hiểu theo
nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các BA-QĐDS do Tòa án ban hành. Đặc điểm này sẽ
được thể hiện đậm nét trong pháp luật quốc gia của các nước là thành
viên của điều ước.
Một vấn đề nữa cần xem xét trong quy định của các
Hiệp định TTTP về cách tiếp cận khái niệm bản án, quyết định của TANN là
việc phân nhóm các bản án, quyết định. Theo các hiệp định giữa Việt Nam
và Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Mông Cổ có hai nhóm bản án, quyết
định của TANN là bản án, quyết định không mang tính chất tài sản và bản
án, quyết định mang tính chất tài sản. Việc phân nhóm này không có nhiều
ý nghĩa trong việc xem xét nội dung của bản án, quyết định nhưng có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các điều kiện để công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định đó như điều kiện đối với tư cách chủ thể
nộp đơn yêu cầu, điều kiện về nơi cư trú, tài sản của bên phải thi hành
và quan trọng nhất là xác định trình tự, thủ tục công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định đó. Quy định của các điều ước quốc tế cũng như
pháp luật các nước đều phân định rõ thủ tục công nhận đối với bản án,
quyết định chỉ có yêu cầu công nhận và thủ tục cưỡng chế thi hành đối
với bản án, quyết định có nhu cầu thi hành. Việc không phân định rõ hai
loại bản án, quyết định này sẽ kéo theo nhiều vấn đề phát sinh trong
việc xây dựng quy định pháp luật cũng như áp dụng pháp luật vào thực
tiễn[2].
Cụ thể: theo Hiệp định TTTP giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang
Nga thì đối với việc công nhận bản án, quyết định về các vụ kiện dân sự
không mang tính chất tài sản thì không cần phải có một thủ tục tố tụng
đặc biệt nào (đương nhiên công nhận) nhưng đối với việc công nhận và cho
thi hành các bản án, quyết định mang tính chất tài sản thì buộc phải
trải qua trình tự, thủ tục công nhận và thi hành.
1.2. Quy định của BLTTDS 2004
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về BA-QĐDS
của TANN được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam tập trung trong
BLTTDS năm 2004. Điều 342 BLTTDS 2004 về “BA-QĐDS của
TANN, quyết định của Trọng tài nước ngoài” quy định: “1. BA-QĐDS của
TANN là bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định
hình sự, hành chính của TANN và bản án, quyết định khác của TANN mà theo
pháp luật của Việt Nam được coi là BA-QDDS”.Từ quy định này, chúng ta
có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, BLTTDS năm 2004 tiếp cận khái niệm
phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm
bản án, quyết định của TANN, quyết định của Trọng tài nước ngoài. Đối
với bản án, quyết định của Tòa án, theo quy định của BLTTDS năm 2004,
chỉ những bản án, quyết định được tuyên bởi cơ quan tài phán nước ngoài
có tên gọi là Tòa án mới được xem xét công nhận và cho thi hành ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2004 hoàn toàn căn cứ vào các quy định của
pháp luật Việt Nam để xác định phạm vi bản án, quyết định của TANN. Điều
này phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như đặc điểm của pháp luật quốc
gia về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của TANN là pháp
luật trong nước đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, việc tiếp cận khái
niệm phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài theo nghĩa hẹp trong một
số trường hợp trên thực tế đã gây khó khăn cho các chủ thể có nhu cầu
công nhận tại Việt Nam một phán quyết nhưng không do Tòa án tuyên.
Thứ hai, BLTTDS năm 2004 không phân định
BA-QĐDS của TANN thành bản án, quyết định không mang tính chất tài sản
và bản án, quyết định mang tính chất tài sản. Như đã phân tích, việc
phân nhóm này không có nhiều ý nghĩa khi xem xét nội dung của bản án,
quyết định nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các điều
kiện cũng như trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định đó. Những quy định của BLTTDS năm 2004 về trình tự, thủ tục công
nhận và cho thi hành cho thấy sự lúng túng của nhà làm luật trong việc
xây dựng một trình tự, thủ tục hợp lý đối với tính chất của từng loại
bản án, quyết định mà nguyên nhân quan trọng nhất chính là việc không
phân định rõ hai loại BA-QĐDS của TANN.
Thứ ba, những văn bản do một số cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài không phải là Tòa án ban hành không được xem
là bản án, quyết định của TANN tại Việt Nam. Xuất phát từ nguyên tắc
Luật Tòa án (Lex fori) trong tố tụng dân sự quốc tế, Tòa án các quốc gia
trong quá trình hoạt động chỉ tuân theo pháp luật tố tụng của nước
mình. Vì vậy, thẩm quyền của Tòa án Việt Nam chỉ tuân theo pháp luật tố
tụng của Việt Nam và chắc chắn là sẽ khác thẩm quyền của TANN. Chính
nguyên nhân này dẫn đến trên thực tế có những vụ việc dân sự ở nước
ngoài không do Tòa án giải quyết, nhưng tại Việt Nam lại do Tòa án giải
quyết (ly hôn chẳng hạn). Vì thế, các quyết định này nếu có nhu cầu công
nhận tại Việt Nam sẽ không được xem là BA-QĐDS của TANN theo quy định
của BLTTDS năm 2004.
Thứ tư, phạm vi BA-QĐDS được công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của BLTTDS năm 2004 hẹp hơn một
số Hiệp định TTTP ký giữa Việt Nam với các nước. Điều này đã dẫn đến
tình trạng bản án, quyết định của TANN được công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam rộng hơn khái niệm bản án, quyết định của TANN theo quy
định của BLTTDS năm 2004. Dĩ nhiên rằng, trong trường hợp có sự khác
nhau giữa quy định của pháp luật trong nước và quy định của điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì quy định của
điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng. Tuy nhiên, xét ở góc độ kỹ
thuật lập pháp, rõ ràng đã không có sự tương đồng giữa pháp luật trong
nước với quy định trong từng điều ước quốc tế cụ thể mà Việt Nam là
thành viên.
Tóm lại, xem xét quy định của các Hiệp định TTTP mà
Việt Nam là thành viên cũng như quy định của BLTTDS năm 2004 về khái
niệm BA-QĐDS của TANN, chúng ta thấy, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn
còn rất nhiều điểm khác biệt trong kỹ thuật lập pháp cũng như quy định
cụ thể giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế. Những khác biệt
này cần thiết phải được xem xét và điều chỉnh để đảm bảo hiệu lực điều
chỉnh của các quy định pháp luật trên thực tế trong bối cảnh hội nhập
quốc tế của Việt Nam.
2. Đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam
2.1. Thay đổi cách tiếp cận
Cách tiếp cận của BLTTDS năm 2004 (trước đây là Pháp
lệnh Công nhận và Thi hành tại Việt Nam BA-QĐDS của TANN năm 1993)là
liệt kê cụ thể tên của cơ quan tài phán nước ngoài ban hành phán quyết
và tên của phán quyết nước ngoài. Cách tiếp cận này dẫn đến phạm vi các
phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài được xem xét công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam rất hẹp, chỉ bao gồm các phán quyết có tên gọi là
bản án, quyết định và phải do TANN ban hành. Điều này là nguyên nhân
chính dẫn đến trên thực tế có rất nhiều quyết định của nước ngoài có nhu
cầu và cần phải được công nhận tại Việt Nam để bảo vệ lợi ích chính
đáng của của công dân Việt Nam nhưng đã không được Tòa án có thẩm quyền
của Việt Nam công nhận, do không phải là quyết định của TANN ban hành.
Ví dụ như, đối với các văn bản đăng ký thay đổi liên
quan đến việc kết hôn, ly hôn trước cơ quan hộ tịch nước ngoài đều không
được công nhận tại Việt Nam khi công dân Việt Nam có nhu cầu kết hôn
hoặc ly hôn tại Việt Nam bởi theo pháp luật một số nước và vùng lãnh thổ
(như Hàn Quốc, Đài Loan) thì thẩm quyền giải quyết các vấn đề này không
chỉ bao gồm Tòa án như tại Việt Nam. Để tạm thời giải tỏa ách tắc về
vấn đề này, trước khi BLTTDS năm 2004 được ban hành (từ năm 1998 – năm
2005) Chính phủ đã ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998
Về đăng ký hộ tịch quy định về việc ghi chú vào Sổ đăng ký hộ tịch các
việc ly hôn đã tiến hành trước cơ quan hộ tịch có thẩm quyền của nước
ngoài. Sau khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành (01/01/2005) Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 Về đăng ký
và quản lý hộ tịch thay thế Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998.
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã không có quy định nào về việc ghi chú hộ
tịch những thay đổi về hộ tịch như Nghị định số 83/1998/NĐ-CP vì lý do
BLTTDS năm 2004 đã quy định vấn đề công nhận và cho thi hành BA-QĐDS của
TANN. Nhằm tạm thời khắc phục tình trạng ách tắc hồ sơ, giải quyết bức
xúc và góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam, Bộ
Tư pháp đã ban hành Thông tư số 16/2010/TT-BTP ngày 08/10/2010 “Hướng
dẫn việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài”. Tuy
nhiên, tất cả những biện pháp trên đây chỉ là giải pháp tạm thời và cũng
chỉ áp dụng đối với vấn đề ly hôn mà chưa thể giải quyết được toàn bộ
các vấn đề liên quan đến các quyết định không do TANN ban hành có nhu
cầu công nhận tại Việt Nam.
So sánh với quy định của các điều ước quốc tế, pháp
luật các nước trên thế giới, chúng ta thấy việc hạn chế phạm vi các phán
quyết của cơ quan tài phán nước ngoài trong giới hạn các bản án, quyết
định do TANN ban hành của pháp luật Việt Nam tỏ ra không còn phù hợp với
các chuẩn mực pháp lý quốc tế và quan trọng nhất, không đáp ứng được
yêu cầu của tình hình thực tiễn tại Việt Nam hiện nay. Vì vậy, chúng tôi
kiến nghị, cần thay đổi cách tiếp cận khái niệm phán quyết của cơ quan
tài phán nước ngoài trong pháp luật Việt Nam theo hướng không liệt kê cụ thể tên gọi của phán quyết và tên của cơ quan ban hành ra phán quyết đó.
Về nguyên tắc, phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài bao gồm mọi
phán quyết trong lĩnh vực dân sự, không phụ thuộc vào tên gọi và tên cơ
quan ban hành, nếu có nhu cầu công nhận và thi hành tại Việt Nam sẽ được
xem xét giải quyết nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật Việt
Nam quy định. Thật ra, cách tiếp cận này đã áp dụng trong Hiệp định TTTP
giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Liên bang Nga năm 1999 và Hiệp định TTTP
giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Mông Cổ năm 2000. Tuy
nhiên, đây là hai điều ước quốc tế song phương, chỉ có giá trị ràng buộc
đối với những nước là thành viên của điều ước mà không phải là các
nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam. Việc thay đổi cách tiếp cận là
hoàn toàn cần thiết trong bối cảnh yêu cầu công nhận các quyết định
không do TANN ban hành không ngừng gia tăng tại Việt Nam trong thời gian
gần đây, đồng thời góp phần quan trọng làm cho pháp luật Việt Nam phù
hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế, một trong những yêu cầu quan
trọng của pháp luật trong quá trình hội nhập quốc tế.
2.2. Phân định hai loại phán quyết của cơ quan
tài phán nước ngoài: phán quyết không có tính chất tài sản và phán quyết
có tính chất tài sản
Như đã phân tích, việc phân định hai loại phán quyết
như trên không có nhiều ý nghĩa khi xem xét nội dung của bản án, quyết
định, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các điều kiện
cũng như trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
đó. Việc BLTTDS năm 2004 không phân định rõ hai loại bản án, quyết định
này đã dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc quy định về điều kiện về tài sản
của bên phải thi hành khi bên có yêu cầu công nhận tại Việt Nam một
quyết định không mang tính chất tài sản và thủ tục không công nhận và
cho thi hành đối với bản án, quyết định chỉ có nhu cầu công nhận tại
Việt Nam thể hiện từ Điều 350 đến Điều 363 BLTTDS năm 2004. Thực tiễn
cho thấy, rất nhiều trường hợp chính các điều kiện do BLTTDS năm 2004
đặt ra đã hạn chế khả năng bảo vệ các lợi ích hợp pháp của các chủ thể
có nhu cầu công nhận tại Việt Nam bản án, quyết định của TANN. Để khắc
phục các vấn đề này, chúng tôi kiến nghị, trong quy định của pháp luật
Việt Nam về phán quyết của cơ quan tài phán nước ngoài có nhu cầu công
nhận và thi hành tại Việt Nam, cần phân định rõ những bản án, quyết định
không mang tính chất tài sản chỉ có nhu cầu công nhận và những bản án,
quyết định mang tính chất tài sản có nhu cầu thi hành tại Việt Nam để
đảm bảo cho việc xây dựng các quy định về các điều kiện cũng như trình
tự, thủ tục công nhận và cho thi hành phù hợp với tính chất của từng
loại bản án, quyết định./.
[1]
Trong phạm vi bài viết, tác giả không đề cập đến các vấn đề có liên
quan đến việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài.
[2] Xem
thêm: Bành Quốc Tuấn, Hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam BA-QĐDS của TANN, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5, tháng
3/2011.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét