Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Rút kinh nghiệm về giải quyết một số vụ án Kinh doanh thương mại bị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy


Nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát giải quyết các vụ án Kinh doanh thương mại, Viện phúc thẩm 1 rút kinh nghiệm một số vụ án Kinh doanh thương mại bị Viện kiểm sát kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận xử hủy, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử theo thủ tục chung, cụ thể:
Vụ án: ngày 28/7/2004 Hợp tác xã Bình Minh ký hợp đồng thuê tài sản số 02 với Công ty trách nhiệm hữu hạn Vạn Đô do ông Nguyễn Văn Đồng làm giám đốc , nọi dung: thuê 500 m2 sân bê tông, thời hạn 20 năm .
Ngày 22/12/2004 ông Nguyễn Văn Đồng và ông Trần Quảng, tư cách là xã viên hợp tác xã Bình Minh đã ký hợp đồng về khoán tài sản số 06 với hợp tác xã Bình Minh, nội dung: Khoán 500 m2 bê tông để sản xuất kinh doanh, thời hạn 20 năm.
Năm 2007 hợp tác xã Bình Minh ký hợp đồng số 07 về việc giao khoán tài sản với ông Nguyễn Văn Đồng, gồm: 925, 7 m2 dãy nhà nghỉ gồm 11 phòng, hai nhà lễ tân, một nhà kho, một nhà bảo vệ, với thời gian nhận khoán 20 năm. Sau đó ngày 18/11/2009, hợp tác xã Bình Minh và ông Nguyễn Văn Đồng ký ba phụ lục hợp đồng số 01, 02, 03 để điều chỉnh tăng giá thuê khoán đối với các hợp đồng số 06, 07 nói trên, mặc dù thời hạn thực hiện hợp đồng mà hợp tác xã Bình Minh đã ký với các bị đơn chưa hết, nhưng do hợp tác xã Bình Minh không phát huy hết được lợi thế từ vị trí thửa đất được nhà nước giao nên ngày 2/7/2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã ra quyết định số 199 cùng ngày, thu hồithửa đất trên, giao cho Ủy ban nhân dân thành phố Vinh xử lý. Tuy nhiên từ khi có quyết định thu hồi đấtđến nay, các bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Vạn Đô, ông Nguyễn Văn Đồng, ông Trần Quảng không chịu thanh lý hợp đồng bàn giao tài sản thuê, khoán để hợp tác xã Bình Minh giao trả nhà nước.
-Về thiệt hại: hợp tá xã Bình Minh yêu cầu các bị đơn phải bồi thường thiệt hại với số tiền là 210.064.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, ngày 20/4 và 10/6 /2011 phía Bị đơn phản tố yêu cầu Nguyên đơn phải bồi thường số tiền là 10.347.480.684 đồng thiệt hại do Bị đơn đã chi phí đầu tư. Tại bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08 ngày 1/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã áp dụng Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự ; các Điều 122, 127, 134, 425, 480, 501 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 106 Luật đất đai năm 2003, tuyên bố các hợp đồng kinh tế đã ký giữa hợp tác xã Bình Minh với các Bị đơn gồm:
-Hợp đồng số 92 ngày 28/7/2004 về việc thuê tài sản giữa hợp tác xã Bình Minh và Công ty trách nhiệm hữu hạn Vạn Đô là vô hiệu
- Hợp đồng số 06 ngày 22/12/2004 về việc khoán tài sản giữa Hợp tác xã Bình Minh với ông Nguyễn Văn Đồng và ông Trần Quảng là vô hiệu.
- Chấp nhận sự thỏa thuận của hợp tác xã Bình Minh là trả nợ Cho cho công ty trách nhiệm hữu hạn Vạn Đô số tiền là 82.000.000 đồng.
- Hợp tác xã Bình Minh trả cho ông Nguyễn Văn Đồng khoản tiền chi phí tháo dỡ xây dựng thêm tài sản theo hợp đồng số 07 là 136.012.000 đồng.
Ông Nguyễn Văn Đồng phải trả cho Hợp tác xã Bình Minh số tiền tài sản còn lại khi nhận khoán theo hợp đồng 07 là 11. 791. 758 đồng.
*Về án phí: - Buộc Hợp tác xã Bình Mình phải chịu 9.500.oo đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
- Buộc ông Nguyễn văn Đồng, ông Trần Quảng phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 172.0000.000 đồng, được khấu trừ 59. 000.000 đồng tiền tạm ứng án phí phản tố, ông Đồng và ông Quảng phải nộp tiếp 113.000.000 đồng.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm :
   .Bỏ sót yêu cầu khởi kiện của đương sự:
-Theo đơn khởi kiện của hợp tác xã Bình Minh, yêu cầu Tòa án buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Vạn Đô và các ông Nguyễn Văn Đồng, Trần Quảng trả lại tài sản mặt bằng đã thuê để Hợp tác xã Bình Minh trả lại đất cho nhà nước theo quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An. Đây là mấu chốt của vụ án nhưng yêu cầu này đã không được cấp sơ thẩm xem xét và quyết định trong bản án là bỏ sót yêu cầu của nguyên đơn, đồng thời mâu thuẫn với nguyên tắc xử lý của hợp đồng vô hiệu, làm cho việc giải quyết vụ án không triệt để, gây khó khăn cho công tác thi hành án.
-Đối với khoản tiền hợp tác xã Bình Minh yêu cầu các bị đơn bồi thường 210. 064.000 đồng, tuy có được xem xét trong phần nhận định, nhưng không được tuyên xử trong phần quyết định của bản án (chấp nhận hay không chấp nhận) là bỏ sót yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.
      Đối chiếu quy định trên thấy: Dù tuyên các hợp đồng số 02, 06, 07 vô hiệu nhưng Tòa án không làm rõ được mức độ lỗi của các bên đương sự khi ký kết hợp đồng vô hiệu và những thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng đó để làm cơ sở giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự là thiếu sót chưa được xem xét triệt để trong việc giải quyết vụ án.
 . Về án phí:
Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai sót nghiêm trọng khi yêu cầu phản tố của ông Đồng, ông Quảng yêu cầu hợp tác xã Bình Minh phải bồi thường thiệt hại 10.137. 460 684 đồng, không được tuyên trong phần quyết định của bản án (chấp nhận hay không chấp nhận). Nhưng Tòa án lại tuyên ở trang 13 và 14 của bản án buộc hai ông phải chịu án phí về các yêu cầu phản tố của họ là không đúng pháp luật.
Tương tự như vậy, với khoản tiền 210.064.000 đồng, mà hợp tác xã Bình Minh yêu cầu các Bị đơn bồi thường cũng không được tuyên xử trong phần quyết định của bản án, nhưng lại tuyên buộc họ phải chịu án phí với yêu cầu này là không đúng pháp luật. Mặt khác, việc tính tóan số tiền án phí cho các đương sự không đúng quy định của Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án.
.Về tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, Công ty trách nhiệm hữu hạn Vạn Đô nộp, cũng không thấy đề cập đến trong bản án sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.
.Tòa án tùy tiện sửa chữa bản án :Ngoài ra trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm , Bị đơn có nhiều đơn và trình bày : Tòa án sơ thẩm đã ban hành hai ban án cụ thể : Sau khi xử sơ thẩm, ngày 14/9/2011, Bị đơn nhận được bản án số 08 ngày 1/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Thời gian sau, Bị đơn lại nhận được bản án số hiệu như trên và miếng giấy dán ở góc trái phía trên trang 1 nội dung : “bản án này thay thế bản án trước”.
Qua so sánh thấy phần nhận định và đánh giá giống như bản án trước, nhưng tại trang 13 và 14 có sự khác nhau số liệu giữa hai bản án. Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 12, Chương III, Nghị quyết 02 ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì việc sửa chữa bản án phải được thể hiện đưới dạng thông báo và theo mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 02. Tòa án tùy tiện sửa chữa bản án như trên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Phát hiện, phân tích, đánh giá chính xác những sai phạm nghiêm trọng của bản án cấp sơ thẩm, cùng với những chứng lý đầy đủ căn cứ mang tính thuyết phục cao nên kháng nghị trên của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận toàn bộ kháng nghị, quyết định hủy án sơ thẩm trên để giải quyết theo thủ tục chung.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét