Hiển thị các bài đăng có nhãn kinh doanh thương mại. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kinh doanh thương mại. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự


Trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự thời gian gần đây, đã phát sinh một số tình huống gây ra sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin minh hoạ bằng một trường hợp cụ thể mà hiện nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.
Nội dung sự việc:
Luật sư Trần Văn S thuộc có nhận làm đại diện uỷ quyền tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị N. Văn bản uỷ quyền được chứng thực theo quy định pháp luật, được nộp ngay từ khi bắt đầu khởi kiện, với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Trần Văn S được đại diện cho bà Nguyễn Thị N tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; bà Nguyễn Thị N cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”.
Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Trần Văn S đã thay mặt bà Nguyễn Thị N đứng tên kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện M. Nội dung đơn kháng cáo đúng theo quy định nhưng Thẩm phán giải quyết vụ án không nhận đơn với lý do: ông Trần Văn S không được quyền kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị N mà phải có văn bản uỷ quyền ghi rõ là ông S được uỷ quyền kháng cáo thay và phải có công chứng, chứng thực (theo tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thực hiện điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ diễn biến nêu trên đã phát sinh 2 quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tại Điều 243 BLTTDS quy định về người có quyền kháng cáo: “Đương sự, người đại điện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”.
Tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: “Việc uỷ quyền tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm”.
Do đó, theo quan điểm này thì người đại diện của đương sự phải thực hiện theo đúng các quy định của Điều 243 BLTTDS và hướng dẫn của mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP nêu trên, tức là phải có làm thêm văn bản uỷ quyền và phải có nội dung ghi rõ bà Nguyễn Thị N uỷ quyền cho ông Trần Văn S kháng cáo.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tại khoản 1 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền”.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 74 BLTTDS quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”.
Theo các quy định nêu trên thì không cần thiết phải làm thêm văn bản uỷ quyền kháng cáo cho người đại diện của đương sự. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của bà Nguyễn Thị N ghi rất cụ thể là ông Trần Văn S được đại diện cho bà tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định. Hay nói cách khác, quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 BLTTDS cũng đã bao gồm cả quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án.
Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, đồng thời nhận thấy hướng dẫn tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP chỉ áp dụng đối với trường hợp văn bản uỷ quyền của đương sự không nêu rõ phạm vi uỷ quyền như trường hợp này hoặc mới phát sinh khi đương sự thực hiện quyền kháng cáo.
Trên đây là ý kiến của chúng tôi về việc nhận thức luật và áp dụng luật. Rất mong nhận được các ý kiến trao đổi, đóng góp từ phía các đồng nghiệp.
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Kỹ năng đặc thù trong thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại


Về nguyên tắc, việc thụ lí vụ án kinh doanh, thương mại cũng giống như các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quan hệ pháp luật tranh chấp mà việc thụ lí giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại có những lưu ý riêng như sau:
1. Nghiên cứu đơn khởi kiện và giấy tờ kèm theo đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Để thực hiện quyền khởi kiện, trước hết đương sự phải nộp đơn khởi kiện đến Toà án có thẩm quyền. Đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại theo quy định chung về nội dung và hình thức đơn khởi kiện quy định tại Điều 164 BLTTDS. Tuy nhiên, nội dung và hình thức đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại có những điểm riêng cần chú ý như sau:
Nội dung tranh chấp phải được phản ánh rõ ràng trong đơn khởi kiện, đặc biệt đối với những tranh chấp có quy định bên bị vi phạm phải thực hiện việc khiếu nại trước khi khởi kiện ra toà án thì trong đơn kiện phải thể hiện rõ các bên tranh chấp đã khiếu nại với nhau hay chưa.
Những yêu cầu của nguyên đơn trong đơn khởi kiện phải cụ thể, rõ ràng. Yêu cầu của đương sự trong các vụ án kinh doanh, thương mại là các yêu cầu tính được bằng tiền và  tranh chấp về kinh doanh, thương mại không được miễn tạm ứng án phí. Do đó, giá trị tranh chấp giữa các bên là cơ sở để toà án tính tạm ứng án phí. Trên thực tế, nhiều đơn khởi kiện gửi đến Toà án đưa ra yêu cầu bằng ngoại tệ hoặc chỉ đưa ra mức lãi suất hoặc chỉ đưa ra số tiền là phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại. Trong những trường hợp này, Toà án phải yêu cầu đương sự quy đổi ra tiền Việt nam và có cách tính cụ thể để ra số tiền phạt hợp đồng, tiền bồi thường thiệt hại.
Về hình thức đơn khởi kiện đối với các vụ án kinh doanh, thương mại cần lưu ý đến người đứng tên trong đơn kiện. Đương sự trong các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường là các chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân. Đó là công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã. Người kí đơn khởi kiện trong trường hợp này là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Riêng đối với công ty hợp danh, các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp luật của công ty nhưng Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc là đại diện cho công ty với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trước Toà án. Do đó, Chủ tịch Hội đồng thành viên  có quyền kí đơn khởi kiện. Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp là người kí đơn khởi kiện. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân, cũng có thể uỷ quyền cho người khác kí đơn kiện và tham gia tố tụng tại Toà án. Ngoài ra, đương sự là công ty thì đơn kiện phải có dấu của công ty vào cuối đơn. Ví dụ, vụ án do đơn vị phụ thuộc của pháp nhân khởi kiện, đơn kiện do giám đốc chi nhánh không được uỷ quyền hợp pháp kí tên và đóng dấu chi nhánh. Trong những trường hợp như vậy, Toà án phải hướng dẫn cụ thể cho đương sự để sửa lại đơn khởi kiện theo đúng yêu cầu hoặc xuất trình giấy uỷ quyền hợp lệ.
Kèm theo đơn khởi kiện, đương sự phải nộp kèm theo những giấy tờ, tài liệu sau:
(1) Đối với tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình: Văn bản hợp đồng mà các bên đã kí kết, các phụ lục hợp đồng (nếu có); Hoá đơn, chứng từ, giấy biên nhận, phiếu thu…liên quan đến việc giao nhận hàng hoá, cung ứng dịch vụ và thanh toán; Biên bản thanh lí hợp đồng; Công văn, giấy tờ, khiếu nại hoặc biên bản làm việc giữa các bên…
- Các giấy tờ tài liệu nhằm xác định tư cách pháp lí của người khởi kiện và người kí đơn kiện: Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh- đầu tư (nếu có); Điều lệ hoạt động của pháp nhân; Quyết định bổ nhiệm hoặc biên bản bầu người đại diện theo pháp luật, giấy uỷ quyền…


(2) Đối với tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức công ty
-  Các giấy tờ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình: Điều lệ hoạt động của công ty; Danh sách thành viên (đối với công ty TNHH, công ty hợp danh), danh sách cổ đông sáng lập (đối với công ty cổ phần), sổ đăng kí thành viên, sổ đăng kí cổ đông; Biên bản bầu chức danh quản lí công ty; Biên bản định giá tài sản góp vốn của thành viên; Biên bản cuộc họp của cơ quan quản lí công ty liên quan đến nội dung tranh chấp; Các quyết định quản lí công ty liên quan đến nội dung tranh chấp…
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách pháp lí của người khởi kiện và người kí đơn kiện (nếu có).
2. Xác định tư cách người khởi kiện trong các vụ án kinh doanh, thương mại
Trước hết, Thẩm phán phải xem xét tư cách chủ thể pháp lí của người khởi kiện. Trong các vụ án phát sinh từ tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh, người khởi kiện thường là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Đó là công ty nhà nước, Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh.
Có nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể thành lập các chi nhánh, đội sản xuất, phân xưởng, văn phòng đại diện… Đây chỉ là các đơn vị phụ thuộc của pháp nhân và không có tư cách chủ thể pháp lí độc lập để tham gia quan hệ tố tụng. Khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do các đơn vị phụ thuộc kí kết thì pháp nhân có đơn vị phụ thuộc sẽ thực hiện quyền khởi kiện.
Thứ hai, Thẩm phán phải xem người khởi kiện có tư cách khởi kiện hay không
Quan hệ kinh doanh rất phức tạp và đa dạng, tham gia quan hệ có thể có nhiều chủ thể khác nhau. Để xác định chủ thể nào có quyền khởi kiện và chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ, Thẩm phán phải xác định tranh chấp kinh doanh, thương mại đó phát sinh từ quan hệ pháp luật nào. Ví dụ như trong quan hệ đại diện cho thương nhân, quan hệ uỷ thác mua bán hàng hoá.
Thứ ba, Thẩm phán phải xác định người khởi kiện có bị mất quyền khởi kiện không. Trong một số quan hệ pháp luật về kinh doanh, thương mại yêu cầu các bên tranh chấp phải thực hiện việc khiếu nại trong thời hạn khiếu nại, nếu không khiếu nại sẽ bị mất quyền khởi kiện. Ví dụ như trong quan hệ hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ nội địa, bằng đường hàng không.
3. Xác định thẩm quyền giải quyết  vụ án kinh doanh, thương mại
Để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án trong các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, trước hết Toà án phải xác định tranh chấp phải thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ thống Toà án nhân dân hay thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương mại.
Cơ sở để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án và trọng tài là thoả thuận trọng tài giữa các bên. Điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định: “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lí, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu”.
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản trong đó, thừa nhận các hình thức văn bản như điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác trong đó thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài. Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một thoả thuận riêng biệt.
Khi quyết định thụ lí những tranh chấp kinh doanh, thương mại mà trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên có thoả thuận trọng tài, Thẩm phán cần phải xem xét thoả thuận trọng tài có bị vô hiệu hay không. Thoả thuận trọng tài vô hiệu trong những trường hợp sau đây:
(1) Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại;
(2) Người kí thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền kí kết theo quy định của pháp luật;
(3) Một bên kí kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
(4) Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc không quy định rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung;
(5) Thoả thuận trọng tài không được lập dưới hình thức văn bản;
(6) Bên kí kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu;
Thẩm phán cần xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài một cách độc lập với hiệu lực của quan hệ pháp luật đang tranh chấp. Việc thay đổi, gia hạn, huỷ bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài.
Khi xem xét thoả thuận trọng tài vô hiệu, Thẩm phán cũng cần chú ý một số trường hợp sau đây theo hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003:
Trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do người kí thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền kí kết theo quy định của pháp luật. Khi phát sinh tranh chấp mà một bên có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án yêu cầu người có thẩm quyền kí kết thoả thuận trọng tài cho biết ý kiến bằng văn bản có chấp nhận thoả thuận trọng tài do người không có thẩm quyền kí kết trước đó hay không. Nếu họ chấp nhận thì thoả thuận trọng tài không vô hiệu và tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
Trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do người kí thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Toà án phải yêu cầu đương sự xuất trình giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Toà án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do không quy định hoặc không quy định rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Đây là trường hợp theo thoả thuận trọng tài không thể xác định được đối tượng tranh chấp cụ thể là gì hoặc không thể xác định được Hội đồng Trọng tài nào, Trung tâm Trọng tài nào của Việt nam có thẩm quyền giải quyết này, nếu sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung.
Ví dụ: Trong thoả thuận trọng tài của các bên có ghi: “Trong trường hợp có tranh chấp, nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì yêu cầu Trọng tài giải quyết theo quy định của pháp luật Việt nam”. Thoả thuận trọng tài này vô hiệu do các bên không rõ việc giải quyết tranh chấp do Hội đồng trọng tài các bên thành lập hay do Trọng tài viên duy nhất hay do Hội đồng trọng tài của một Trung tâm trọng tài cụ thể của Việt nam, trừ trường hợp các bên có thoả thuận bổ sung về việc xác định Hội đồng trọng tài cụ thể của Việt nam có thẩm quyền giải quyết.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 thì trong một số trường hợp, tuy các bên có thoả thuận trọng tài có hiệu lực nhưng tranh chấp vẫn thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân. Đó là các trường hợp: Khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết hoặc khi được Toà án thông báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp mà trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của nguyên đơn hoặc thông báo của Toà án mà bị đơn không phản đối (được coi là các bên có thoả thuận mới lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp thay cho thoả thuận trọng tài) hoặc bị đơn có phản đối nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh là trước đó các bên đã có thoả thuận trọng tài (trường hợp này được coi là không có thoả thuận trọng tài); Khi có quyết định của Toà án huỷ quyết định trọng tài, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Sau khi xác định được tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ thống Toà án nhân dân, Thẩm phán phải làm rõ tranh chấp giữa các bên có phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại không. Điều 29 BLTTDS có liệt kê 4 nhóm tranh chấp được coi là tranh chấp kinh doanh, thương mại.
(1) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Theo quy định này, hai bên tranh chấp đều phải có đăng kí kinh doanh và  có mục đích lợi nhuận.  Cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền đăng kí kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh- đầu tư theo quy định của pháp luật. Cụ thể là cá nhân, hộ gia đình có đăng kí kinh doanh (được gọi là hộ kinh doanh cá thể), các loại hình doanh nghiệp (theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005), hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (theo quy định của Luật hợp tác xã). Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó.
(2) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Trong tranh chấp này, không đòi hỏi các bên đương sự phải có đăng kí kinh doanh. Tuy nhiên, Thẩm phán cần lưu ý các bên tranh chấp đều phải có mục đích lợi nhuận; nếu chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó là tranh chấp dân sự.
(3) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến hoạt động, giải thể, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức tổ chức công ty.
Đối với nhóm tranh chấp này, Thẩm phán cần lưu ý các bên tranh chấp có thể là công ty với thành viên công ty ; Thành viên công ty với thành viên công ty; Thành viên công ty với người khác không phải là thành viên công ty. Nội dung của các tranh chấp này liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
(4) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại
Căn cứ để phân định thẩm quyền theo cấp xét xử đối với các tranh chấp về kinh doanh, thương mại phụ là phụ thuộc vào tính chất của tranh chấp và đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần thiết phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự quán của Việt nam hoặc cho toà án nước ngoài. Theo đó, thì chỉ những tranh chấp cụ thể quy định tại Khoản 1 Điều 29 thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện. Đây là những tranh chấp diễn ra phổ biến trên thực tế và tính phức tạp không cao.
Cuối cùng, để xác định tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án địa phương mình hay không, Thẩm phán phải vận dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Việc xác định này cũng giống như trong các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình và lao động.

4. Xác định thời hiệu khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Đối với những tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm. (Khoản 1 Điều 159 BLTTDS). Do đặc thù của một số quan hệ pháp luật kinh doanh mà luật nội dung có quy định về thời hiệu khởi kiện và cách tính thời hiệu khởi kiện khác. Trong trường hợp này, Toà án phải áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện và cách tính thời hiệu khởi kiện theo quy định của luật nội dung đó để xác định đơn kiện có được nộp trong thời hiệu khởi kiện không.
Các tranh chấp thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 quy định thời hiệu khởi kiện là 2 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Xác định ngày bắt đầu thời hiệu khởi kiện là ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm phụ thuộc vào từng tranh chấp. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các Thẩm phán để xem xét có thụ lí đơn kiện hay không. Các tranh chấp liên quan đến số lượng, chất lượng hàng hoá thì ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm được hiểu là ngày giao nhận hàng, trường hợp hàng hoá có bảo hành là ngày hết thời hạn bảo hành đối với tranh chấp về chất lượng hàng hoá. Các tranh chấp khác liên quan đến nghĩa vụ phải hoàn thành theo hợp đồng thì ngày bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là ngày bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ hoặc trường hợp hàng hoá có bảo hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo hành.
Các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận cũng có quy định riêng về thời hiệu khởi kiện. Xuất phát từ đặc thù quan hệ bảo hiểm giữa các bên là thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đối với các bên tương đối dài. Theo đó, Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm có quy định thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm là 3 năm kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp.
Tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hành khách cũng là một tranh chấp khá phổ biến hiện nay khi điều kiện giao lưu thương mại ngày một phát triển. Bộ luật hàng hải năm 2005 có quy định riêng về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Theo đó, thời hiệu khởi kiện về tổn thất hàng hoá vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là 1 năm, kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng. Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá theo chuyến là 2 năm kể từ ngày người khởi kiện biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm phạm. Luật giao thông đường thuỷ nội địa và Luật hàng không dân dụng lại có quy định về việc các bên phải khiếu nại với nhau trước khi khởi kiện ra Toà án. Nên trong vụ án phát sinh từ những tranh chấp này, Thẩm phán phải lưu ý các bên tranh chấp đã khiếu nại với nhau hay chưa và có trong thời hạn khiếu nại theo quy định của pháp luật hay không. Thời hạn khiếu nại đối với yêu cầu bồi thường hàng hoá trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá đường thuỷ nội địa là 20 ngày kể từ ngày giao hàng. Thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết yêu cầu đòi bồi thường. Đối với hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không, thời hạn khiếu nại là 14 ngày kể từ ngày nhận hàng đối với trường hợp thiếu hụt hàng hoá, 21 ngày đối với trường hợp mất mát hàng hoá. Thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày hàng hoá được vận chuyển tới địa điểm đến hoặc lẽ ra tàu bay phải đến địa điểm đến hoặc từ ngày việc vận chuyển bị đình chỉ.

Ls Phan Khắc Nghiêm

Một số sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại


Việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại còn phạm một số sai sót, cụ thể như sau:
1. Xác định sai thẩm quyền của Toà án khi thụ lý, giải quyết vụ án:
Ví dụ 1: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh; trụ sở tại quận M, thành phố HCM.
– Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân Trần Hoàng Hải; trụ sở tại huyện CL, tỉnh TG.
Ngày 8/11/2007, hai doanh nghiệp ký kết hợp đồng mua bán số 08/HĐMB/2007 mà theo đó ngoài các thoả thuận về việc mua bán hàng hoá (Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh mua của Doanh nghiệp tư nhân Trần Hoàng Hải 280.000 kg lúa Jasmin trị giá 1.064.000.000 đồng; thời hạn giao hàng đến ngày 31/12/2007; địa điểm giao hàng tại thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long…) thì tại Điều 5 của hợp đồng, hai bên còn có thoả thuận về việc giải quyết tranh chấp là: “…Trường hợp hai bên không giải quyết được thì Toà Kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là người phán quyết cuối cùng mà hai bên phải chấp hành”.
Khi tranh chấp xẩy ra, nguyên đơn là Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh đã khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân tỉnh TG là nơi có trụ sở của bị đơn (khởi kiện tại Toà án nhân dân tỉnh là vì tại thời điểm này Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG chưa được tăng thẩm quyền).
Tại Quyết định sơ thẩm số 09/2008/QĐST ngày 21/4/2008, Toà án nhân dân tỉnh TG nhận định (tóm tắt): Tại Điều 5 của hợp đồng mua bán các bên đã thoả thuận Toà Kinh tế Toà án nhân dân thành phố HCM giải quyết tranh chấp nên vụ kiện này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà Kinh tế Toà án nhân dân tỉnh TG. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm e khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 192, Điều 193, Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 11, Điều 24 Luật Thương mại, quyết định: Đình chỉ giải quyết vụ án.
Nguyên đơn kháng cáo Quyết định sơ thẩm.
Tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ vụ án số 106/2008/QĐPT ngày 9/9/2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố HCM căn cứ Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; giữ nguyên quyết định sơ thẩm.
Ngày 28/10/2008, nguyên đơn khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân thành phố HCM và đến ngày 13/11/2008, Toà án nhân dân thành phố HCM đã ra Thông báo số 4344/TATP về việc trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn, đồng thời hướng dẫn nguyên đơn khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân cấp huyện nơi có trụ sở của bị đơn (Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG).
Xét thấy: Việc thoả thuận của các đương sự về Toà án có thẩm quyền giải quyết chỉ được Toà án công nhận khi thoả thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 33, điểm b, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thì việc đương sự thoả thuận Toà Kinh tế Toà án nhân dân thành phố H giải quyết khi có tranh chấp là không đúng (Vì theo điểm a khoản 1 Điều 29, điểm b khoản 1 Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết loại việc này là Toà án nhân dân cấp huyện, do đó đương sự chỉ có thể thoả thuận Toà án nhân dân quận M, thành phố HCM nơi nguyên đơn có trụ sở để giải quyết tranh chấp). Do các đương sự thoả thuận Toà án có thẩm quyền giải quyết không đúng quy định của pháp luật thì căn cứ quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên tại thời điểm đương sự khởi kiện, Toà án nhân dân huyện CL chưa được tăng thẩm quyền nên lẽ ra Toà án nhân dân tỉnh TG phải thụ lý giải quyết. Việc Toà án nhân dân tỉnh TG đình chỉ giải quyết vụ án là sai, làm cho vụ án bị kéo dài. Nay Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG đã được tăng thẩm quyền, do đó khi thụ lý lại thì Toà án nhân dân huyện CL, tỉnh TG đã có thẩm quyền giải quyết.
2. Xác định tư cách tố tụng của đương sự chưa đúng:
a. Xác định nguyên đơn:
Ví dụ: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh HG.
- Bị đơn: Công ty cổ phần sinh học Thái Dương.
Tại Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 01/2007/QĐST-KDTM ngày 9/8/2007, Toà án nhân dân tỉnh HG đã quyết định:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Hậu Giang chấp nhận cho Công ty cổ phần sinh học Thái Dương trả nợ gốc là 5.600.000.000 đồng và lãi trong hạn tính từ khi ngưng đóng lãi cho đến ngày 2/8/2007 là 1.217.373.398 đồng, tổng cộng là 6.817.938 đồng….
Ví dụ: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh VP.
- Bị đơn: Công ty TNHH Giấy Việt Nhật.
Tại Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 14/2009/QĐST-KDTM ngày 3/9/2009, Toà án nhân dân tỉnh VP đã quyết định:
1. Công nhận sự thoả thuận của các đương sự nguyên đơn: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Vĩnh Phúc; bị đơn: Công ty TNHH Giấy Việt Nhật.
2. Sự thoả thuận của các đương sự cụ thể như sau:…
Xét thấy: Cả 2 ví dụ nêu trên đều cho thấy Toà án cấp sơ thẩm xác định tư cách khởi kiện của nguyên đơn là không đúng. Nguyên đơn trong vụ án phải là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chứ không phải là chi nhánh tại các tỉnh HG hoặc tỉnh VP, vì: Theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Chi nhánh chỉ là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hay một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền; chi nhánh không phải là pháp nhân. Trường hợp này, để giải quyết vụ án đúng pháp luật lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải hướng dẫn cho đương sự ngay từ khâu khởi kiện, thụ lý vụ án về việc pháp nhân khởi kiện và uỷ quyền khởi kiện (theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng dân sự; hướng dẫn tại tiểu mục 1.4, điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 phần I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Công văn số 38/KHXX ngày 29/3/2007 của Toà án nhân dân tối cao).
b. Xác định bị đơn:
Ví dụ: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Thuận Hoà Bình;
- Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình (do ông Đỗ Hoàng Bình- giám đốc làm đại diện theo pháp luật).
Ngày 31/3/2007, Công ty TNHH Thuận Hoà Bình ký hợp đồng bán cho Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình mặt hàng dây cáp điện với tổng trị giá hợp đồng là 817.248.000 đồng. Thực hiện hợp đồng, phía Công ty TNHH Thuận Hoà Bình đã giao đủ hàng cho Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình và đến ngày 2/5/2007 hai bên đối chiếu công nợ, theo đó số tiền Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình còn nợ lại là 577.248.000 đồng. Ngày 19/7/2007, Công ty TNHH Thuận Hoà Bình khởi kiện đối với Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình yêu cầu trả số tiền trên cùng tiền lãi phạt quá hạn theo hợp đồng.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 20/6/2008, Toà án nhân dân Quận N, thành phố HCM đã quyết định (tóm tắt): Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bị đơn là Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình phải trả cho Công ty TNHH Thuận Hoà Bình số tiền 671.222.974 đồng (gồm nợ gốc là 577.248.000 đồng, lãi phạt quá hạn là 93.975.974 đồng).
Ngày 20/6/2008, ông Đỗ Hoàng Bình – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình có đơn kháng cáo.
Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 953/2008/KDTM-PT ngày 25/8/2008, Toà án nhân dân thành phố HCM đã quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Xét thấy: Theo quy định tại khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “Chủ Doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp”. Trong vụ án này, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình là bị đơn đều là không đúng. Phải xác định bị đơn trong vụ án là ông Đỗ Hoàng Bình – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Vĩ Bình.
(Ngoài ra, khi giải quyết vụ án này, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm còn có sai sót khác về tố tụng: các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất trình đều là những bản photocopy, không có công chứng, chứng thực và cũng không được Thẩm phán tiến hành đối chiếu với bản gốc, nhưng Hội đồng xét xử vẫn căn cứ vào các tài liệu này để giải quyết vụ án là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao).
3. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có sai sót:
Ví dụ 1: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á.
- Bị đơn: Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Tuyết Trang 
Theo hợp đồng tín dụng số 111/07-HĐNH-VAB ngày 30/3/2007, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á – Chi nhánh Đà Nẵng đã cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Tuyết Trang vay 1.600.000.000 đồng với lãi suất 0,95%/tháng, thời hạn vay 12 tháng. Để đảm bảo cho khoản vay, bà Lê Thị Tuyết Trang là giám đốc Công ty Tuyết Trang đã thế chấp cho Ngân hàng tài sản là nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương, phường HC 2, thành phố ĐN. Nhà đất này đã được Ủy ban làân dân quận HC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 7/7/2006 đứng tên bà Lê Thị Tuyết Trang. Do không trả được nợ nên Ngân hàng Việt Á đã khởi kiện đối với Công ty Tuyết Trang.
Tại Quyết định công nhân sự thoả thuận của các đương sự số 49/2008/QĐST-KDTM ngày 8/9/2008, Toà án nhân dân thành phố ĐN đã quyết định (tóm tắt):
Công nhận sư thoả thuận của các đương sự: Công ty Tuyết Trang còn nợ Ngân hàng Việt Á số tiền 1.853.333.333 đồng, gồm nợ gốc 1.600.000.000 đồng và nợ lãi 253.333.333 đồng.
Công ty Tuyết Trang cam kết thanh toán nợ dứt điểm từ ngày 30/8/2008 đến ngày 31/10/2008.
Nếu Công ty Tuyết Trang vi phạm thời hạn thanh toán thì tài sản thế chấp là nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương thuộc sở hữu của bà Lê Thị Tuyết Trang được phát mãi để Ngân hàng thu hồi nợ.
Ngày 30/7/2009, ông Hoàng Hồng Kỳ (chồng bà Lê Thị Tuyết Trang) có đơn khiếu nại Quyết định công nhân sự thoả thuận theo thủ tục giám đốc thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu mới thu thập, thấy: Trước thời điểm Ngân hàng khởi kiện vụ án này thì ông Kỳ đã khởi kiện tại Toà án nhân dân quận HC, thành phố ĐN về việc xin ly hôn bà Tuyết Trang và có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương (nhà đất này cũng chính là nhà đất mà bà Tuyết Trang đã thế chấp cho ngân hàng). Trường hợp này, do vụ án kinh doanh thương mại được thụ lý sau nên lẽ ra Toà án nhân dân thành phố ĐN cần tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự để chờ kết quả giải quyết vụ án ly hôn thì mới đúng pháp luật, nhưng thực tế Toà án nhân dân thành phố ĐN vẫn tiếp tục giải quyết vụ án. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thành phố ĐN cũng không xác minh, làm rõ hoặc thu thập chứng cứ nhằm xác định chính xác nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương là tài sản chung của ông Kỳ, bà Trang hay là tài sản riêng của bà Trang mà chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Trang để ra Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự trong đó có cả thoả thuận về việc xử lý tài sản thế chấp (nhà đất tại số 59 Triệu Nữ Vương) là xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Kỳ.
Ví dụ 2: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng công thương Việt Nam
- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh Tùng.
Ngày 14/4/2008, ông Nguyễn Thanh Tùng ký Hợp đồng tín dụng số 08.06.0027/HĐTD vay Ngân hàng công thương Việt Nam – Chi nhánh tỉnh VP 350.000.000 đồng để kinh doanh hàng tạp hoá; thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất trong hạn là 1,37%/tháng… Để bảo đảm cho số tiền vay trên, ngày 8/4/2008, vợ chồng ông Tùng ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 08.06.0027/HĐBĐ với Ngân hàng, theo đó vợ chồng ông Tùng dùng tài sản là quyền sử dụng 150 m2đất (thuộc thửa đất số 226 tờ bản đồ 1B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 200573 do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Tường cấp cho ông Tùng) và tài sản gắn liền trên đất để thế chấp cho Ngân hàng. Hợp đồng thế chấp này được Uỷ ban nhân dân xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường, tỉnh VP xác nhận ngày 14/4//2008.
Do ông Tùng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông Tùng phải thanh toán tổng số tiền là 393.050.000 đồng (gồm nợ gốc 350.000.000 đồng và nợ lãi tính đến ngày 17/3/2009 là 43.050.000 đồng), nếu không trả được nợ thì xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tại phiên hoà giải ngày 16/4/2009, đại diện Ngân hàng và ông Tùng đã thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại Quyết đinh công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 07/2009/QĐST-KDTM ngày 22/4/2009, Toà án nhân dân tỉnh VP quyết định (tóm tắt): Công nhận sự thoả của các đương sự như sau:
1. Tính đến ngày 16/4/2009, ông Tùng còn nợ Ngân hàng công thương Việt Nam số tiền gốc là 350.000.000 đồng; tiền lãi là 48.300.000 đồng+lãi phạt quá hạn là 175.000 đồng. Tổng cộng:  398.475.000 đồng.
Ông Tùng thoả thuận trả nợ cho Ngân hàng như sau:
- Ngày 28/4/2009 trả 25.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 11/5/2009 trả  25.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 30/5/2009 trả 100.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 15/6/2009 trả 100.000.000 đồng tiền gốc;
- Ngày 30/6/2009 trả số tiền gốc 100.000.000 đồng cộng toàn bộ lãi và phí phạt quá hạn.
2. Nếu phía ông Tùng vi phạm một trong các kỳ hạn trả nợ nêu trên thì phía Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án xử lý toàn bộ tài sản mà ông Nguyễn Thanh Tùng và bà Nguyễn Thị Thu Hương đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 08.06.0027/HĐBĐ ngày 8/4/2008 để thu hồi nợ.
Ngày 24/5/2010 và ngày 16/12/2010, Ngân hàng có đơn kiếu nại Quyết định công nhận sự thoả thuận theo thủ tục giám đốc thẩm.
Xét thấy: Đối chiếu nội dung Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 07/2009/QĐST-KDTM ngày 22/4/2009 nêu trên với thoả thuận của các đương sự tại phiên hoà giải ngày 16/4/2009 Toà án nhân dân tỉnh VP có lập 2 biên bản hoà giải:
- Tại Biên bản hoà giải ngày 16/4/2009, hai bên đương sự thống nhất ông Tùng còn nợ Ngân hàng tính đến ngày 16/4/2009 gồm nợ gốc, nợ lãi và nợ lãi phạt quá hạn, tổng cộng là 398.475.000 đồng; ông Tùng sẽ thanh toán theo từng đợt. Riêng ngày 30/6/2009, ông Tùng có trách nhiệm trả “100.000.000 đồng tiền gốc + toàn bộ lãi + lãi phát sinh”. Tại Biên bản hoà giải này không thể hiện việc các đương sự thoả thuận về việc xử lý tài sản thế chấp, phí phạt quá hạn.
- Biên bản hoà giải thành ngày 16/4/2009 về cơ bản đã thể hiện đúng thoả thuận của các đương sự về số nợ gốc và lãi, về thời gian và số tiền gốc ông Tùng phải trả cho Ngân hàng. Tuy nhiên, tại Biên bản này không ghi lãi phát sinh,nhưng lại có thêm phần xử lý tài sản thế chấp: “Nếu phía ông Tùng vi phạm một trong các kỳ hạn trả nợ nêu trên thì phía Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh VP xử lý toàn bộ tài sản mà ông Nguyễn Thanh Tùng và bà Nguyễn Thị Thu Hương đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 08.06.0027/HĐBĐ ngày 8/4/2008 để thu hồi nợ”.
Tại Quyết định công nhận sự thoả thuận đã không có khoản tiền lãi kể từ ngày ban hành quyết định cho đến ngày thanh toán hết nợ, song lại có thêm phần “phí phạt quá hạn”.
Như vậy, giữa “Biên bản hoà giải” và “Biên bản hoà giải thành” cùng ngày 16/4/2009 đã có nội dung khác nhau, và so với Quyết định công nhận sự thoả thuận cũng không thống nhất, dẫn đến việc đương sự khiếu nại.
Ví dụ 3: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH công nghiệp và thương mại Á Châu.
- Bị đơn: Công ty TNHH Bình Minh.
Quá trình giải quyết vụ án, tại buổi hoà giải ngày 29/8/2008 các bên đương sự đã thoả thuận được với nhau về toàn bộ các vấn đề trong vụ án và các thoả thuận này đều là tự nguyện, do đó Thẩm phán chủ trì buổi hoà giải đã lập Biên bản hoà giải thành, trong đó có ghi đầy đủ các nội dung thoả thuận của các đương sự như trong Biên bản hoà giải. Tuy nhiên, Biên bản hoà giải thành này chỉ có chữ ký của Thẩm phán chủ trì buổi hoà giải mà thiếu toàn bộ chữ ký của đương sự tham gia hoà giải.
Căn cứ vào Biên bản hoà giải thành nêu trên, Toà án nhân dân thành phố HN đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số 129/2008/QĐST-KDTM ngày 5/9/2008 là vi phạm tố tụng (theo hướng dẫn tại tiểu mục 6.2 mục 6 phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Công văn số 107/VKHXX ngày 23/6/2006 của Toà án nhân dân tối cao).

Chọn trọng tài hay tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh – thương mại??


Mạnh hay yếu?
Không đưa ra khuyến cáo cụ thể đối với doanh nghiệp, song LS. Trần Hữu Huỳnh, Phó chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), tại Hội thảo “Doanh nghiệp hội nhập: Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư”, do Báo Đầu tư và VIAC phối hợp tổ chức vào cuối tuần qua tại Hà Nội, đã “đặt lên bàn cân” những điểm mạnh và điểm yếu của hai cơ quan tài phán là tòa án và trọng tài để doanh nghiệp quyết định lựa chọn đâu là nơi sẽ xử lý, giải quyết những tranh chấp của mình.
Theo ông Trần Hữu Huỳnh, điểm mạnh lớn nhất của trọng tài chính là thời gian xử lý nhanh, không công khai, trọng tài viên có trách nhiệm giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp, phán quyết của trọng tài là chung thẩm, không kháng cáo. Ngược lại, với tòa án, thời gian xử lý có thể bị kéo dài, do các bên gặp phải sự kháng cáo kéo dài và tốn kém, các bản án lại công khai, thủ tục mang tính bắt buộc, phạm vi thi hành hẹp hơn… Tuy nhiên, trong khi tòa án có những thẩm quyền đương nhiên, có thẩm quyền xét xử liên quan đến bên thứ ba và có thể trực tiếp ban hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì trọng tài lại không thể, thẩm quyền cũng do các bên thỏa thuận và cũng không có thẩm quyền xét xử bên thứ ba liên quan (trừ khi có thỏa thuận trọng tài).
Tương tự như vậy, ông Phạm Tuấn Anh, Chánh tòa Kinh tế (Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội) cũng cho rằng, quyết định chọn cơ quan tài phán nào là phụ thuộc vào doanh nghiệp và tốt nhất, doanh nghiệp nên đưa quyết định đó vào những điều khoản cụ thể của hợp đồng kinh tế. Theo ông Phạm Tuấn Anh, doanh nghiệp Việt Nam thường không quan tâm đến vấn đề tranh chấp, nên khi ký hợp đồng ít đặt ra vấn đề khi phát sinh tranh chấp phải giải quyết tại đâu, bởi thế, kết cục cuối cùng là tìm đến tòa án.
“Theo quy định, nếu doanh nghiệp thỏa thuận chọn cơ quan trọng tài và đưa ra tên chính xác, chẳng hạn VIAC bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thì đương nhiên tòa án không can thiệp được, nhưng nếu chọn trọng tài không rõ ràng, thì thỏa thuận đó là vô hiệu, tòa án sẽ giải quyết”, ông Phạm Tuấn Anh nói và cho rằng, hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam vẫn ít quan tâm đến trọng tài, cho dù hình thức xử lý tranh chấp thông qua trọng tài “mềm dẻo” hơn.
Thực tế cũng cho thấy, nếu như trong năm 2006, tòa Kinh tế (Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội) phải giải quyết 159 vụ tranh chấp; năm 2007 là 226 vụ, bình quân một thẩm phán xử 32 vụ/năm, thì VIAC chỉ xử lý 25 vụ kiện/năm, bình quân 4 trọng tài viên mới xử lý một vụ/năm. Vì sao có sự chênh lệch này? Theo LS. Trần Hữu Huỳnh, đó là vì khung pháp luật về trọng tài trước đây bất cập, khiến doanh nghiệp chưa tin tưởng vào trọng tài; doanh nghiệp cũng chưa hiểu hết các thuận lợi của hình thức trọng tài và chưa có thói quen lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp qua trọng tài.
Chọn trọng tài hay tòa án?
Vậy nên chọn trọng tài hay tòa án để giải quyết các tranh chấp? Tại sao doanh nghiệp nước ngoài thường chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, thay vì tòa án? Thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam thường lựa chọn tòa án để giải quyết các vụ tranh chấp. Điều này khiến các tòa án kinh tế rơi vào tình trạng quá tải, thời gian giải quyết vụ án kéo dài, gây tốn kém cho doanh nghiệp.
Thực tế trên cũng đã được cảnh báo từ khá lâu. Bởi nhiều khi, chuyện hình sự hóa các quan hệ kinh tế có thể khiến doanh nghiệp bị thiệt thòi, thậm chí vướng vào vòng lao lý chỉ vì những phán quyết cứng nhắc của tòa án. Trong khi đó, thỏa thuận giữa hai bên, với sự xét xử của trọng tài, do chính doanh nghiệp lựa chọn, sẽ mang lại các cơ hội xử lý tranh chấp mềm dẻo hơn, tránh những xung đột kiểu năm ăn, năm thua.
Đặc biệt, với các tranh chấp liên quan đến vấn đề quản trị doanh nghiệp, mà ông Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Chính sách kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) đã chỉ ra, như tranh chấp về tư cách cổ đông, về phương thức và tài sản vốn góp, về quyền điều hành công ty… nếu đưa ra tòa, có thể sẽ khiến mâu thuẫn trở nên gay gắt và mở rộng thêm.
Trong vấn đề này, thực tế đã chứng minh, các can thiệp mang tính hành chính không thể hiệu quả bằng các thương lượng, hòa giải. Việc bổ nhiệm ai nắm quyền lãnh đạo doanh nghiệp, đặc biệt là trong các công ty cổ phần, là thuộc về đại hội đồng cổ đông, chứ không phải bằng các mệnh lệnh hành chính của các cơ quan chủ quản. Các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ cũng tương tự như vậy, được khuyến cáo là nên tìm đến trọng tài.
Tuy vậy, không thể không thừa nhận vai trò của tòa án trong các phán quyết liên quan đến các tranh chấp thương mại và đầu tư của doanh nghiệp. Có những vụ việc, chỉ có thể xử lý bằng tòa án, chẳng hạn các tranh chấp ngoài hợp đồng và những trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, tòa án cũng có vai trò hỗ trợ và giám sát rất lớn đối với việc thực thi các phán quyết của trọng tài. Chẳng hạn, tòa án có thể chỉ định trọng tài viên, thay thế trọng tài viên, giải quyết yêu cầu hủy quyết định trọng tài và đặc biệt, có quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời…
Không khuyến cáo doanh nghiệp nên chọn trọng tài, hay tòa án, vì đó là quyền của doanh nghiệp, song ông Phạm Tuấn Anh cũng cho rằng, những tranh chấp nảy sinh trên đất Việt Nam, nên được đưa đến tòa án, hay trọng tài Việt Nam giải quyết, tránh những tốn kém không đáng có về cả thời gian lẫn tiền bạc.
Và tất nhiên, còn một khuyến cáo nữa, các doanh nghiệp đã và đang được nghe từ lâu, đó là làm sao hạn chế được các tranh chấp có thể xảy ra. Bởi kèm theo tranh chấp là doanh nghiệp có thể bị sụt giảm uy tín, vấn đề cực kỳ quan trọng trong kinh doanh và đầu tư. Hơn thế, việc phải đưa ra xét xử, dù ở tòa án hay qua trọng tài, doanh nghiệp cũng ít nhiều tổn hao chi phí, thời gian, bởi việc các phán quyết của tòa án, cũng như của trọng tài kém hiệu lực thi hành trong thời gian qua có thể khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng “chờ được vạ, thì má đã sưng”…
Nâng cao hiệu quả thi hành án
“Một trong những lý do quan trọng khiến doanh nghiệp ít lựa chọn trọng tài để xử lý tranh chấp là xuất phát từ yếu tố tâm lý. Từ trước tới nay, cứ nghĩ tới tranh chấp bao giờ doanh nghiệp cũng muốn đưa vụ việc đến tòa án, bởi họ luôn nghĩ rằng, phán quyết của tòa án có sức mạnh thực thi hơn”, LS.
Nguyễn Bình An, Văn phòng Luật Ngọn lửa Việt cho biết. Cũng theo ông An, nguyên nhân chính của tình trạng các doanh nghiệp còn “thờ ơ” với hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chính là bởi doanh nghiệp còn hồ nghi sức mạnh của phán quyết trọng tài.
“Quyết định của trọng tài là chung thẩm, nên khi các trọng tài đưa ra quyết định về một vụ việc, doanh nghiệp không còn cơ hội để đòi thêm những quyền lợi cho mình. Điều này lại hoàn toàn có thể nếu họ đưa vụ việc ra xử lý tại tòa án, bởi họ có quyền khiếu nại về bản án đã được tuyên”, ông An nói.
Tuy vậy, ngay cả với các phán quyết của tòa án, thì không phải lúc nào cũng được thi hành nghiêm túc. Thực tế thi hành án tại Việt Nam trong những năm qua cho thấy, vẫn còn rất nhiều các phán quyết của tòa án không được thực thi vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Điều này cũng đã được ông Phạm Tuấn Anh thừa nhận. “Hiệu lực thi hành kém là do cơ quan thi hành án chưa phát huy hết khả năng.
Phán quyết của cơ quan tài phán chỉ quyết định 50% tính hiệu lực của bản án, phần còn lại là trách nhiệm của cơ quan thi hành án”, ông Phạm Tuấn Anh nói và phân tích rằng, ngay cả những phán quyết của tòa án về hòa giải thành công nhiều khi cũng không thực hiện được. Lúc đó, phải cưỡng chế, chẳng hạn bằng cách phong tỏa tài sản, song cơ quan thi hành án lại không thực hiện một cách triệt để. Hơn nữa, nhiều khi, quyết định phong tỏa tài sản, nhưng trong tài khoản đó của doanh nghiệp không còn một đồng, mà lại nằm ở một tài khoản khác, nên việc cưỡng chế trở nên vô nghĩa…
Chính vì thế, để cả phán quyết của trọng tài và tòa án được thực thi và tạo sự tin tưởng cho các doanh nghiệp trước mỗi vụ việc tranh chấp, cơ quan thi hành án cần nâng cao hơn nữa năng lực hoạt động của mình.
Ls Phan Khắc Nghiêm

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM


Ngày nay văn bản quan trọng nhất về trọng tài ở nước ta là Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 (sau đây: Pháp lệnh). Pháp lệnh này có quy định trọng tài giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài và tranh chấp không có yếu tố nước ngoài. Ở đây, chúng ta chủ yếu quan tâm đến việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài trước Trọng tài Việt Nam. Khi nào trọng tài Việt Nam có thẩm quyền giải quyết (I) ? Khi giải quyết tranh chấp, Trọng tài áp dụng những quy phạm pháp luật nào? (II) Sau khi giải quyết tranh chấp, số phận của quyết định trọng tài ra sao? (III). Chúng ta lần lượt nghiên cứu các vấn đề trên.
I. Thẩm quyền xét xử của Trọng tài
[1] Sự cần thiết. Nếu không có văn bản ràng buộc các bên đưa tranh chấp ra trước Trọng tài, Trọng tài chỉ có thể giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận về Trọng tài. Pháp lệnh đã nhấn mạnh điều này.
Chẳng hạn, theo Điều 1 và khoản 1 Điều 3, “pháp lệnh này quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên” và “tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài”. Như vậy, “thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng Trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”[1].
Như vậy, Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Nếu có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý thì Trọng tài cũng không có thẩm quyền và, nếu Trọng tài vẫn giải quyết trong trường hợp này, quyết định trọng tài sẽ bị hủy. Bởi lẽ, theo Điều 54, Pháp lệnh, “Toà án ra quyết định huỷ quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau đây: Không có thỏa thuận trọng tài và Thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Do đó, chúng ta cần xem xét khi nào thỏa thuận trọng tài tồn tại (1) và khi nào thỏa thuận này có hiệu lực (2).
1.Tồn tại một thỏa thuận trọng tài
[2] Định nghĩa. Theo khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh, “thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”. BLTTDS cũng có quy định. Thực vậy, theo khoản 1 Ðiều 365, “thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản về Trọng tài đã được ghi trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp”. Trong thực tế, để biết một thỏa thuận có là thỏa thuận trọng tài hay không đôi khi không đơn giản. Khi thiết lập thỏa thuận về trọng tài các bên nên thận trọng. Để tránh mọi phiền toái liên quan đến sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, các bên có thể đưa vào hợp đồng điều khoản trọng tài mà Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam khuyến khích. Cụ thể, các bên có thể thỏa thuận rằng “mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam”.
[3] Thỏa thuận hết hiệu lực. Để thỏa thuận trọng tài ràng buộc các bên cũng như cơ quan tố tụng thì tại thời điểm có tranh chấp, thỏa thuận này phải còn giá trị pháp lý. Trong thực tế xảy ra nhiều trường hợp theo đó các bên “đã có thỏa thuận trọng tài” nhưng thỏa thuận này không còn giá trị nữa khi có tranh chấp. Trong trường hợp như vậy, Trọng tài không có thẩm quyền và Tòa án có thẩm quyền. Ví dụ, “theo thỏa thuận của các bên tại hợp đồng số 02 thì cơ quan giải quyết tranh chấp giữa các bên (nếu có) là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (Điều IX) và tại điều 9 bổ sung phụ lục – Hợp đồng số 02 qui định cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án kinh tế, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. Sau khi doanh nghiệp Phát Thành khởi kiện GTT tại Tòa án Hà Nội, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện, tại biên bản ghi lời khai bị đơn lập ngày 21/11/2002 tại trụ sở Tòa án Hà Nội ông Chul – đại diện Công ty GTT đã khẳng định Công ty GTT xin chọn Tòa án kinh tế Hà Nội giải quyết tranh chấp giữa Công ty GTT với Công ty Phát Thành. Đến nay, theo quy định tại điều 29 và điều 34 BLTTDS thì vụ kiện vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội”[2]. Ở đây, các bên đã có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận này không vô hiệu nhưng không còn giá trị pháp lý nữa nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
2. Điều kiện hợp pháp của thỏa thuận Trọng tài
[4] Bản chất thương mại. Theo Điều 1 Pháp lệnh, “Pháp lệnh này quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên”. Khoản 1 Điều 10 của Pháp lệnh còn quy định là “thỏa thuận trọng tài vô hiệu” khi “tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này”. Như vậy, thỏa thuận Trọng tài có giá trị pháp lý đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại.
Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh quy định thế nào là hoạt động thương mại bằng hai phương pháp. Bằng phương pháp liệt kê, Pháp lệnh đã đưa ra một danh sách những hành vi thương mại. Cụ thể, theo Điều khoản này, “hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ”.
Những hành vi liệt kê ở trên không phải là hoạt động thương mại duy nhất mà các bên có thể đưa tranh chấp ra trước trọng tài. Bởi theo khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh, ngoài những hành vi vừa liệt kê còn có “các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Do vậy, quan điểm mà theo đó “Luật thương mại quy định bao quát hơn”[3] Pháp lệnh về hoạt động thương mại là không thuyết phục. Với cách quy định như trên, chúng ta thấy tất cả những gì quy định trong Luật Thương mại mà không có trong danh sách trên[4] đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh vì đó là “các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”.
[5] Năng lực. Theo khoản 3 Điều 10, thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “một bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.
Vậy, khi không có cơ sở để khẳng định năng lực dân sự thì thỏa thuận trọng tài có vô hiệu không ? Trong thực tế đã xảy ra trường hợp khi không chứng minh được sự tồn tại của một bên, Tòa án coi pháp nhân không tồn tại. Do vậy, không có cơ sở để chứng minh rằng bên này có năng lực dân sự. Vì Pháp lệnh không nêu rõ trường hợp không có năng lực dân sự có làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay không, nên dường như trong trường hợp như vậy, Tòa án đã đi lòng vòng. Theo Tòa án, trong trường hợp này, người đại diện không có tư cách đại diện nên thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý. Ví dụ sau đây cho thấy điều này. Đó là tranh chấp giữa Công ty Thủ Đô và Công ty Windo. Theo Tòa án nhân dân tối cao, “Hội đồng xét xử thấy không đủ căn cứ để xác định tư cách pháp nhân (năng lực pháp luật dân sự) của Công ty Windo là chủ thể trong quan hệ thương mại theo quy định tại Điều 3 Luật Thương mại và Điều 832 Bộ luật Dân sự… Khi không có căn cứ pháp lý để xác định tư cách pháp nhân của Công ty Windo theo pháp luật Việt Nam thì đương nhiên việc xác nhận của ông Liyanto về tư cách đại diện của ông Hưng cũng không có giá trị pháp lý theo pháp luật Việt Nam”[5].
“Năng lực pháp luật dân sự” là khả năng của ai đó “có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự” và “năng lực hành vi dân sự” là khả năng của ai đó “bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, năng lực dân sự và năng lực hành vi dân sự là hai khái niệm khác nhau. Một người có thể có năng lực dân sự nhưng không có năng lực hành vi và khi không có năng lực dân sự thì không có năng lực hành vi dân sự. Nếu thực sự Công ty mà người ký cho rằng mình là đại diện không có năng lực dân sự thì sẽ không có năng lực hành vi dân sự. Do đó, đây có thể là một lý do dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu và việc đi lòng vòng như trên của Tòa án là không cần thiết.
[6] Thẩm quyền. Theo khoản 2 Điều 10, , thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật”. Ở đây, Pháp lệnh không nêu rõ là có thẩm quyền theo pháp luật nước ngoài và trong thực tế Tòa án đã phải giải quyết vấn đề này. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán các bên đã thỏa thuận là “nếu hai bên không đạt được thỏa thuận dàn xếp tranh chấp sẽ do Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ở 33 phố Bà Triệu – Hà Nội giải quyết. Quyết định của Trung tâm sẽ là cuối cùng và hai bên có nghĩa vụ tuân theo”. Sau đó, Công ty Kumgang cho rằng “thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán ngày 12.4.2002 là vô hiệu vì người ký thỏa thuận là ông Hong Kun Yun – Trưởng Văn phòng đại diện của Công ty Kumgang tại Hà Nội ký, mà ông Tổng giám đốc Công ty Kumgang không ủy quyền cho ông Hong Kun Yun ký hợp đồng mua bán này”[6]. Nhưng theo Tòa án, “trong quá trình thực hiện hợp đồng Chủ tịch tập đoàn Kumgang không hề phản đối tư cách bên mua trong hợp đồng là Công ty Thái Bình (Công ty Kumgang đã chấp nhận L/C do người mở là Công ty Thái Bình, bản thân ông Chủ tịch tập đoàn đã trực tiếp gửi các công văn từ Hàn Quốc cho Công ty Thái Bình để trao đổi việc bảo hành, sửa chữa màn hình LED cũng như thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng…). Như vậy, Công ty Kumgang đã chấp nhận hợp đồng (mua bán) và đã được hưởng lợi từ hợp đồng này. Vì thế họ phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của hợp đồng trong đó có cả Điều 15.3 (điều khoản về trọng tài nêu trên). Hơn nữa, theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 04/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hợp đồng mua bán hàng hóa nêu trên có hiệu lực pháp luật. Việc VIAC thụ lý giải quyết tranh chấp là hoàn toàn đúng thẩm quyền”[7]. Ở đây, người ký thỏa thỏa thuận trọng tài không phải là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà theo giấy ủy quyền và người ký dường như không được ủy quyền để ký kết. Mặc dù vậy, theo Tòa án, thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị pháp lý và Tòa án đã áp dụng pháp luật Việt Nam. Bởi, theo Tòa án, hợp đồng mua bán có điều khoản trọng tài đã được bên được đại diện chấp nhận nên họ cũng phải chấp nhận điều khoản trọng tài.
[7] Thỏa thuận không rõ ràng. Trong thực tế, khi xác lập thỏa thuận trọng tài, có thể các bên không rõ ràng về đối tượng tranh chấp hay tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp này, các bên nên bổ sung nếu không thì thỏa thuận có nguy cơ bị vô hiệu và Trọng tài không có thẩm quyền xét xử. Bởi lẽ, theo khoản 4 Điều 10, thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung”.
Pháp lệnh không cho biết khi nào là “thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết”. Trong thực tế, không hiếm thỏa thuận bị coi là không rõ ràng và do vậy Trọng tài không có thẩm quyền. Chẳng hạn, cách đây không lâu, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã phải từ chối giải quyết một vụ tranh chấp mua bán giữa một công ty Đài Loan và chi nhánh của một công ty kinh doanh hải sản có trụ sở tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Lý do từ chối được đưa ra là vì trong điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp của hợp đồng mua bán, tên của tổ chức trọng tài này đã không được minh thị một cách cụ thể mà thay vào đó lại ghi chung chung rằng “nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tài Việt Nam giải quyết”.
Trung tâm Trọng tài Quốc tế từ chối vì hiện cả nước có tổ chức trọng tài thương mại khác nhau chứ không chỉ có Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (ngoài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam còn có Trung tâm Trọng tài khác như Trung tâm Trọng tài Thương mại Hà Nội, Trung tâm Trọng tài Thương mại Tp.HCM, Trung tâm Trọng tài Thương mại Cần Thơ và Trung tâm Trọng tài Thương mại Á Châu).
[8] Thỏa thuận không rõ ràng (tiếp). Một vấn đề có thể rõ ràng với người này và không rõ ràng với người khác. Do vậy, có thể nói không có khái niệm nào “không rõ ràng” bằng khái niệm “rõ ràng”. Tất cả phụ thuộc vào chính sách của những người áp dụng khái niệm trên. Trong một số trường hợp, Tòa án cho rằng thỏa thuận không rõ ràng nhưng cách giải quyết này không thực sự thuyết phục.
Chẳng hạn, giữa các bên đã thỏa thuận với nhau rằng “Tranh chấp sẽ được giải quyết bởi Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh”. Theo Tòa án, đây “là một thỏa thuận không rõ ràng về tổ chức trọng tài có thẩm quyển giải quyết vụ tranh chấp; và theo đó nếu như giữa (các bên) không có sự thỏa thuận bổ sung để chọn trọng tài như quy định tại khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại thì phải coi thỏa thuận chọn trọng tài tại Điều 7 hợp đồng 73/RK-HNF là thỏa thuận trọng tài vô hiệu”[8]. Ở đây rõ ràng các bên đã muốn chọn “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam” mà ở nước ta chỉ có duy nhất một “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”. Tuy nhiên, phần sau của đoạn trên có thêm là “tại thành phố Hồ Chí Minh”. Và do vậy, Tòa án đã cho rằng thỏa thuận trên là không “rõ ràng”.
Ví dụ vừa rồi cho thấy ranh giới giữa “rõ ràng” và “không rõ ràng” đôi khi quá mỏng manh. Nếu chúng ta ủng hộ Trọng tài, chúng ta có thể cho rằng đó chỉ là sơ suất về sử dụng từ chứ thực ra ý tưởng của các bên đã rõ ràng là chọn “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”. Còn phần sau có thể là nơi xét xử tại TP. Hồ Chí Minh mà nếu các bên có mâu thuẫn về nơi xét xử cũng không làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Ở Pháp, Tòa án cũng như Trọng tài đều chấp nhận thỏa thuận có những sơ suất như ví dụ của chúng ta. Chẳng hạn, họ đã chấp nhận thẩm quyền của Trọng tài mặc dù các bên nêu trong thỏa thuận là chọn Trọng tài của Phòng thương mại quốc tế “có trụ sở tại Genève” hay “của Zurich”. Thực tế, chúng ta chỉ có một Phòng thương mại quốc tế ở Paris và, theo thực tiễn của Pháp, thì đây chỉ là những sơ suất chứ ý tưởng của các bên đã rõ ràng là chọn Trọng tài của Phòng thương mại quốc tế Paris.
[9] Hợp đồng vô hiệu (?). Theo Điều 11 Pháp lệnh, “điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài”. Như vậy, những thay đổi về hợp đồng mà việc giải quyết tranh chấp được các bên thỏa thuận bằng phương thức trọng tài không làm ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài. Hiện nay có một số học giả cho rằng khi hợp đồng vô hiệu thì Trọng tài không có thẩm quyền và thẩm quyền thuộc về Tòa án. Quan điểm này là không thuyết phục.
Thứ nhất, với hướng giải quyết như quan điểm trên, chúng ta làm vô hiệu hóa nguyên tắc về sự độc lập của thỏa thuận trọng tài và hợp đồng. Điều 11 Pháp lệnh khẳng định sự độc lập trên nhằm mục đích nhấn mạnh việc hợp đồng vô hiệu không làm mất đi thẩm quyền của Trọng tài. Nếu chúng ta theo hướng giải quyết của quan điểm trên, chúng ta không biết Điều 11 về hợp đồng vô hiệu được đưa ra để làm gì. Trong thực tế, Tòa án đã từng khẳng định rằng việc hợp đồng chính vô hiệu không làm ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán giữa Công ty Đại Hùng và Công ty Zest các bên có thỏa thuận chọn Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Khi có tranh chấp, Công ty Đại Hùng do ông Thọ đại diện cho rằng người ký hợp đồng đã vượt quá sự cho phép của Điều lệ công ty nên bị coi là vô hiệu. Tuy nhiên, theo Tòa án nhân dân tối cao, “xét việc ông Simonov (người ký hợp đồng trong đó có thỏa thuận trọng tài) có giá trị vượt quá mức quy định của Công ty thuộc phần nội dung của hợp đồng. Theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh trọng tài thương mại thì việc vô hiệu này không ảnh hưởng đến việc các bên có thỏa thuận trọng tài”[9].
Có lẽ quan điểm trên được đưa ra vì họ cho rằng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết hợp đồng vô hiệu. Cơ sở pháp lý này là không thuyết phục. Bởi lẽ, BLDS cho rằng Tòa án có thẩm quyền giải quyết hợp đồng vô hiệu nhưng không quy định rằng chỉ có Tòa án mới có quyền giải quyết việc này. Hơn nữa, theo thực tiễn pháp lý, Trọng tài hoàn toàn có thể giải quyết việc này. Chẳng hạn, theo Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, “đặt giả thiết hợp đồng liên doanh thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, thì việc kết luận hợp đồng là vô hiệu phải thuộc thẩm quyền của Trọng tài kinh tế Việt Nam (nay được hiểu là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế như Toà án, các Trung tâm Trọng tài tại Việt Nam)”.
[10] Trợ giúp của Tòa án. Cần lưu ý là việc Trọng tài có thẩm quyền không có nghĩa là Tòa án không có chút vai trò nào. Trong thực tế, vì Trọng tài là một cơ quan phi chính phủ nên vẫn cần có sự trợ giúp của Tòa án. Chẳng hạn, theo Điều 33 Pháp lệnh, “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây: 1. Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy hoặc có nguy cơ bị tiêu hủy; 2. Kê biên tài sản tranh chấp; 3. Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; 4. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp; 5. Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; 6. Phong tỏatài khoản tại ngân hàng”.
Như vậy một bên có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, theo Điều 33 trên thì biện pháp này chỉ được tiến hành “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp”. Trước khi Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, một bên có quyền yêu cầu biện pháp trên không? Pháp lệnh không có câu trả lời. Thiết nghĩ sẽ là hợp lý hơn nếu chúng ta cho phép yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời ngay cả khi Hội đồng Trọng tài chưa thụ lý giải quyết. Việc cho phép này sẽ hạn chế trường hợp các bên tẩu tán, giấu tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành quyết định sau này. Trong quá trình sửa đổi Pháp lệnh về trọng tài, chúng ta nên bổ sung giải pháp này.
Theo Pháp lệnh thì một bên có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp” nhưng lại không cho biết từ thời điểm cụ thể nào, yêu cầu này được thực hiện. Trong thực tiễn pháp lý, việc yêu cầu này có thể được thực hiện từ thời điểm nộp đơn khởi kiện ra Trọng tài. Chẳng hạn, trong một quyết định của Tòa án TP. Hà Nội chúng ta có thấy ghi như sau : “ngày 13.10.2004, bên mua đã có đơn khởi kiện đến Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam để yêu cầu giải quyết buộc bên bán phải bồi thường 236.550.000 USD. Đồng thời có đơn yêu cầu Tòa án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho giữ lại số tiền 236.550.000 USD (…). Xét thấy yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Công ty Nghệ An (…) là có cơ sở để chấp nhận”[10]. Ở đây, Công ty Nghệ An đã kiện ra Trọng tài ngày 13/10/2004, đồng thời cùng ngày này họ đã yêu cầu Tòa án can thiệp và đã được chấp nhận. Như vậy, trong khi chúng ta chưa sửa đổi Pháp lệnh về trọng tài, chúng ta nên khởi kiện ra Trọng tài sớm và đồng thời với việc kiện này chúng ta có thể yêu cầu Tòa án can thiệp.
II. Pháp luật áp dụng trước Trọng tài
1. Trường hợp các bên chọn pháp luật áp dụng
[11] Tự do lựa chọn pháp luật. khoản 5 Điều 49 Pháp lệnh quy định: “Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật theo quy định tại khoản 2 Ðiều 7 của Pháp lệnh này, tập quán thương mại quốc tế để giải quyết vụ tranh chấp”. Vậy theo Điều 49, các bên có quyền thỏa thuận chọn pháp luật một nước và tập quán thương mại quốc tếđể điều chỉnh hợp đồng. Trong thực tế, chúng ta không hiếm gặp các bên chọn tập quán quốc tế như trường hợp các bên thường chọn UCP 500 để điều chỉnh L/C.
[12] Phương thức lựa chọn pháp luật. Pháp lệnh cho phép các bên lựa chọn pháp luật nước ngoài nhưng không nêu là các bên phải lựa chọn pháp luật áp dụng như thế nào. Các bên hoàn toàn có thể lựa chọn pháp luật vào thời điểm xác lập hợp đồng. Theo thực tiễn trọng tài quốc tế Việt Nam, thời điểm lựa chọn luật áp dụng còn có thể muộn hơn và có thể được thể hiện trong quá trình tố tụng. Xin dẫn một ví dụ liên quan đến tranh chấp về hợp đồng giữa một công ty Singapore và một doanh nghiệp Việt Nam để minh họa. Theo phán quyết của Trọng tài, “trong hợp đồng không có quy định gì về luật áp dụng cho hợp đồng. Trong đơn kiện, nguyên đơn đề xuất dùng luật Việt Nam, cụ thể là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989 để áp dụng cho hợp đồng. Trong bản giải trình, bị đơn thống nhất với nguyên đơn lấy luật Việt Nam làm luật điều chỉnh hợp đồng. Như vậy, ý chí chọn luật của hai bên đã thống nhất, trọng tài tôn trọng sự lựa chọn này và quyết định lấy luật Việt Nam, cụ thể là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989 áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa hai bên”[11].
2. Trường hợp các bên không chọn pháp luật áp dụng
[13] Văn bản. Theo khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh, “trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng Trọng tài quyết định”. Cũng cần biết là theo Quy tắc tố tụng của Trọng tài quốc tế Việt Nam được áp dụng từ ngày 1/7/2004, trong trường hợp như vậy, “Hội đồng Trọng tài quyết định chọn luật áp dụng mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp”.
[14] Thực tiễn pháp lý. Trong thực tế, khi các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng, Trọng tài Việt Nam dựa vào nhiều yếu tố của của tranh chấp để xác định luật áp dụng cho hợp đồng. Nhưng nhìn chung là Trọng tài hướng tới áp dụng pháp luật Việt Nam. Ví dụ, liên quan đến tranh chấp giữa một công ty Việt Nam và một Công ty Malaysia theo Hội đồng Trọng tài, “trong Hợp đồng số No S0040/05, hai bên đã xác định tại thỏa thuận Trọng tài là chọn quy tắc tố tụng và pháp luật của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Mặt khác, trong đơn kiện của Việt Linh gửi Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam có nêu rõ việc áp dụng pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật thương mại 1997, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, Nghị định 25/2004/NĐ-CP ngày 15/1/2004, Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 và quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Phía bị đơn cho đến thời điểm mở phiên xét xử không hề có ý kiến phản bác đối với đề nghị áp dụng luật của công ty Việt Linh. Xuất phát từ những căn cứ này, Hội đồng trọng tài quyết định luật áp dụng là pháp luật nước CHXHCN Việt Nam để giải quyết vụ kiện”.
III. Hủy quyết định của Trọng tài quốc tế Việt Nam
[15] Dẫn nhập. Khi không đồng ý với quyết định của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, các bên có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp. Ở đây, bên không đồng ý chỉ còn cách là yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Bởi theo Điều 50 Pháp lệnh, “trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài, để yêu cầu hủy quyết định trọng tài”. Tòa án nào có thẩm quyền hủy quyết định trọng tài và thủ tục ra sao? Danh sách mà Pháp lệnh cho phép hủy quyết định trọng tài có giới hạn không? Khi quyết định trọng tài bị hủy thì hậu quả pháp lý của nó đối với các bên như thế nào? Đó là một số lưu ý mà chúng ta cần biết (1) trước khi đi vào nghiên cứu những lý do dẫn tới hủy quyết định trọng tài (2).
1. Một số lưu ý liên quan đến hủy quyết định Trọng tài
[16] Tòa án lãnh thổ có thẩm quyền. Theo Điều 50 Pháp lệnh, “nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài”.
Như vậy, Tòa án nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Ở đây, Tòa án có thẩm quyền xét hủy quyết định trọng tài không phải là nơi Trung tâm trọng tài có trụ sở mà là nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định.
Ví dụ, giữa Công ty Đại Phúc (Việt Nam) và Công ty Asia (Singapore) có tranh chấp và được Hội đồng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết. Chúng ta đã biết là Trung tâm có trụ sở chính ở Hà Nội nhưng vụ việc được giải quyết tại TP. Hồ Chí Minh (nơi ra quyết định). Theo Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh,“Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài tại TP. Hồ Chí Minh, căn cứ điểm m khoản 2 Điều 35 BLTTDS và căn cứ vào Điều 50 Pháp lệnh Trọng tại thương mại thì thẩm quyền xét đơn yêu cầu hủy quyết định Trọng tài của Công ty Đại phúc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh”[12].
[17] Không xét lại vụ việc. Cũng như trong lĩnh vực công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Tòa án được yêu cầu hủy quyết định trọng tài không xét lại nội dung vụ tranh chấp. Bởi theo khoản 4 Điều 5, Pháp lệnh, “khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét xử không xét lại nội dung vụ tranh chấp”. Trong thực tế, quy phạm này không thiếu cơ hội được áp dụng. Trong tranh chấp liên quan đến Công ty Nghệ An và Công ty Summit được Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết, Công ty Summit yêu cầu Tòa án Hà Nội hủy quyết định trọng tài. Một trong những lý do mà Summit đưa ra là các bên đã thỏa thuận điều khoản phạt phù hợp với Luật Thương mại nhưng Hội đồng trọng tài đã không vô tư, khách quan, đưa ra những nhận định trái với quy định của Luật Thương mại và ra phán quyết trái pháp luật, không tôn trọng thỏa thuận của các bên (theo Hội đồng trọng tài, “số tiền tổn thất từ việc hủy hợp đồng bao gồm cả tiền phạt”). Nhưng theo Tòa án Hà Nội, “nội dung xử lý cũng như hậu quả xử lý hủy hợp đồng có đúng hay không là nội dung vụ tranh chấp, không thuộc phạm vi Tòa án xem xét như quy định tại Điều 53 Pháp lệnh. Như vậy, căn cứ trên yêu cầu đưa ra không phù hợp với khoản 5 mà bên yêu cầu đã viện dẫn. Vì yêu cầu đó thuộc về nội dung vụ tranh chấp. Do đó, Tòa án không có căn cứ xem xét”[13].
[18] Danh sách giới hạn. Pháp lệnh quy định tại Điều 54 những trường hợp Tòa án được quyền hủy quyết định của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là danh sách này có phải là danh sách mở hay không ? Nếu là danh sách mở, Tòa án có thể thêm những trường hợp khác và quyết định trọng tài càng có nguy cơ bị hủy. So với pháp luật một số nước, chẳng hạn pháp luật của Pháp, thì danh sách những trường hợp quyết định trọng tài bị hủy ở Việt Nam là khá dài. Vì vậy, chúng ta không nên coi đây là danh sách mở. Điều này cũng phần nào được thể hiện trong Pháp lệnh và trong Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[19] Hậu quả của hủy quyết định trọng tài. Theo khoản 6 Điều 53 Pháp lệnh,“trong trường hợp Hội đồng xét xử hủy quyết định trọng tài, nếu không có thỏa thuận khác thì các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Toà án”. Như vậy, khi quyết định trọng tài bị hủy thì các bên chỉ có hai lựa chọn. Một là tiếp tục giải quyết vụ việc qua con đường trọng tài và lúc đó phải “có thỏa thuận khác”. Khả năng này rất khó xảy ra vì khi các bên đã đưa vụ việc ra tranh chấp trước Trọng tài và đưa quyết định trọng tài ra trước Tòa án thì các bên khó có thể cùng nhau đạt được một thỏa thuận nào nữa[14]. Lúc này, các bên chỉ còn cách là đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Tòa án nếu bất đồng vẫn không thể tự giải quyết được.
Quyết định trọng tài có thể bị hủy bởi nhiều lý do. Loại lý do thứ nhất liên quan đến thỏa thuận trọng tài. Đó là trường hợp “không có thỏa thuận trọng tài”, “thỏa thuận trọng tài vô hiệu”, “vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài”. Ngoài ra chúng ta còn các lý do khác là “Thành phần Hội đồng Trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên”, “trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên”, “quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đối với những lý do không liên quan đến thỏa thuận trọng tài, việc hủy quyết định trọng tài đã buộc các bên phải giải quyết bằng con đường tòa án. Kết quả này đi ngược lại với ý chí của các bên, đi ngược lại với quyền tự định đoạt của họ thông qua thỏa thuận trọng tài. Đối với những trường hợp dẫn tới hủy quyết định trọng tài không do lỗi của các bên như trường hợp trọng tài vi phạm tố tụng thì tại sao lại buộc họ phải chịu sự chi phối của Tòa án? Một bên không thích giải quyết trước trọng tài mặc dù có thỏa thuận có thể tìm cách để trọng tài mắc sai lầm, rồi xin hủy quyết định trọng tài và yêu cầu Tòa án can thiệp. Với hướng giải quyết như hiện nay, chúng ta tăng sự không lành mạnh trong giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, Hội đồng trọng tài này mắc sai lầm dẫn đến việc hủy quyết định trọng tài không nhất thiết là Hội đồng khác sẽ cũng mắc sai lầm để dẫn đến hủy quyết định trọng tài như trước. Do vậy, cách quy định như hiện nay là không hợp lý.
Thiết nghĩ nên phân biệt hai trường hợp. Khi việc hủy quyết định trọng tài xuất phát từ thỏa thuận trọng tài “nếu không có thỏa thuận khác thì các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Tòa án”. Khi việc hủy quyết định trọng tài xuất phát từ lý do khác thì giữa các bên vẫn tồn tại một thỏa thuận trọng tài hợp pháp nên chúng ta cần phải tôn trọng. Ở đây, nếu vẫn có tranh chấp các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài như thỏa thuận.
2. Những trường hợp hủy quyết định của Trọng tài
2.1 Lý do liên quan đến thỏa thuận trọng tài
[20] Thỏa thuận vô hiệu. Tòa án ra quyết định hủy quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc trường hợp “không có thỏa thuận trọng tài”, “thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh này”. Trường hợp không có thỏa thuận trọng tài hiếm xảy ra. Với quy định như vừa nêu, chỉ cần thỏa thuận trọng tài thuộc trường hợp vô hiệu tại Điều 10 của Pháp lệnh trọng tài thì Tòa án có cơ sở để hủy quyết định trọng tài.
2.2 Lý do liên quan đến nghĩa vụ của Trọng tài
[21] Dẫn nhập. Theo khoản 5 Điều 54 Pháp lệnh, Tòa án ra quyết định hủy quyết định trọng tài nếu “bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải quyết vụ tranhchấp có Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên quy định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh này”.
Khoản 2 Điều 13 quy định nghĩa vụ của Trọng tài như sau : “Trọng tài viên có các nghĩa vụ sau đây: a) Tuân thủ các quy định của Pháp lệnh này; b) Vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp; c) Từ chối giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 27 của Pháp lệnh này; d) Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết; đ) Không được nhận hối lộ hoặc có hành vi khác vi phạm đạo đức Trọng tài viên”. Với quy định như vậy thì Quyết định trọng tài có nhiều nguy cơ bị hủy. Bởi phạm vi điều chỉnh của khoản 2 Điều 13 rất rộng.
Ở đây, xin chỉ dẫn một trường hợp cụ thể đã gặp phải trong thực tiễn pháp lý.
[22] Tuân thủ Pháp lệnh. Theo khoản 2 Điều 13, Trọng tài viên có nghĩa vụ “tuân thủ các quy định của Pháp lệnh này”. Chỉ cần Trọng tài không tuân thủ một trong các quy định của Pháp lệnh thì quyết định của họ có thể bị hủy. Những quy định của Pháp lệnh rất nhiều. Vì vậy, bên không chấp nhận quyết định trọng tài có thể viện dẫn nhiều lý do để xin hủy quyết định trọng tài và, ở đây, Tòa án buộc phải xem xét. Xin dẫn một ví dụ.
Theo Điều 40 Pháp lệnh, “bị đơn đã được triệu tập tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp mà không tham dự phiên họp không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng Trọng tài đồng ý thì Hội đồng Trọng tài vẫn tiến hành giải quyết vụ tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có”. Như vậy, Trọng tài có thể giải quyết tranh chấp vắng mặt bị đơn khi bị đơn “không tham dự phiên họp không có lý do chính đáng”. Điều đó cũng có nghĩa là Trọng tài không thể giải quyết tranh chấp vắng mặt bị đơn khi bị đơn “không tham dự phiên họp” nhưng “có lý do chính đáng”. Việc không tuân thủ quy định này có thể dẫn đến hủy quyết định trọng tài.
Chẳng hạn, trong vụ tranh chấp giữa Công ty Nghệ An và Công ty Summit đã được đề cập ở trên, theo Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, “về việc Hội đồng trọng tài ra Phán quyết trọng tài trong khi bị đơn (có đơn kiện lại) vắng mặt, thì thấy: sau khi ông Nam, người đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Summit, xin hoãn phiên họp ngày 06/5/2005 với lý do có hai giấy triệu tập của Tòa án vào ngày 05 và 06/5/2005 nhưng không được Hội đồng trọng tài chấp nhận, thì ông Nam đã có văn bản xin khước từ làm đại diện cho Summit tại phiên họp 06/5/2005 để tham gia phiên tòa của Tòa án. Đồng thời, Summit có văn bản đề nghị hoãn vì không kịp ủy quyền cho người khác tham gia phiên họp ngày 06/5/2005. Như vậy, những lý do xin hoãn phiên họp ngày 6/5/2005 từ phía Summit là có lý do chính đáng. Hội đồng trọng tài đã tổ chức phiên họp vắng mặt bị đơn là vi phạm Điều 40 và Điều 29 Pháp lệnh về trọng tài thương mại”. Từ đó, “căn cứ vào khoản 5 Điều 54 Pháp lệnh về trọng tài thương mại”Tòa án “quyết định hủy Quyết định trọng tài thương mại của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”[15].
2.3 Những lý do khác để hủy quyết định của Trọng tài
[23] Ngôn ngữ sử dụng. Theo khoản 3 Điều 54 Pháp lệnh, Tòa án ra quyết định hủyquyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc trường hợp “thành phần Hội đồng Trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh này”. Trong thực tế Điều khoản này đã có cơ hội được áp dụng. Ví dụ sau đây cho thấy điều này: Công ty Nghệ An và Công ty Summit đã thỏa thuận rằng “mọi thủ tục tố tụng trọng tài sẽ được tiến hành bằng tiếng Anh”. Việc chọn tiếng Anh này phù hợp với khoản 7 Điều 49 Pháp lệnh vì Điều khoản này đã quy định rằng “các bên có quyền thỏa thuận về sử dụng ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài”. Như vậy, các bên đã có thỏa thuận tố tụng trọng tài phù hợp với Pháp lệnh và việc không tôn trọng tố tụng này là cơ sở để Tòa án hủy quyết định trọng tài. Thật vậy, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét rằng “việc Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam hỏi các bên về việc sử dụng tiếng Việt tại phiên họp của Hội đồng trọng tài, thì không thể coi là Summit đã đồng ý việc sử dụng tiếng Việt tại phiên họp ngày 6/5/2005 của Hội đồng trọng tài. Vì chính trong Phán quyết của Hội đồng trọng tài đã thể hiện: “Phía bị đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng”. Và tại Biên bản phiên họp ngày 6/5/2005 cũng phản ánh: “Bên Bị không có mặt đại diện ủy quyền hợp pháp tại đây”. Việc bà Hương (người tham dự) đã ký vào “Biên bản về sử dụng ngôn ngữ tại phiên họp giải quyết vụ kiện số 27/04” là người không được ủy quyền. Do đó, Hội đồng trọng tài đã vi phạm Điều 49 Pháp lệnh trọng tài thương mại”[16].
Như vậy, ví dụ vừa rồi cho thấy Tòa án hủy quyết định trọng tài vì Hội đồng Trọng tài không tôn trọng ngôn ngữ mà các bên thỏa thuận cho tố tụng.
[24] Liên quan đến nội dung quyết định trọng tài. Theo Điều 54 Pháp lệnh, Toà án ra quyết định hủy quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng “quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, quyết định trọng tài có thể bị hủy khi “với lợi ích công cộng” của Việt Nam. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng khái niệm này rất trừu tượng và hiện nay chúng tôi chưa có quyết định nào liên quan.
[25] Kết luận. Nhìn chung, việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài hiện nay tại Việt Nam theo Pháp lệnh thì không thực sự tiến bộ hơn so với Tòa án. Thường thì đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Tòa án hướng tới áp dụng pháp luật Việt Nam[17]. Thực tiễn trọng tài Việt Nam cũng cho thấy như vậy. Bằng cách này hay cách khác, Trọng tài hướng các bên tới áp dụng pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam có nhiều quy định tương đối khắt khe đối với việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài. Với quy định hiện nay, Tòa án chưa thực sự là cơ quan trợ giúp trọng tài. Về áp dụng những quy định của Pháp lệnh thì Tòa án đôi khi cũng tỏ ra khắt khe. Tòa án đã áp dụng một số quy phạm theo hướng bất lợi cho trọng tài thông qua giải thích những quy phạm liên quan đến thỏa thuận trọng tài hay liên quan đến hủy quyết định trọng tài.
Để tránh những quy định của Pháp lệnh, có luật gia đã dựa vào một số quy định của Việt Nam để giải quyết bằng phương thức trọng tài mặc dù được tiến hành tại Việt Nam nhưng không chịu sự chi phối của Pháp lệnh trọng tài. Theo khoản 2 Điều 342 BLTTDS, “quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp”. Như vậy, Trung tâm Trọng tài nước ngoài có thể giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Trong trường hợp này, phán quyết của Trọng tài là phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Do đó, việc tiếp nhận phán quyết đó được tiến hành như những quyết định của Trọng tài nước ngoài và không chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh trọng tài năm 2003.
Tuy nhiên, giải pháp của pháp luật Việt Nam như trên là không thuyết phục vì hai lý do sau đây. Thứ nhất, với quy định như nước ta, quyết định được tuyên ở nước ta bởi“trọng tài nước ngoài” có nhiều khả năng sẽ không bị kiểm tra bởi bất kỳ Tòa án nào vì, chúng ta coi đó là quyết định nước ngoài nên sẽ không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét việc công nhận và thi hành tại Việt Nam còn ở nước ngoài họ lại coi đây là quyết định của Việt Nam nên sẽ cũng không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét việc công nhận và thi hành tại nước họ. Thứ hai, với quy định như vậy, các bên sẽ không có nhu cầu yêu cầu Trọng tài quốc tế của Việt Nam để giải quyết. Các bên sẽ yêu cầu trọng tài nước ngoài giải quyết nhưng địa điểm giải quyết tại Việt Nam. Nói một các khác, chúng ta hướng tới các bên giải quyết bằng trọng tài không phải là trọng tài của chúng ta. Khái niệm quyết định trọng tài nước ngoài như trên nên sớm được thay đổi.
[1] Dương Đăng Huệ, Một điển hình của việc xây dựng pháp luật theo hướng hội nhập, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 06/2003, tr. 60.
[2] Bản án số 110/2005/KDTM-ST ngày 27/12/2005 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội.
[3] Lê Hồng Hạnh, Hoàn thiện pháp luật trọng tài trước yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về trọng tài thương mại tháng 6/2007, tr. 5.
[4] Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
[5] Quyết định số 207/2005/QĐ-TANDTC ngày 13/10/2005 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội.
[6] Xem Quyết định số 02/QĐKT ngày 31/8/2004 của TAND TP. Hà Nội.
[7] Quyết định số 02/QĐKT ngày 31/8/2004 của TAND TP. Hà Nội.
[8] Bản án số 01/QĐKT ngày 14 tháng 7 năm 2004 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
[9] Quyết định số 112/2006/TTPT ngày 02/06/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội.
[10] Quyết định số 03/KT-QĐTT ngày 15/10/2004 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội.
[11] Xem Hoàng Ngọc Thiết, Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu – Án lệ trọng tài và kinh nghiệm, Nxb. CTQG 2002, tr. 171.
[12] Quyết định số 27/2006/QĐKDTM-ST ngày 24/1/2006 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
[13] Quyết định số 03/KDTM-ST ngày 29/07/2005.
[14] Theo tác giải Hoàng An, “trong thực tế, khi tranh chấp đã phát sinh các bên khó có thể thỏa thuận lại điều khoản trọng tài”, xem Quan hệ có hiệu quả giữa Tòa án và trọng tài với việc áp dụng tốt Pháp lệnh trọng tài, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề về trọng tài thương mại, tháng 6/2007, tr. 15.
[15] Quyết định số 04/2006/QĐ ngày 06/1/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội.
[16] Quyết định số 04/2006/QĐ ngày 06/1/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội.
[17] “Khi các bên không có thỏa thuận về pháp luật điều chỉnh hợp đồng, Tòa án Việt Nam có xu hướng chung là áp dụng pháp luật Việt Nam. Ví dụ, đối với tranh chấp về hợp đồng ký ngày 27/7/1993 giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh nghiệp Đài Loan, hợp đồng không có điều khoản về pháp luật chi phối hợp đồng, Tòa án Việt Nam áp dụng pháp luật Việt Nam và không lý giải tại sao. Tương tự, đối với hợp đồng không có điều khoản về pháp luật áp dụng giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh nghiệp Nhật Bản, Tòa án Việt Nam đã áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp và cũng không lý giải tại sao”, Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh 2006, số 362.
Nguồn: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ