Hiển thị các bài đăng có nhãn vụ án dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn vụ án dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013

Giáo dục pháp luật trong hoạt động thu thập chứng cứ tại tòa án


Thu thập chứng cứ (TTCC) là một trong những hoạt động tố tụng của Toà án. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (Bộ luật TTDS), TTCC được Toà án tiến hành bằng hai con đường: yêu cầu đương sự giao nộp và Toà án tự thu thập. TTCC trong vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh thương mại là hoạt động tố tụng mang tính nghiệp vụ chuyên môn của ngành Toà án, hoạt động này có mục đích đã được xác định trước đó là làm sáng tỏ vụ kiện. Nhìn ở góc độ tố tụng thì đây là hoạt động mang tính nghề nghiệp của cán bộ Toà án và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác nhằm giải quyết vụ kiện khách quan, đúng pháp luật. Tuy nhiên trong thực tiễn, hoạt động này còn hàm chứa nhiều khía cạnh của chức năng giáo dục pháp luật (GDPL) cho đông đảo quần chúng nhân dân.
1.  Giáo dục pháp luật trong hoạt động giao nộp chứng cứ của đương sự
Khi tham gia tố tụng (TGTT) trong vụ án dân sự tại Tòa án, đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ (CCCC) chứng minh để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Để thực hiện nghĩa vụ này, các đương sự phải tìm kiếm chứng cứ giao nộp cho Toà án theo quy định của Bộ luật TTDS. Thực tiễn cho thấy, hầu hết các đương sự trong vụ án không thể tự thực hiện việc tìm kiếm, tập hợp và giao nộp chứng cứ đúng với yêu cầu khởi kiện của mình. Vì vậy, trong quá trình TTCC để nộp cho Toà án, họ phải tiếp xúc với cán bộ Toà án và tìm kiếm các chuyên gia tư vấn pháp luật khác để được hướng dẫn, trợ giúp về mặt pháp lý. Thông qua hoạt động này, đương sự lĩnh hội được những kiến thức pháp luật nhất định, thể hiện:
Một là, thực hiện hoạt động giao nộp chứng cứ tại Tòa án, một đương sự được phổ biến nhiều loại văn bản pháp luật khác nhau trong cùng một thời điểm.
Nếu như ở giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án, thẩm phán và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác chủ yếu hướng dẫn, phổ biến cho các đương sự các quy định của luật tố tụng về quyền khởi kiện, cách thức khởi kiện và thẩm quyền của Tòa án trong việc thụ lý vụ án thì đến giai đoạn TTCC, việc phổ biến pháp luật cho đương sự đòi hỏi phải cụ thể và linh hoạt hơn. Bởi lẽ, để giải quyết một vụ kiện dân sự, thẩm phán vừa phải áp dụng luật nội dung, vừa áp dụng luật hình thức trong cùng một vụ kiện, trong đó luật nội dung khá đa dạng và phong phú, mỗi loại luật điều chỉnh mỗi loại quan hệ dân sự khác nhau. Tranh chấp dân sự trên thực tế cũng khá đa dạng và phức tạp, vì vậy việc áp dụng pháp luật phải chặt chẽ, hài hòa và phù hợp với từng dạng tranh chấp. Để việc áp dụng pháp luật hiệu quả, giải quyết vụ kiện thấu tình đạt lý, các thẩm phán đều hướng tới việc phổ biến pháp luật cho đương sự ngay từ giai đoạn đầu của việc CCCC. Trong quá trình CCCC, đương sự được cán bộ Toà án và các chuyên gia tư vấn pháp luật dùng mọi hình thức và biện pháp khác nhau để phổ biến cho họ nội dung từng điều luật cụ thể về từng lĩnh vực có liên quan đến từng vụ kiện cụ thể, điều này có nghĩa là làm cho các đương sự hiểu được nội dung của từng điều luật thuộc lĩnh vực của vụ kiện mà họ đang theo đuổi, làm cho họ phân biệt được giá trị của từng loại chứng cứ như chứng cứ gốc, chứng cứ sao chép lại v.v.. và chứng cứ nào thì không buộc phải chứng minh theo quy định của pháp luật. Ví dụ, khi TTCC trong vụ án hôn nhân gia đình, ngoài quan hệ phi tài sản như quan hệ hôn nhân, quan hệ con cái còn có các quan hệ khác như quan hệ cấp dưỡng nuôi con, quan hệ phân chia tài sản, trong quan hệ phân chia tài sản có phân chia động sản, bất động sản... Tùy thuộc vào từng vụ kiện cụ thể để thẩm phán định hướng cho đương sự tiếp cận các quy định chi tiết của pháp luật nội dung và luật hình thức. Đồng thời yêu cầu đương sự CCCC sát với yêu cầu giải quyết vụ kiện. Như vậy, chỉ trong một vụ án hôn nhân gia đình, cùng một lúc, đương sự được cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác trực tiếp phổ biến nội dung cụ thể của các quy định trong Luật Hôn nhân gia đình, Luật Đất đai, BLDS, Luật Thi hành án... đồng thời họ cũng được phổ biến các quy định của Bộ luật TTDS về trình tự CCCC, các nội dung cần chứng minh trong từng vụ kiện cụ thể, khác nhau nhằm mục đích bảo vệ sự thật khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tương tự như vậy, đương sự trong vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính cũng được tiếp cận các loại luật liên quan trong từng vụ kiện. Thông qua hoạt động này, một đương sự có thể được tiếp cận và hiểu biết nhiều loại luật nội dung và luật hình thức trong một thời gian ngắn mà không phát sinh chi phí cho việc tìm hiểu pháp luật. Như vậy, sau hoạt động tìm kiếm CCCC cho Tòa án trong vụ kiện dân sự, các đương sự có một lượng kiến thức pháp lý tổng hợp nhất định có thể phân loại, đánh giá chứng cứ và có thể vận dụng tổng hợp, hài hòa nhiều loại luật vào vụ kiện nhằm bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, đặc biệt là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hai là, thực hiện hoạt động giao nộp chứng cứ, đông đảo các đương sự được phổ biến pháp luật.
Có thể nói hoạt động TTCC trong TTDS tại Toà án đã hình thành một cách khách quan nhiều lớp học luật tổng hợp với đội ngũ “tuyên truyền viên” hùng hậu và đội ngũ “học viên” đông đảo và đa dạng. Có thể nêu một vài con số cụ thể của tỉnh DakLak để minh chứng cho tính rộng khắp, tính phong phú và đa dạng của hoạt động này. Hiện nay, toàn ngành toà án tỉnh ĐakLak có 254 cán bộ làm công tác chuyên môn, trong đó có hơn 89 thẩm phán hai cấp tỉnh và huyện. Ngoài ra còn có 61 luật sư và nhiều luật gia công tác tại trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh. Lấy con số này nhân lên trong toàn ngành tư pháp cả nước sẽ thấy được đây là một lực lượng “tuyên truyền viên” pháp luật đông đảo, hùng hậu và đa dạng mà không một hình thức GDPL nào có được. Lực lượng này hầu hết được đào tạo cơ bản về trình độ pháp lý, được chọn lọc một bước về phẩm chất chính trị, đạo đức, có tâm huyết với nghề nghiệp, có bề dày kinh nghiệm thực tiễn.
Đối với “học viên” chỉ tính riêng trong hai năm 2010 và 2011, toàn ngành toà án tỉnh ĐakLak đã thụ lý gần 13.000 vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và hành chính, với hàng trăm dạng tranh chấp khác nhau. Tính bình quân mỗi vụ tranh chấp có khoảng 05 đương sự và 02 cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động thu thập, CCCC thì đã có hàng chục ngàn lượt “học viên” được tiếp xúc với cán bộ nghiệp vụ của ngành Toà án và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác, được lĩnh hội một số kiến thức pháp luật tổng hợp từ các cán bộ nghiệp vụ của Toà án và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác. Lượng kiến thức pháp luật đương sự lĩnh hội được trong hoạt động này có điều kiện vận dụng vào vụ kiện cụ thể góp phần tạo nên thành công lớn trong công tác giải quyết tranh chấp và cũng là thành công của công tác GDPL. Vì vậy, cho dù việc truyền thụ, phổ biến kiến thức pháp luật cho nhân dân trong hoạt động CCCC tại Tòa án có những đặc thù riêng, không được tổ chức tập trung thành trường lớp, thành phần học viên không cùng lứa tuổi, không có sự tương đối đồng đều về trình độ nhận thức như những hình thức phổ biến pháp luật khác nhưng về số lượng học viên và chất lượng GDPL của hình thức GDPL này trên thực tế không kém các hình thức GDPL khác.
Ba là, thực hiện hoạt động CCCC trong vụ kiện đương sự được phổ biến, tìm hiểu pháp luật về chiều sâu, học đi đôi với hành
Thông thường trong mỗi vụ kiện dân sự, kinh doanh thương mại hay hành chính đều có nhiều quan hệ tranh chấp xen kẽ, liên quan với nhau cần phải giải quyết cùng một lúc. Muốn có nguồn chứng cứ sát với yêu cầu của từng dạng quan hệ tranh chấp trong vụ kiện đòi hỏi thẩm phán và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác phải phân loại rạch ròi minh bạch từng quan hệ tranh chấp trong vụ kiện, các nội dung tranh chấp cần chứng minh và định hướng điều luật cụ thể để áp dụng cho mỗi loại quan hệ tranh chấp. Tùy thuộc vào địa vị tố tụng của từng đương sự, thẩm phán phổ biến pháp luật cho họ bằng cách đọc và phân tích nội dung cụ thể, chi tiết từng điều luật có liên quan đến quan hệ tranh chấp mà đương sự đang theo kiện. Định hướng cho đương sự tìm hiểu thêm các văn bản pháp luật liên quan đồng thời yêu cầu đương sự tìm nguồn chứng cứ để cung cấp cho Tòa án đúng với yêu cầu giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế giải quyết tranh chấp, khi đương sự vướng mắc về nhận thức do điều luật được phổ biến quá tổng quát thì thẩm phán và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác phổ biến và hướng dẫn đương sự sử dụng các nguồn văn bản dưới luật mang tính chi tiết hơn vào vụ kiện để tìm kiếm chứng cứ giao nộp cho Tòa án, hướng dẫn đương sự cách thức áp dụng hài hòa các loại luật, các nguồn luật vào việc tìm kiếm chứng cứ nhằm CCCC một cách chính xác sát với yêu cầu giải quyết vụ kiện.
Cũng thông qua hoạt động TTCC, các cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luậtquán triệt cho các đương sự khi tìm kiếm chứng cứ giao nộp cho Toà án phải dựa trên nền tảng sự thật khách quan của vụ án và khuyến cáo cho các đương sự biết về hậu quả pháp lý của hành vi gian lận trong việc thu thập và CCCC.
Yêu cầu đặt ra đối với cán bộ Toà án và các chuyên gia tư vấn pháp luật trong hoạt động này là phải bằng mọi cách thức làm cho những người TGTT tại Toà án nhanh chóng nắm được luật nôi dung, luật tố tụng của lĩnh vực mình đang theo kiện và hiểu biết, thành thạo trong tìm kiếm, tổng hợp phân loại chứng cứ, thấy được tính tôn nghiêm của pháp luật, tính minh bạch của sự thật khách quan thông qua việc CCCC. Đặc biệt làm cho những người TGTT trong vụ án thấy rõ chứng cứ trong vụ kiện là “chìa khoá” giải mã các vướng mắc của các bên, nó bộc lộ bản chất khách quan, minh bạch của vụ án và mang tính thuyết phục cao trong quá trình giải quyết tranh chấp. Xin nêu một ví dụ cụ thể: Khi đương sự được tiếp cận với cán bộ Toà án để giải quyết một vụ án kinh doanh thương mại về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, trước hết, đương sự sẽ được các cán bộ Toà án định hướng tiếp cận các quy định về mua bán hàng hoá trong Luật Thương mại. Đồng thời đương sự được cán bộ Toà án phổ biến các điều luật trong Bộ luật TTDS quy định về quy trình, nguyên tắc TTCC và yêu cầu đương sự cung cấp các chứng cứ là các hợp đồng mua bán, các loại hoá đơn mua bán hàng, các chứng từ thanh toán và các chứng từ liên quan đến việc ký kết thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của Luật Thương mại hiện hành. Đây là những trải nghiệm thực tế quý báu và những bài học pháp luật hiệu quả nhất của đương sự khi được tiếp cận về chiều sâu các quy định về ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật Thương mại, những quy định về trình tự thủ tục kiện tụng trong luật tố tụng, từ đó đương sự hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình khiCCCC cho Tòa án cũng như khi thực hiện giao dịch mua bán hàng hoá trong thương mại, hiểu được nguyên nhân sâu xa dẫn đến tranh chấp, vi phạm hợp đồng. Đặc biệt là nhận ra lỗi của mình và có sự hợp tác giải quyết tranh chấp bằng con đường thoả thuận các bên cùng có lợi. Mặt khác, việc hiểu biết pháp luật hình thành trong đương sự tình cảm pháp lý, tạo nên thói quen chấp hành pháp luật và phát triển dần thành ý thức pháp luật. 
2. Giáo dục pháp luật trong hoạt động tự thu thập chứng cứ của Tòa án
Trong trường hợp các đương sự không thể cung cấp được chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thẩm phán Tòa án tự tiến hành TTCC theo mục đích yêu cầu cần chứng minh của từng vụ kiện. Theo quy định của Bộ luật TTDS, hoạt động tự TTCC của thẩm phán bao gồm: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; Trưng cầu giám định; Định giá tài sản; Xem xét thẩm định tại chỗ; Ủy thác TTCC; Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ kiện.
Nhìn ở góc độ đơn thuần, đây là một hoạt động mang tính nghiệp vụ tố tụng giản đơn nhằm bổ sung các chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ kiện. Tuy nhiên nhìn ở góc độ GDPL, đây là một trong những hoạt động truyền thụ kiến thức pháp lý qua lại giữa cá nhân, tổ chức yêu cầu và cá nhân, tổ chức được yêu cầu CCCC, thể hiện:
- Trong thực tiễn, hoạt động tự TTCC tại Tòa án cho thấy mỗi biện pháp nghiệp vụ của thẩm phán trong hoạt động này đều làm phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa thẩm phán Toà án vớingười, cơ quan được yêu cầu CCCC. Khi tiến hành hoạt động này, ngoài thao tác nghiệp vụ theo quy định của luật tố tụng, thẩm phán Tòa án còn phải chuyển tải cho các đối tác CCCC những quy định của pháp luật về trình tự, nguyên tắc CCCC và hậu quả pháp lý của việc gian lận trong CCCC, những yêu cầu, nội dung vụ kiện cần phải chứng minh.
Đối với các cá nhân đại diện cơ quan, tổ chức được Tòa án yêu cầu CCCC, họ tham gia hoạt động CCCC với tư cách là đại diện các cơ quan chuyên môn hoạt động theo lĩnh vực nghề nghiệp. Họ dùng nghiệp vụ chuyên môn của ngành mình để phối hợp với Tòa án làm sáng tỏ vụ kiện. Do cá nhân, cơ quan, tổ chức được yêu cầu CCCC trong vụ kiện dân sự khá đa dạng, có cả những đối tượng đại diện cho các tổ chức, cơ quan quan trọng, có vị trí xã hội cao, có trình độ chuyên môn nhất định và đặc biệt họ là người mang đến cho thẩm phán Tòa án nguồn thông tin cần thiết cho việc giải quyết vụ kiện nên thẩm phán Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác lĩnh hội được ở họ những kiến thức chuyên môn, những quy định của pháp luật trong lĩnh vực chuyên môn mà họ phụ trách.
Về phía các cá nhân, các đại diện cơ quan, tổ chức được tiếp xúc với thẩm phán Toà ántrong quá trình thực hiện việc CCCC, họ hiểu biết thêm về lĩnh vực TTDS, đồng thời hiểu biết quyền, nghĩa vụtrách nhiệm chuyên môn cũng như trách nhiệm pháp lý của  họ khi CCCC cho Toà án. Xin nêu một ví dụ khi thẩm phán Tòa án ban hành một quyết định trưng cầu giám định chữ ký, cơ quan giám định yêu cầu thẩm phán cung cấp mẫu vật tức chữ ký mẫu để giám định. Trong trường hợp này, thẩm phán và đương sự là người được yêu cầu CCCC, còn cán bộ giám định là người thẩm định tính đúng đắn của chứng cứ. Mối quan hệ GDPL qua lại của hoạt động này là thẩm phán hiểu biết được một số kiến thức pháp luật về chuyên môn giám định được ghi trong văn bản kết quả giám định của cơ quan chuyên môn, ngược lại cán bộ cơ quan chuyên môn giám định biết được kiến thức pháp luật ở thẩm phán và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác về quyền và nghĩa vụ của người giám định trong TTDS và hậu quả pháp lý của việc giám định. Vì vậy, khác với hoạt động yêu cầu đương sự CCCC, trong hoạt động tự TTCC tại Tòa án, thẩm phán vừa là người phổ biến pháp luật cho cá nhân, cơ quan được yêu cầu CCCC, đồng thời cũng là người được lĩnh hội kiến thức pháp luật liên quan đến hoạt động chuyên môn từ các cá nhân, cơ quan CCCC. Như vậy việc tuyên truyền phổ biến pháp luật giữa cán bộ Tòa án với cá nhân, cơ quan được yêu cầu CCCC trong hoạt động này được diễn ra trên tinh thần hợp tác, tương trợ, học hỏi lẫn nhau nhằm mục đích chung đó là có được nguồn chứng cứ khách quan phục vụ cho yêu cầu giải quyết đúng đắn vụ kiện.
Đối với đương sự, khi Tòa án tiến hành hoạt động tự TTCC bằng hình thức yêu cầu các cá nhân, cơ quan, đơn vị, tổ chức chuyên môn cung cấp các thông tin bổ sung nguồn chứng cứ của đương sự như giám định, định giá tài sản, thẩm định tại chỗ, ủy thác lấy lời khai v.v.. thì họ trở thành người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động này, giữa đương sự và những người cung cấp thông tin cho Tòa án phát sinh mối quan hệ pháp lý tự nhiên ràng buộc lẫn nhau. Để hoạt động này được tiến hành đúng yêu cầu của Tòa án, đương sự buộc phải theo sát các hoạt động CCCC bổ sung của các cơ quan chuyên môn này nhằm thực hiện các quyền nghĩa vụ của mình khi được yêu cầu. Ví dụ khi thẩm phán Tòa án ban hành quyết định thẩm định tại chỗ một nguồn hàng tồn kho theo yêu cầu của đương sự thì ngoài quan hệ với Tòa án, giữa đương sự trực tiếp yêu cầu thẩm định hàng tồn kho và các cán bộ thẩm định tại chỗ phát sinh một mối quan hệ pháp lý ràng buộc lẫn nhau. Trong trường hợp này, sự có mặt của đương sự yêu cầu thẩm định tại chỗ sẽ quyết định tổ chức thành công hay không thành công một phiên thẩm định, nghĩa là đương sự phải có mặt để thực hiện nghĩa vụ chỉ định hiện trường cần thẩm định như mở kho hàng để thẩm định tại chỗ lượng hàng tồn và cung cấp cho cơ quan thẩm định các hồ sơ giấy tờ cần thiết cho việc thẩm định, trường hợp đương sự vắng mặt thì phiên thẩm định sẽ không tiến hành được. Từ hoạt động này, đương sự có thêm những tuyên truyền viên pháp luật mới có kiến thức chuyên môn khác nhau. Đây cũng là môi trường để cho đương sự học hỏi thêm kiến thức pháp luật mới về chuyên môn của từng ngành mà họ được tiếp cận trong quá trình TTCC.
Việc thẩm phán tiến hành lấy lời khai người làm chứng, thực hiện đối chất giữa các đương sự hay lấy lời khai của đương sự đã tạo điều kiện để đương sự tiếp cận gần gũi với thẩm phán, giải tỏa những vướng mắc về tâm lý, bày tỏ được tâm tư nguyện vọng mong muốn được pháp luật bảo vệ và đây cũng là điều kiện tốt nhất để họ hiểu biết kiến thức pháp luật trong lĩnh vực mà họ đang theo kiện từ thẩm phán. Thông thường thẩm phán vừa tiến hành lấy lời khai của đương sự vừa kết hợp đối chiếu, phân tích đánh giá các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ kiện nhằm mục đích tìm ra mối liên hệ giữa các chứng cứ với nhau trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến tranh chấp để giải quyết một cách khách quan đúng đắn từng quan hệ tranh chấp trong vụ kiện. Mặt khác, hoạt động này cũng là điều kiện tốt cho thẩm phán kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của lý luận pháp lý trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, tạo bề dày kinh nghiệm thực tiễn cho thẩm phán.
3. Một số khó khăn và giải pháp khắc phục
Ở giai đoạn TTCC, cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật phổ biến cho người TGTT nhiều loại luật khác nhau trong cùng một thời gian, trong đó có cả luật nội dung và luật tố tụng. Đối tượng tham gia vào quan hệ GDPL ở giai đoạn này đa dạng, không đồng đều về trình độ văn hóa, nhận thức xã hội nên việc phổ biến pháp luật cho người TGTT mất nhiều thời gian, công sức. Pháp luật về dân sự, hành chính và các luật liên quan đến quan hệ dân sự của Nhà nước ta hiện nay nằm trong một khối lượng văn bản có thể nói là khổng lồ. Mỗi loại luật có nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật của các cơ quan khác nhau, ban hành vào nhiều thời gian khác nhau, như Luật Đất đai phải có đến 05 Nghị định hướng dẫn thi hành chưa kể đến các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan nên khó khăn cho cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật trong việc tổng hợp kiến thức pháp luật và cập nhật văn bản cũng như chuyển tải nội dung quy định của pháp luật cho người TGTT.
  Các văn bản pháp luật quy định trùng lặp chồng chéo vừa khó khăn cho việc áp dụng trong giải quyết tranh chấp, vừa khó khăn cho việc phổ biến pháp luật cho người TGTT, ví dụ Luật Thương mại có đến 324 điều quy định riêng về hoạt động thương mại dành riêng cho chủ thể thương nhân. Trong Bộ luật Dân sự (BLDS) cũng có quy định về quan hệ hợp đồng dân sự với các chủ thể là pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh và các cá nhân, tổ chức khác. Điểm khác nhau trong các quy định của hai luật này là các chế tài theo Luật Thương mại nặng hơn các chế tài theo pháp luật dân sự. Khi phổ biến pháp luật cho những người TGTT, cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật cố gắng phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh với khái niệm thương nhân nhằm thuyết phục đương sự về sự khác nhau giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự để áp dụng luật nào trong giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cách phân biệt này không mang tính thuyết phục cao do quan hệ thương mại và quan hệ dân sự trong hai luật này xét về thực chất chỉ là một. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều đương sự cho rằng, các chế tài của Luật Thương mại áp dụng cho thương nhân là thiếu bình đẳng và bất lợi cho họ nên họ yêu cầu Tòa án áp dụng các quy định về hợp đồng dân sự trong BLDS   để giải quyết vụ kiện. Ngoài ra trong BLDS và Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành cũng có những quy định trùng lặp về chế định tài sản chung của vợ chồng v.v..
Để khắc phục vấn đề này trong thời gian tới, Nhà nước cần có sự sửa đổi lớn trong BLDS, quy tất cả những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trong đời sống xã hội thành quan hệ dân sự và đưa vào BLDS, mạnh dạn bãi bỏ những luật có nhiều quy định trùng lặp không có giá trị áp dụng trên thực tế. Giảm thiểu các văn bản dưới luật, tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận các quy định của pháp luật dễ dàng, đơn giản hơn. Mặt khác, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến rộng rãi trong nhân dân về sự khuyến khích của Nhà nước trong thỏa thuận dân sự, hướng dẫn nhân dân có trách nhiệm cao đối với các cam kết dân sự của mình trong đời sống hàng ngày và đặc biệt cần có những quy định cụ thể các giao dịch dân sự thuộc nhóm nào thì phải được thể hiện bằng văn bản để khi xảy ra tranh chấp, pháp luật dân sự chỉ là định hướng giải quyết chung nhất cho tất cả các quan hệ dân sự, còn sự việc cụ thể thì căn cứ vào thỏa thuận của các bên đương sự để giải quyết tranh chấp, tránh tình trạng một vụ kiện dân sự phải áp dụng quá nhiều loại luật như hiện nay./.

Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự


Trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự thời gian gần đây, đã phát sinh một số tình huống gây ra sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin minh hoạ bằng một trường hợp cụ thể mà hiện nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.
Nội dung sự việc:
Luật sư Trần Văn S thuộc có nhận làm đại diện uỷ quyền tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị N. Văn bản uỷ quyền được chứng thực theo quy định pháp luật, được nộp ngay từ khi bắt đầu khởi kiện, với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Trần Văn S được đại diện cho bà Nguyễn Thị N tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; bà Nguyễn Thị N cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”.
Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Trần Văn S đã thay mặt bà Nguyễn Thị N đứng tên kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện M. Nội dung đơn kháng cáo đúng theo quy định nhưng Thẩm phán giải quyết vụ án không nhận đơn với lý do: ông Trần Văn S không được quyền kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị N mà phải có văn bản uỷ quyền ghi rõ là ông S được uỷ quyền kháng cáo thay và phải có công chứng, chứng thực (theo tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thực hiện điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ diễn biến nêu trên đã phát sinh 2 quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tại Điều 243 BLTTDS quy định về người có quyền kháng cáo: “Đương sự, người đại điện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”.
Tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: “Việc uỷ quyền tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm”.
Do đó, theo quan điểm này thì người đại diện của đương sự phải thực hiện theo đúng các quy định của Điều 243 BLTTDS và hướng dẫn của mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP nêu trên, tức là phải có làm thêm văn bản uỷ quyền và phải có nội dung ghi rõ bà Nguyễn Thị N uỷ quyền cho ông Trần Văn S kháng cáo.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tại khoản 1 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền”.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 74 BLTTDS quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”.
Theo các quy định nêu trên thì không cần thiết phải làm thêm văn bản uỷ quyền kháng cáo cho người đại diện của đương sự. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của bà Nguyễn Thị N ghi rất cụ thể là ông Trần Văn S được đại diện cho bà tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định. Hay nói cách khác, quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 BLTTDS cũng đã bao gồm cả quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án.
Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, đồng thời nhận thấy hướng dẫn tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP chỉ áp dụng đối với trường hợp văn bản uỷ quyền của đương sự không nêu rõ phạm vi uỷ quyền như trường hợp này hoặc mới phát sinh khi đương sự thực hiện quyền kháng cáo.
Trên đây là ý kiến của chúng tôi về việc nhận thức luật và áp dụng luật. Rất mong nhận được các ý kiến trao đổi, đóng góp từ phía các đồng nghiệp.
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Một số quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự


Việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động giải quyết tranh chấp của cơ quan Tòa án cũng như trong hoạt động tư vấn pháp luật của các Luật sư. Nhiều vụ việc trên thực tiễn là những bài học “đau đớn” cho các đương sự vì không nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự còn nhiều điểm bất cập, tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng, ảnh hưởng không ít đến quyền lợi của đương sự.

Bài viết này chúng tôi trao đổi một số vấn đề về các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện, cách tính thời hiệu, những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng (chủ yếu tiếp cận đối với việc giải quyết tranh chấp kinh doanh- thương mại)[1].
Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà đương sự được quyền yêu cầu cơ quan tòa án giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Quy định về thời hiệu khởi kiện buộc các đương sự phải ý thức được việc bảo vệ quyền lợi của mình và sớm có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tránh tình trạng khởi kiện tuỳ hứng.
Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm. Như vậy, để xác định đúng thời hiệu khởi kiện, phải xác định được quan hệ tranh chấp đó có được văn bản pháp luật nào khác quy định về thời hiệu khởi kiện hay không. Điều quan trọng thứ hai là phải xác định đúng ngày nào được coi là ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.
Theo Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS 2005 tại tiểu mục 2.2 Mục 2 phần IV  thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm và được xác định như sau:
a1. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm;
a2. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo đó bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày xảy ra vi phạm;
a3. Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày vi phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thỏa thuận của các bên và được thực hiện như hướng dẫn tại điểm a1 và điểm a2 nói trên;
a4. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng là ngày vi phạm.
a5. Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng…, thì ngày xảy ra hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng… là ngày vi phạm;
a6. Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng;
a7. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a1,a2,a3,a4,a5 nói trên, nếu các bên có thỏa thuận khác về thời hiệu, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính theo thỏa thuận của các bên.
Mặc dù Nghị quyết 01 nói trên hưóng dẫn cách xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện rất cụ thể như vậy nhưng việc xác định trên thực tế không mấy dễ dàng. Đối với tranh chấp trong kinh doanh thương mại, cách xác định còn mang đặc thù riêng.
Tranh chấp kinh doanh- thương mại phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều có văn bản pháp luật chuyên ngành (hẹp) điều chỉnh. Ví dụ, hợp đồng xây dựng chịu sự điều chỉnh của Luật xây dựng, hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực hàng hải chịu sự điều chỉnh của Bộ luật hàng hải, hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tài chính, ngân hàng… Thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực này, cũng có thể được văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh, nếu không được văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh thì sẽ áp dụng quy định của Luật thương mại 2005 về thời hiệu khởi kiện, theo đó, thời hiệu khởi kiện các tranh chấp trong hoạt động thương mại cũng là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại[2]. Quy định này trùng với quy định về thời hiệu khởi kiện của Điều 159 BLTTDS. Tuy nhiên, người áp dụng cũng cần phải lưu ý căn cứ pháp lý để xác định thời hiệu là Luật Thương mại chứ không phải là BLTTDS, điều luật cần phải viện dẫn là Điều 319 Luật Thương mại chứ không phải là Điều 159 BLTTDS. Thực tế cho thấy, các Thẩm phán khi viết án thường trích cả hai điều luật trên về thời hiệu khởi kiện là không đúng. Thậm chí còn có Thẩm phán trích dẫn cả Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Kinh tế và Điều 159 BLTTDS[3].
Đối với tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thời hiệu khởi kiện không chỉ được quy định khác về thời gian mà còn khác cả về phương pháp tính. Lấy đơn cử, các tranh chấp trong lĩnh vực hàng hải được Bộ luật hàng hải quy định nhiều loại thời hiệu khởi kiện khác nhau cho từng quan hệ tranh chấp khác nhau. Đối với tranh chấp về hư hỏng, mất mát hàng hóa vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là một năm, kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng (Điều 97). Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến là 2 năm, kể từ ngày người khiếu nại biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm phạm (Điều 118). Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường tổn thất do hành khách chết, bị thương hoặc tổn hại khác về sức khoẻ và mất mát, hư hỏng hành lý là hai năm (Điều 137). Thời điểm để tính thời hiệu được quy định cụ thể trong từng trường hợp (trường hợp hành khách bị thương thì tính từ ngày hành khách rời tàu; trường hợp hành khách chết trong thời gian vận chuyển thì tính từ ngày lẽ ra hành khách rời tàu; trường hợp hành khách bị thương trong quá trình vận chuyển dẫn đến hậu quả hành khách đó chết sau khi rời tàu thì tính từ ngày người đó chết, nhưng không được quá 3 năm, kể từ ngày rời tàu; trường hợp mất mát, hư hỏng hành lý thì tính từ ngày hành khách rời tàu hoặc ngày lẽ ra hành khách rời tàu, tuỳ thuộc vào thời điểm nào muộn hơn). Nếu có việc tạm đình chỉ hoặc gián đoạn thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường đối với trường hợp này thì thời hiệu khởi kiện cũng không được quá 3 năm kể từ ngày hành khách rời tàu hoặc ngày lẽ ra hành khách rời tàu, tuỳ thuộc vào thời điểm nào muộn hơn. Đối với vụ việc liên quan đến hợp đồng thuê tàu, thời hiệu khởi kiện là hai năm kể từ ngày chấm dứt hợp đồng. Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng đại lý tàu biển, hợp đồng môi giới hàng hải, hợp đồng lai dắt tàu biển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 2 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp (Điều 164, Điều 168, Điều 183, Điều 257). Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng cứu hộ hàng hải là hai năm, kể từ ngày kết thúc hành động cứu hộ (Điều 195). Thời hiệu khởi kiện về tai nạn va đâm là 2 năm, kể từ ngày xảy ra tai nạn. Trong trường hợp bồi thường tính mạng, sức khỏe hoặc tổn hại khác về sức khỏe con người, các tàu có lỗi phải chịu trách nhiệm liên đới. Tàu đã bồi thường vượt quá trách nhiệm của mình có quyền đòi các tàu liên quan hoàn trả số tiền quá mức đó và thời hiệu khởi kịên về việc đòi hoàn trả là 1 năm, kể từ ngày trả tiền bồi thường (Điều 211). Thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung là 2 năm, kể từ ngày xảy ra tổn thất chung. Thời gian tiến hành phân bổ tổn thất chung không tính vào thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung (Điều 218).
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cũng gặp nhiều vướng mắc bởi sự khác biệt này. Điều mà người vận dụng băn khoăn là hướng dẫn tại tiểu mục 2.2. của Nghị quyết  01 về cách xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện có áp dụng cho trường hợp thời hiệu khởi kiện do văn bản quy phạm pháp luật khác quy định? Điều đó dẫn đến những cách hiểu khác nhau trong việc xác định những vấn đề sau:
  • Xác định ngày phát sinh tranh chấp như thế nào?
Điều dễ nhầm lẫn là việc xác định ngày phát sinh tranh chấp khác với ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Không phải có vi phạm là đã có tranh chấp. Vậy xác định ngày phát sinh tranh chấp như thế nào? Khi BLTTDS 2005 đã có hiệu lực, Tòa án tối cao chỉ hướng dẫn về cách xác định ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm chứ không hướng dẫn về ngày phát sinh tranh chấp như trước đây. BLTTDS có hiệu lực làm cho các văn bản hướng dẫn Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đương nhiên hết hiệu lực. Như vậy, người áp dụng pháp luật sẽ rất lúng túng trong việc xác định ngày phát sinh tranh chấp. Trên thực tế việc xác định ngày phát sinh tranh chấp vô cùng phức tạp.
Sở dĩ có sự “vênh” giữa các quy định pháp luật, phải chăng do các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành được xây dựng vào thời điểm Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế còn có hiệu lực nên nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “ngày phát sinh tranh chấp”, trong khi BLTTDS không còn sử dụng thuật ngữ này?
  • Xác định thời hiệu khởi kiện như thế nào khi tranh chấp phát sinh trong quá trình hợp đồng thuê tàu đang được thực hiện?
Điều 142 Bộ luật hàng hải quy định tranh chấp liên quan đến hợp đồng thuê tàu thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày hợp đồng chấm dứt. Giả sử A thuê tàu của B, thời hạn thuê tàu là 3 năm, tiền thuê tàu được thanh toán trước một nửa. Hợp đồng thực hiện được 1 năm thì A có văn bản đề nghị chấm dứt hợp đồng vì chất lượng tàu không đảm bảo và đòi lại số tiền thuê đã trả. B không đồng ý và giữa hai bên phát sinh tranh chấp. A khởi kiện ra Tòa án. Vụ việc này thời hiệu khởi kiện được xác định như thế nào? Có quan điểm cho rằng thời điểm để xác định thời hiệu khởi kiện là ngày bên A có văn bản đề nghị chấm dứt hợp đồng. Có quan điểm khác cho rằng áp dụng Điều 142 nói trên, thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện là ngày hợp đồng chấm dứt. Điều đó có nghĩa, nguyên đơn khởi kiện trước thời điểm tính thời hiệu khởi kiện? Vấn đề cần xác định là hiểu như thế nào với quy định “tranh chấp liên quan đến hợp đồng thuê tàu” để xác định thời hiệu khởi kiện?
  • Xác định thời hiệu đối với tranh chấp giữa thành viên Công ty với Công ty, giữa thành viên công ty với nhau như thế nào?
Đối với tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty, tranh chấp thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, tổ chức lại doanh nghiệp chưa có quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện được xác định như thế nào. Như vậy, theo Điều 159 BLTTDS, tranh chấp công ty cũng có thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp Điều 107 Luật doanh nghiệp 2005 quy định đối với trường hợp yêu cầu huỷ quyết định của Đại hội cổ đông, thời hạn để các chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm được thực hiện quyền yêu cầu Tòa án huỷ là 90 ngày kể từ ngày nhận được biên bản của Đại hội cổ đông. Còn các tranh chấp khác trong công ty, quan niệm ngày nào là ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm cũng chưa rõ ràng. Ví dụ, thành viên công ty kiện Giám đốc có hành vi gây thiệt hại lợi ích của Công ty, ngày nào được coi là ngày có quyền, lợi ích bị xâm phạm? là ngày mà Giám đốc đã có hành vi gây thiệt hại, hay ngày thành viên đó biết được việc gây thiệt hại? Hai thời điểm đó có thể khác nhau.
Theo quy định của Điều 160 BLTTDS thì các quy định của Bộ luật Dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự; do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện… được thực hiện theo quy định của BLDS 2005 (Điều 161, Điều 162).
Về cách tính thời hạn, BLDS 2005 quy định khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày được xác định (khoản 2 Điều 152 BLDS 2005). Trở lại hướng dẫn của Nghị quyết 01, đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm theo quy định của khoản 3 Điều 159 BLTTDS và lưu ý nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn là hai năm kể từ ngày 01/01/2005 (tiểu mục 2.1, mục 2, phần IV). Bên cạnh đó, Điều 156 BLDS 2005 quy định “thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”.
Tranh cãi về việc áp dụng cách tính thời hạn theo quy định của BLDS 2005 cũng được đặt ra đối với hướng dẫn nói trên của Nghị quyết 01. Có quan điểm cho rằng, những tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005 thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính từ ngày 01/01/2005, và như vậy thời hiệu khởi kiện hết vào ngày 31/12/2006 (cách tính này áp dụng theo Điều 156 BLDS 2005). Nhưng cũng có quan điểm khác cho rằng, ngày bắt đầu tính thời hiệu là ngày 02/01/2005 (cách tính này áp dụng theo Điều 152 BLDS 2005) và như vậy, ngày hết thời hiệu khởi kiện là ngày 02/01/2007. Dù sự chênh lệch không nhiều, nhưng đối với quyền lợi của các đương sự, một ngày cũng đủ để cứu vớt quyền lợi của họ trước nguy cơ hết thời hiệu khởi kiện. Vậy phương pháp tính thời hiệu khởi kiện nào là phương pháp đúng? Chúng tôi cho rằng, cần có sự thống nhất về phương pháp tính thời hiệu để tránh thiệt hại cho các đương sự.
Điều 161 BLDS 2005 quy định thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau:
  1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu;
  2. Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
  3. Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng  mà không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết.
Quy định này dường như trở nên bất cập với tình huống sau: Công ty cổ phần An Khang, Giám đốc Công ty là Ông Khang, là người đại diện theo pháp luật của Công ty kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị đã lợi dụng danh nghĩa Công ty vay vốn Ngân hàng với số tiền lên tới 2 tỷ đồng và dùng tài sản của Công ty để thế chấp. Theo quy định của Điều lệ, với những hợp đồng vay như vậy phải được sự thông qua của Hội đồng quản trị nhưng ông Khang đã tự ý giao kết hợp đồng vay và sử dụng số tiền vay được vào mục đích cá nhân. Đại hội cổ đông của Công ty đã được triệu tập bất thường để xem xét vi phạm này của ông Khang và tiến hành biểu quyết bầu lại Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty. Tuy nhiên, ông Khang có đơn khiếu nại gửi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xem xét về hiệu lực của quyết định của Đại hội cổ đông. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã yêu cầu Công ty tiếp tục duy trì các chức danh quản lý của ông Khang. Trong thời gian này phía Ngân hàng khởi kiện Công ty đòi lại 2 tỷ đồng và Ngân hàng đã chủ động phát mại tài sản của Công ty để thu hồi vốn. Vì không có người đại diện theo pháp luật để đứng ra khởi kiện bảo vệ lợi ích của Công ty, Công ty tiếp tục tiến hành đại hội bầu người đại diện theo pháp luật mới của Công ty để thực hiện việc khởi kiện. Quá trình tiến hành các lần triệu tập, tiến hành họp, thông qua cuộc họp mất rất nhiều thời gian. Cuối cùng, khi đơn kiện được gửi đến Tòa án thì Tòa án trả lại đơn vì vụ việc đã hết thời hiệu khởi kiện.
Trong trường hợp này, thời gian gặp trở ngại vì không có người đại diện để thực hiện việc khởi kiện hợp lệ không được cộng vào thời hiệu khởi kiện theo quy định của Điều 161 nói trên. Và chúng tôi cho rằng điều đó là bất hợp lý. Nên chăng điều luật này cần được quy định thêm về những trở ngại đối với trường hợp pháp nhân chưa xác định được người đại diện. Có như vậy mới khắc phục được nhiều bất cập trong thực tiễn, ví dụ như người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chết, người đại diện đột nhiên mất năng lực hành vi…mà doanh nghiệp chưa có người thay thế để thực hiện việc khởi kiện. Khi đó, thời gian này cũng nên được cộng vào thời gian tính thời hiệu khởi kiện. Với những tình huống như vậy, giải pháp nên là, doanh nghiệp, dù chưa có người đại diện hợp lệ, vẫn tiến hành việc khởi kiện, sau đó khi xác định được người đại diện hợp lệ, doanh nghiệp sẽ khởi kiện lại để đỡ mất thời hiệu khởi kiện (Tòa án sẽ tính thời điểm khởi kiện là thời gian nộp đơn lúc đầu).
Điều 162 BLDS 2005 quy định về các trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, theo đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp:
  1. Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
  2. Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
  3. Các bên đã tự hòa giải với nhau.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại, kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra một trong những sự kiện nói trên. Tuy nhiên, trên thực tế điều luật này dường như bị lãng quên. Hơn nữa, điểm b của Điều 162 được hiểu như thế nào cũng chưa rõ ràng. Xin được viện dẫn ví dụ sau: Ngày 16/2/2002, Công ty THHH Hoàng Hà ký hợp đồng uỷ thác mua sắn lát với Công ty TNHH Hòa Bình. Theo hợp đồng, Công ty Hoàng Hà nhận thu mua 100 tấn sắn lát. Tổng giá trị lô hàng là 500 triệu đồng. Phí uỷ thác là 10% trên giá trị thu mua được. Công ty Hòa Bình đã ứng trước cho Công ty Hoàng Hà 400 triệu. Thời gian thực hiện hợp đồng là 1 năm kể từ ngày ký. Thực hiện hợp đồng, Công ty Hoàng Hà chỉ thu mua được 50 tấn. Công ty Hòa Bình đề nghị Công ty Hoàng Hà tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng để có đủ hàng giao cho Công ty của Hà Lan. Do không thể thu gom với giá ấn định nên Công ty Hoàng Hà có văn bản đề nghị chấm dứt hợp đồng. Ngày 1/2/2004, Công ty Hoàng Hà và Công ty Hòa Bình có văn bản xác nhận nợ, theo đó Công ty Hoàng Hà thừa nhận còn nợ Công ty Hòa Bình 150 triệu đồng (Công ty Hoàng Hà chưa được trừ phí uỷ thác vì phía Công ty Hòa Bình cho rằng Công ty Hoàng Hà chưa thực hiện xong hợp đồng) và cam kết sẽ trả hết nợ vào cuối tháng 2 năm 2004. Nhưng cho đến ngày 15/10/2004, Công ty Hoàng Hà mới chuyển trả được 35 triệu đồng và sau đó dừng hẳn việc trả nợ. Sau nhiều lần đề nghị thanh toán không thành, ngày 13/10/2006, Công ty Hòa Bình gửi đơn kiện đến TAND có thẩm quyền.
Xung quanh vụ việc này, cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về việc áp dụng điều luật khôi phục lại thời hiệu khởi kiện. Nếu áp dụng điểm a khoản 1, Điều 171 BLDS 1995 (thời điểm này còn áp dụng Điều 171 BLDS 1995, nay là Điều 162 BLDS 2005) về khôi phục lại thời hiệu khởi kiện, thời hiệu khởi kiện được tính lại từ ngày 1/2/2004 là ngày Công ty Hoàng Hà thừa nhận nghĩa vụ và thời hiệu khởi kiện được tính đến ngày 1/2/2006. Ngày 13/10/2006, Công ty Hòa Bình mới khởi kiện,  như vậy, vụ việcđã hết thời hiệu khởi kiện. Nếu áp dụng điểm b khoản 1 Điều 171, vụ việc còn thời hiệu khởi kiện, vì ngày 15/10/2004, Công ty Hoàng Hà đã thực hiện một phần nghĩa vụ đối với Công ty Hòa Bình, như vậy thời hiệu khởi kiện được tính lại từ ngày đó và vụ việc hết thời hiệu cho đến ngày 15/10/2006. Cách hiu nào đúng vẫn còn nhiều tranh luận. Ngoài ra, còn có quan điểm khác cho rằng, thời điểm này áp dụng quy định của Luật thương mại 1997, theo đó thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày phát sinh quyền khiếu nại. Trong khi vụ việc được áp dụng thời hiệu theo Luật Thương mại 1997 thì có áp dụng Điều 171 của BLDS 1995 hay không cũng chưa có quan điểm thống nhất.
Cũng vụ việc trên, có thể mở rộng thêm tình huống Công ty Hoàng Hà đã chuyển trả nợ nhiều lần. Vậy, lần trả nợ nào được xác định làm mốc để xác định ngày bắt đầu lại thời hiệu? Là ngày cuối cùng  mà Công ty Hoàng Hà trả một phần nợ? Để có cơ sở thống nhất cho việc áp dụng, cần có hướng dẫn cụ thể từ phía Tòa án nhân dân tối cao, tránh việc áp dụng tuỳ tiện.
Trong thực tiễn, việc viện dẫn mất quyền yêu cầu tòa án do hết thời hiệu khởi kiện có thể xuất phát từ một bên trong tranh chấp hợp đồng. Việc đương sự viện dẫn quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện để cho rằng vụ việc đã hết thời hiệu khởi kiện, đề nghị Tòa án bác yêu cầu của đối phương hiển nhiên được thừa nhận, đó là quyền phòng vệ của một bên tranh chấp.
Ngoài các bên đương sự, thực tiễn xét xử của Việt Nam cho thấy, nhiều trường hợp Tòa án tự viện dẫn quy định về thời hiệu khởi kiện để bác yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, vấn đề cần bàn là Tòa án có quyền tự viện dẫn quy định về thời hiệu để bác yêu cầu của các bên hay không? Xin viện dẫn ví dụ sau: Năm 1995, Công ty A bán cho Công ty B 64 tấn dầu. Khi có tranh chấp, Tòa án có thẩm quyền đã buộc Công ty B bồi thường cho Công ty A một khoản tiền. Sau đó, tại bản án phúc thẩm, Tòa phúc thẩm TANDTC buộc Công ty B phải thanh toán cho Công ty A một khoản tiền nhỏ hơn. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa phúc thẩm TANDTC thụ lý vụ việc và không đề cập đến vấn đề thời hiệu khởi kiện trong bản án. Tuy nhiên, trong Kháng nghị của Chánh án TANDTC đã nhận định “thời điểm phát sinh tranh chấp hợp đồng được tính từ ngày 5/10/1995. Theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì thời hiệu khởi kiện là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Trong thời hiệu khởi kiện (từ ngày 5/10/1995 đến hết ngày 5/4/1996) Công ty A đã không làm đơn khởi kiện… Do đó, kể từ ngày 6/4/1996, Công ty A không còn quyền khởi kiện ra tòa án đối với Công ty B về việc vi phạm hợp đồng kinh tế nêu trên[4]". Ở ví dụ này, chính Chánh án TANDTC đã viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của Công ty A.
Việc cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn vụ việc đã hết thời hiệu để không giải quyết vụ án dân sự cho thấy thực tiễn pháp luật Việt Nam khác với nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Bộ luật Dân sự Pháp, Điều 2223 quy định thẩm phán không thể tự viện dẫn việc hết thời hiệu khởi kiện. Pháp luật của một số nước cũng có quy định tương tự. Ở một số nước, trong đó có Pháp, tòa án cấp cao hơn sẽ hủy bản án sơ thẩm hay phúc thẩm nếu thẩm phán tự mình viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của một bên trong hợp đồng do hết thời hiệu trong khi không được bên kia của hợp đồng yêu cầu. Điều 10.9, khoản 1 Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (General Principle of Commercial Contracts), được nhiều nước thừa nhận rộng rãi cũng có quy định "việc hết thời hiệu chỉ có hiệu lực nếu bên có nghĩa vụ viện dẫn việc hết thời hiệu như là một biện pháp tự vệ". Như vậy, nhiều nước trên thế giới thừa nhận việc hết thời hiệu không có hiệu lực tự động mà nó chỉ có hiệu lực khi một bên viện dẫn điều đó như một biện pháp tự vệ. Theo đó, cơ quan tố tụng không được tự viện dẫn việc hết thời hiệu để từ chối quyền yêu cầu của một bên trong hợp đồng nếu không được bên kia yêu cầu.
Có quan điểm cho rằng việc cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn một bên mất quyền khởi kiện vì đã hết thời hiệu khởi kiện khi không được bên kia trong hợp đồng yêu cầu dường như đi ngược lại với tinh thần của nguyên tắc tự do quyết định, định đoạt của đương sự được ghi nhận tại Điều 5 BLTTDS, trong khi đó, quan hệ hợp đồng là loại quan hệ mà quyền định đoạt và quyết định của các bên là rất cao. Vì vậy, điểm a, khoản 1, Điều 168 BLTTDS quy định chung chung rằng, tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết là không hợp lý. Để pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và để tôn trọng quyền tự do quyết định, định đoạt của các bên trong tranh chấp hợp đồng, không nên cho phép cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của một bên khi không được bên kia yêu cầu. Đồng thời, để giải pháp này được áp dụng hài hòa thì điểm a, Khoản 1, Điều 168 BLTTDS nên quy định trong lĩnh vực hợp đồng, tòa án chỉ trả lại đơn khởi kiện vì thời hiệu khởi kiện đã hết nếu được một bên trong tranh chấp yêu cầu việc đó[5]. Chúng tôi ủng hộ quan điểm này. Thiển nghĩ, xét cho cùng việc viện dẫn thời hiệu khởi kiện chỉ là phương pháp phòng vệ của các bên tranh chấp, Tòa án không nên làm thay đương sự những việc mà đương sự không yêu cầu./.

[1] Các vụ việc tác giả nêu có thể là những vụ việc có thật được tác giả biên tập lại, cũng có thể là những tình huống giả định
[2] Lưu ý đối với những tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực thương mại trước khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thì cách tính thời hiệu khởi kiện có điểm khác, thời điểm tính thời hiệu khởi kiện là ngày phát sinh quyền khiếu nại chứ không phải là ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
[3] Bản án số 271/KTST ngày 14/4/2005- TAND TP Hà Nội
[4] Kháng nghị số 01/KT-TK ngày 23/3/1998  của Chánh án TANDTC
[5] Tham khảo bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại, Đỗ Văn Hữu đăng trên www.nclp.org.vn ngày 18/7/2006

Nguồn: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT – HỌC VIỆN TƯ PHÁP

Hậu quả của hết thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc, thì mất quyền khởi kiện.

Theo Thông tư liên ngành số 03/TTLN của Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 10/08/1996, "Bộ luật Dân sự không có quy định về thời hiệu khởi kiện đối với vi phạm hợp đồng dân sự, do đó, các hợp đồng dân sự được xác lập từ ngày 1/7/1996 mà có vi phạm, thì bên bị vi phạm không bị hạn chế thời gian khởi kiện trước Toà án, nếu pháp luật không có quy định khác". Nhưng theo Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, trong trường hợp pháp luật không có quy định khác thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm. Như vậy, thời hiệu khởi kiện này rất ngắn. Do đó, những tranh chấp về hậu quả của việc hết thời hiệu sẽ tăng. Với thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, chúng tôi phân tích hậu quả của hết thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực hợp đồng.

1. Hết thời hiệu làm mất quyền yêu cầu tòa án giải quyết

Mất quyền khởi kiện

Trong thực tiễn pháp lý, khi thời hiệu khởi kiện không còn, quyền yêu cầu tòa án của các chủ thể chấm dứt. Ví dụ: Ngày 20/12/1995, vợ chồng bà Bé làm tờ thế chấp tài sản với nội dung đồng ý thế chấp căn nhà ở thôn H. để vay bà Xuân 178 triệu đồng với lãi suất 3%/tháng, thời hạn trả là cuối tháng 12/1996 (âm lịch). Năm 2002, hai bên có tranh chấp và yêu cầu tòa án can thiệp. Tại bản án sơ thẩm số 119/DSST ngày 15/10/2002, Toà án nhân dân (TAND) huyện S nhận định: "kể từ năm 1997 đến nay bà Xuân không còn chứng cứ nào khác để chứng minh do khách quan nên không thể đòi số nợ trên, từ đó căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 tại điểm b, Khoản 3 và điểm a, Khoản 6; Khoản 2, Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Khoản 1, Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 thì thời hiệu khởi kiện đã hết, bà Xuân đã mất quyền khởi kiện nên vụ kiện sẽ được đình chỉ theo quy định của pháp luật". Tại Quyết định giám đốc thẩm số 136 ngày 18/11/2004, Toà dân sự TANDTC xét: "Hợp đồng vay nợ giữa bà Xuân với vợ chồng bà Bé được xác lập ngày 20/12/1995, thời hạn thanh toán hết tháng 12 (âm lịch) năm1996. Căn cứ vào Khoản 1, Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991… Đến năm 2002, bà Xuân mới khởi kiện đòi nợ vợ chồng bà Bé là đã quá thời hạn khởi kiện. Về phía bà Xuân không chứng minh được từ thời điểm bên vay tiền vi phạm hợp đồng (tháng 12/1996 âm lịch) đến năm 2002 giữa hai bên có thoả thuận kéo dài thêm thời hạn trả nợ nên không có cơ sở để tính lại thời hiệu. Do đó, tại bản án sơ thẩm số 119 ngày 15/10/2002, TAND huyện S xác định bà Xuân hết quyền khởi kiện và đình chỉ giải quyết vụ kiện là đúng pháp luật".

Như vậy, theo thực tiễn pháp lý Việt Nam, khi hết thời hiệu khởi kiện, bên có quyền mất quyền yêu cầu tòa án can thiệp, bảo vệ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là ai có thể viện dẫn việc mất quyền khởi kiện?

Chủ thể viện dẫn mất quyền khởi kiện

Trong thực tiễn, việc viện dẫn mất quyền yêu cầu tòa án do hết thời hiệu khởi kiện có thể xuất phát từ một bên trong tranh chấp hợp đồng, ví dụ: tranh chấp giữa ông Phát và bà Hoa liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Mặc dù chưa được uỷ ban nhân dân giao đất, bà Hoa vẫn chuyển giao đất cho ông Phát với giá 50 lượng vàng và ông Phát đã giao cho bà Hoa 45 lượng vàng. "Tháng 8-2000, ông Phát khởi kiện đòi lại số vàng đã giao cho bà Hoa nhưng bà Hoa cho rằng, phía ông Phát đã vi phạm hợp đồng và thời hiệu khởi kiện đã hết nên không đồng ý trả vàng cho ông Phát" (Quyết định giám đốc thẩm số 16/GĐT-DS ngày 28/1/2003 của Tòa dân sự TANDTC).

Hoặc viện dẫn mất quyền yêu cầu tòa án do hết thời hiệu khởi kiện cũng có thể xuất phát từ cơ quan tiến hành tố tụng. Ví dụ: năm 1995, Công ty A bán cho Công ty B 64 tấn dầu. Khi có tranh chấp, TAND TP. Hà Nội buộc B bồi thường cho A một khoản tiền. Sau đó, tại bản án số 134 ngày 20/9/1997, Tòa phúc thẩm TANDTC buộc B phải thanh toán cho A một khoản tiền nhỏ hơn. Như vậy, TAND TP Hà Nội và Tòa phúc thẩm TANDTC thụ lý vụ việc và không đề cập đến vấn đề thời hiệu khởi kiện trong bản án. Tuy nhiên, trong Kháng nghị số 01/KT-TK ngày 23/3/1998, theo Chánh án TANDTC, "thời điểm phát sinh tranh chấp hợp đồng được tính từ ngày 5/10/1995. Theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì thời hiệu khởi kiện là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Trong thời hiệu khởi kiện (từ ngày 5/10/1995 đến hết ngày 5/4/1996) A đã không làm đơn khởi kiện… Do đó, kể từ ngày 6/4/1996, A không còn quyền khởi kiện ra tòa án đối với B về việc vi phạm hợp đồng kinh tế nêu trên". ở ví dụ này, chính Chánh án TANDTC đã viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của bên A. Trong thực tiễn, việc cơ quan tố tụng tự viện dẫn mất quyền khởi kiện của một bên trong tranh chấp hợp đồng diễn ra không ít.

Như vậy, khi hết thời hiệu khởi kiện, quyền yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp của một bên trong hợp đồng bị mất. Điều đó là hợp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của một bên trong hợp đồng bởi thời gian càng lâu thì họ càng gặp khó khăn trong việc đưa ra biện pháp phòng vệ. Tuy nhiên, việc cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn việc hết thời hiệu để không giải quyết vụ án dân sự thì thực tiễn pháp luật Việt Nam khác với nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Theo Điều 2223 Bộ luật Dân sự Pháp, thẩm phán không thể tự viện dẫn việc hết thời hiệu khởi kiện. Pháp luật của các nước Bỉ, Lúc-xăm-bua, ý, Tây Ban Nha cũng quy định tương tư. Trong thực tiễn của nước Pháp, Tòa án tối cao Pháp thường xuyên hủy bản án sơ thẩm hay phúc thẩm trong đó thẩm phán tự mình viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của một bên trong hợp đồng do hết thời hiệu trong khi không được bên kia của hợp đồng yêu cầu.

Thực tiễn trên của Việt Nam cũng khác với một số bộ nguyên tắc về hợp đồng được đánh giá cao trên bình diện quốc tế. Ví dụ, Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng chỉ cho phép bên có nghĩa vụ của hợp đồng được viện dẫn việc hết thời hiệu và quy định là khi hết thời hiệu khởi kiện, "bên có nghĩa vụ được quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ". Và theo Điều 10.9, Khoản 1 Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế, "việc hết thời hiệu chỉ có hiệu lực nếu bên có nghĩa vụ viện dẫn việc hết thời hiệu như là một biện pháp tự vệ". Như vậy, trong các hệ thống luật nêu trên, việc hết thời hiệu không có hiệu lực tự động mà nó chỉ có hiệu lực khi một bên viện dẫn điều đó như một biện pháp tự vệ. ở đây, cơ quan tố tụng không được tự viện dẫn việc hết thời hiệu để từ chối quyền yêu cầu của một bên trong hợp đồng nếu không được bên kia yêu cầu.

Mặc khác, việc cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn việc một bên mất quyền khởi kiện khi không được bên kia trong hợp đồng yêu cầu dường như đi ngược lại với tinh thần của nguyên tắc tự do quyết định, định đoạt của đương sự được ghi nhận tại Điều 5 BLTTDS, trong khi đó, quan hệ hợp đồng là loại quan hệ mà quyền định đoạt và quyết định của các bên là rất cao. Theo đó, điểm a, Khoản 1, Điều 168 BLTTDS quy định chung chung rằng, tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết là không hợp lý.

Thiết nghĩ, để pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và để tôn trọng quyền tự do quyết định, định đoạt của các bên trong tranh chấp hợp đồng, không nên cho phép cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của một bên khi không được bên kia yêu cầu. Đồng thời, để giải pháp này được áp dụng hài hòa thì điểm a, Khoản 1, Điều 168 BLTTDS nên quy định là: trong lĩnh vực hợp đồng, tòa án chỉ trả lại đơn khởi kiện vì thời hiệu khởi kiện đã hết nếu được một bên trong tranh chấp yêu cầu việc đó.

2. Hết thời hiệu không làm mất quyền phát sinh quyền yêu cầu tòa án

Quyền yêu cầu tòa án can thiệp phát sinh từ quyền mà một bên được yêu cầu bên kia thực hiện. Ví dụ, quyền của một bên yêu cầu tòa án buộc bên kia thanh toán một khoản tiền phát sinh từ quyền bên này được yêu cầu bên kia thanh toán khoản tiền cho vay. Chẳng hạn, A cho B vay 100 triệu đồng. Vậy, A có quyền yêu cầu B thanh toán khoản tiền này và quyền này làm phát sinh quyền của A yêu cầu tòa án giải quyết buộc B thanh toán. Khi hết thời hiệu khởi kiện, quyền khởi kiện bị mất. Vấn đề đặt ra là liệu việc mất quyền yêu cầu tòa án có dẫn đến mất quyền làm phát sinh quyền yêu cầu tòa án không? Pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng về vấn đề này. Vụ tranh chấp giữa bà Bé và bà Xuân nêu trên là một ví dụ minh hoạ.

Chấm dứt hay không chấm dứt quyền phát sinh quyền yêu cầu toà án?

Trong tranh chấp giữa bà Bé và bà Xuân, bên cạnh việc xét rằng bà Xuân mất quyền khởi kiện, Tòa sơ thẩm còn nêu "bà Xuân đã mất quyền khởi kiện nên mặc nhiên bà Bé không còn phải có nghĩa vụ thanh toán số nợ đã vay". Như vậy, theo Tòa sơ thẩm, việc mất quyền yêu cầu tòa án giải quyết do hết thời hiệu làm mất quyền đòi nợ của bà Xuân và làm biến mất nghĩa vụ thanh toán nợ của bà Bé.

Giải pháp của Tòa sơ thẩm không được Chánh án TANDTC chấp nhận. Trong Kháng nghị số 72/KNDS ngày 03/9/2004, Chánh án TANDTC có nêu: việc giải quyết như trên "là không chính xác, vì pháp luật hiện hành chỉ xác định hết thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì Toà án không thụ lý giải quyết". Quan điểm trên của Chánh án TANDTC được Tòa dân sự TANDTC chấp nhận. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 136 ngày 18/11/2004 Toà dân sự TANDTC nhận định: "Toà án cấp sơ thẩm tuy đã đình chỉ việc giải quyết vụ kiện là đúng pháp luật nhưng trong phần nhận định của bản án, Toà án cấp sơ thẩm cho rằng bà Xuân đã mất quyền khởi kiện nên mặc nhiên bà Bé không còn phải có nghĩa vụ thanh toán số nợ đã vay là không chính xác, vì pháp luật hiện hành chỉ xác định hết thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì toà án không thụ lý giải quyết".

Như vậy, trong lĩnh vực hợp đồng, theo thực tiễn pháp lý Việt Nam, việc mất quyền khởi kiện không dẫn đến mất quyền làm phát sinh quyền yêu cầu tòa án. Với giải pháp trên, thực tiễn pháp lý Việt Nam làm cho pháp luật Việt Nam phù hợp với pháp luật nhiều nước trên thế giới. Theo pháp luật Đức, khi thời hiệu khởi kiện hết, quyền làm phát sinh quyền yêu cầu tòa án không chấm dứt. Quy định đó tương tự như pháp luật của Hy Lạp, Hà Lan, Đan Mạch, Anh, Ailen, Bồ Đào Nha và Khoản 1, Điều 10.9 Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế rằng "việc hết thời hiệu không chấm dứt quyền".

Hậu quả của việc không mất quyền

Theo thực tiễn pháp lý Việt Nam, quyền làm phát sinh quyền yêu cầu tòa án không chấm dứt khi thời hiệu khởi kiện đã hết. Chúng tôi cho rằng, giải pháp này là hợp lý và phù hợp với nhiều hệ thống luật trên thế giới như đã nêu.

Giải pháp này dẫn đến hậu quả là nếu bên có nghĩa vụ đã tự giác thực hiện nghĩa vụ thì không được đòi lại. Trong ví dụ trên, nếu bà Bé tự thanh toán cho bà Xuân mặc dù thời hiệu đã hết thì không được đòi lại khoản tiền đã trả. Vì quyền đó vẫn tồn tại nên bên có quyền vẫn có thể sử dụng để bù trừ nghĩa vụ của mình với bên kia. Ví dụ, nếu bà Xuân cũng phải trả bà Bé một khoản tiền thì bà Xuân có thể sử dụng khoản tiền mà mình cho vay để bù trừ với món nợ mà mình phải trả cho bà Bé.

Cũng cần phải thấy rằng, giải quyết hậu quả của giải pháp trên không đơn giản. Ví dụ, vì món nợ hết thời hiệu vẫn tồn tại thì liệu món nợ đó có tiếp tục làm phát sinh lãi suất không? Trong ví dụ liên quan đến tranh chấp giữa bà Xuân và bà Bé, các bên thỏa thuận là lãi suất 3%/tháng, liệu lãi suất trên có tiếp tục được tính không? Còn nữa, những biện pháp bảo đảm cho món nợ đó có chấm dứt không? Trong ví dụ trên, bà Bé đã thế chấp một bộ đơn xin hợp thức hóa nhà và một bộ hộ khẩu, số phận những tài liệu thế chấp này được giải quyết ra sao? Trong trường hợp không thể nhận lại những giấy tờ đó, bà Bé có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại không? Câu trả lời vẫn đang bỏ ngỏ và cần sự bàn luận của nhiều nhà luật học, nhà nghiên cứu và của bạn đọc Hiến kế Lập pháp.

Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP