Hiển thị các bài đăng có nhãn tố tụng dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tố tụng dân sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự


Trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự thời gian gần đây, đã phát sinh một số tình huống gây ra sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin minh hoạ bằng một trường hợp cụ thể mà hiện nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.
Nội dung sự việc:
Luật sư Trần Văn S thuộc có nhận làm đại diện uỷ quyền tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị N. Văn bản uỷ quyền được chứng thực theo quy định pháp luật, được nộp ngay từ khi bắt đầu khởi kiện, với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Trần Văn S được đại diện cho bà Nguyễn Thị N tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; bà Nguyễn Thị N cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”.
Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Trần Văn S đã thay mặt bà Nguyễn Thị N đứng tên kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện M. Nội dung đơn kháng cáo đúng theo quy định nhưng Thẩm phán giải quyết vụ án không nhận đơn với lý do: ông Trần Văn S không được quyền kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị N mà phải có văn bản uỷ quyền ghi rõ là ông S được uỷ quyền kháng cáo thay và phải có công chứng, chứng thực (theo tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thực hiện điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ diễn biến nêu trên đã phát sinh 2 quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tại Điều 243 BLTTDS quy định về người có quyền kháng cáo: “Đương sự, người đại điện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”.
Tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: “Việc uỷ quyền tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm”.
Do đó, theo quan điểm này thì người đại diện của đương sự phải thực hiện theo đúng các quy định của Điều 243 BLTTDS và hướng dẫn của mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP nêu trên, tức là phải có làm thêm văn bản uỷ quyền và phải có nội dung ghi rõ bà Nguyễn Thị N uỷ quyền cho ông Trần Văn S kháng cáo.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tại khoản 1 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền”.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 74 BLTTDS quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”.
Theo các quy định nêu trên thì không cần thiết phải làm thêm văn bản uỷ quyền kháng cáo cho người đại diện của đương sự. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của bà Nguyễn Thị N ghi rất cụ thể là ông Trần Văn S được đại diện cho bà tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt bà Nguyễn Thị N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định. Hay nói cách khác, quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 BLTTDS cũng đã bao gồm cả quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án.
Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, đồng thời nhận thấy hướng dẫn tại tiểu mục 1.8, mục 1, phần I Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP chỉ áp dụng đối với trường hợp văn bản uỷ quyền của đương sự không nêu rõ phạm vi uỷ quyền như trường hợp này hoặc mới phát sinh khi đương sự thực hiện quyền kháng cáo.
Trên đây là ý kiến của chúng tôi về việc nhận thức luật và áp dụng luật. Rất mong nhận được các ý kiến trao đổi, đóng góp từ phía các đồng nghiệp.
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh thương mại


Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
  • Thủ tục nhận đơn, kiểm tra đơn khởi kiện, cũng như việc xác định thẩm quyền, thời hiệu khởi kiện, v.v. giống như thủ tục giải quyết vụ án dân sự .
  • Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế (điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP).
  • Khi nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn kiện (hợp đồng kinh tế) để xác định trong vụ tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Nếu có căn cứ cho thấy trong vụ tranh chấp đó các bên đã có thoả thuận trọng tài thì Toà án căn cứ vào điểm e Điều 168 BLTTDS để trả lại đơn kiện cho người khởi kiện (tiểu mục 1.1 mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP).
  • Trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án Toà án mới phát hiện được trong vụ tranh chấp đó các bên đã có thoả thuận trọng tài, thì Toà án căn cứ vào Điều 168, khoản 2 Điều 192 vàĐiều 193 của BLTTDSra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn kiện cho đương sự (tiểu mục 1.1 mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP).
  • Thẩm quyền của TAND các cấp:
-     TAND cấp huyện giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại được quy định từđiểm a đến điểm i khoản 1 Điều 29 của BLTTDS;
-     TAND cấp tỉnh giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại được quy định từđiểm k đến điểm o khoản 1 Điều 29 và tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 29 của BLTTDS.
  • Khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử vụ án phát hiện ra vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế thì sẽ xử lý theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP.
  • Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải xem xét xác định vụ án thuộc loại án cụ thể nào trong số những loại án được quy định tại Điều 29 BLTTDS để áp dụng đúng luật chuyên ngành điều chỉnh loại quan hệ pháp luật đó.
  • Khi giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại Thẩm phán phải tuân theo Luật TM và pháp luật có liên quan. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì Thẩm phán áp dụng quy định của luật đó. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật TM và trong các luật khác thì Thẩm phán áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.
  • Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giữ, tạm giam, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Toà án tước quyền hành nghề vì phạm các tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên (khoản 2 Điều 12 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP).
Ls Phan Khắc Nghiêm

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

BÀN VỀ VIỆC TÒA ÁN YÊU CẦU PHẢI HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ …


ng A và ông B ký hợp đồng (viết tay) chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nhau nhưng đến hạn theo thỏa thuận thì ông B (người chuyển nhượng) không đồng ý làm thủ tục chuyển quyền sang tên nên hai bên phát sinh tranh chấp. Ông A đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Tòa án xử: Tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên và yêu cầu ông B phải trả số tiền đã nhận chuyển nhượng.
Thẩm phán đã thụ lý hồ sơ và lãnh đạo Tòa án đã phân công một Thẩm phán khác giải quyết vụ án trên. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán trực tiếp giải quyết án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án căn cứ vào khoản 2, Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự với lý do tranh chấp giữa ông A và ông B là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là tranh chấp đất đai theo qui định của Luật đất đai nhưng chưa được hoà giải ở cơ sở theo khoản 2, Điều 135 Luật đất đai. Như vậy, tranh chấp trên chưa đủ điều kiện khởi kiện theo điểm đ, Khoản 1, Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ông A không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm nên đã kháng cáo. Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên không chấp nhận đơn kháng cáo của ông A, giữ nguyên quyết định đình chỉ. Vụ việc đã làm cho ông A bức xúc, đi lại nhiều lần nhưng ông A buộc vẫn phải làm theo hướng dẫn của Tòa án, nộp đơn khởi kiện tại UBND xã để được tổ chức hòa giải ở cơ sở, đủ điều kiện thụ lý vụ án.
Điều 135 Luật đất đai quy định, khi các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp. UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải trong thời gian 30 ngày làm việc, kể từ ngày UBND cấp xã nhận được đơn. Trường hợp không hòa giải được tại UBND cấp xã, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Khoản 26, Điều 4 Luật Đất đai qui định: “Tranh chấp đất đai (TTĐĐ) là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất (NSDĐ) giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Thông thường để an toàn, một số Thẩm phán giải quyết án đều yêu cầu phải hòa giải ở cơ sở đối với các tranh chấp liên quan đến đất đai. Việc “cầu toàn” của Thẩm phán đã “vô tình” gây nhiều phiền hà cho dân. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do một số vị thẩm phán chưa phân biệt rõ được: tranh chấp đất đai và tranh chấp liên quan đến đất đai?. Tranh chấp đất đai, đối tượng tranh chấp phải là quyền sử dụng đất. Còn các tranh chấp liên quan đến đất đai thì có đối tượng tranh chấp khác. Cụ thể, trong trường hợp này, đối tượng tranh chấp là nghĩa vụ trả tiền đã nhận chuyển nhượng của ông B chứ không phải là quyền sử dụng đất của ông B. Nên việc giải quyết án, không cần thủ tục hòa giải ở cơ sở.
Hiện nay, ở nhiều địa phương, các tranh chấp về hợp đồng thế chấp, cầm cố, chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các yêu cầu của đương sự là trả tiền cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng; không phải là quyền sử dụng đất nhưng một số Tòa lại qui định theo kiểu an toàn: bắt buộc phải hòa giải ở cơ sở. Đối với các trường hợp này, Luật không có qui định bắt buộc hòa giải ở cơ sở vì đây không phải là tranh chấp đất đai. Do đó, Tòa án cần thống nhất áp dụng đúng qui định của pháp luật, chứ đừng vì “cầu toàn” mà tự mình qui định các thủ tục thừa, gây khó khăn, phiền hà cho dân.
Nguồn: TẠP CHÍ KIỂM SÁT ONLINE

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

BÀN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ: VIỆN KIỂM SÁT CAN DỰ VÀO NỘI DUNG ÁN DÂN SỰ?

Gần đây, ở nhiều phiên tòa dân sự phúc thẩm đã xuất hiện chuyện đại diện VKS không chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án mà còn đưa ra cả kết luận về mặt nội dung tranh chấp. Xung quanh chuyện này, hiện trong nội bộ hai ngành tòa án và VKS đang có nhiều quan điểm rất trái ngược.
Tạo sự bất bình đẳng?
Theo một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM, kiểm sát viên kết luận cả phần nội dung là sự can thiệp quá sâu vào quá trình giải quyết án. Việc dân sự “cốt ở đôi bên”, là chuyện của hai bên đương sự, khi họ không tự giải quyết được mới đưa ra tòa. Tòa giải quyết án trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên hoặc dựa vào chứng cứ. Mặt khác trong án dân sự, chuyện có kẻ thắng người thua là điều tất yếu. Cho kiểm sát viên phát biểu đường lối giải quyết vụ án thì chẳng khác gì một bên đương sự đã có thêm “đồng minh” là cơ quan nhà nước, làm mất đi sự bình đẳng trước pháp luật.
Một thẩm phán TAND quận 1 (TP.HCM) cũng nhận xét việc để kiểm sát viên kết luận về mặt nội dung tranh chấp là một bước thụt lùi, trái với thông lệ tố tụng của các nước. Ông bày tỏ lo ngại: Nhiều vụ kiểm sát viên kết luận về mặt nội dung một đằng, HĐXX lại tuyên án một nẻo khiến người dân thêm hoang mang, vụ án thêm phức tạp, rối rắm. Chưa kể, việc kiểm sát viên kết luận cả phần nội dung ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến phán quyết của tòa, đôi khi làm kéo dài việc giải quyết án một cách không cần thiết.
Giúp tòa xử án chính xác?
Ngược lại, Thẩm phán Phạm Công Hùng (Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM) lại cho rằng việc kiểm sát viên phát biểu cả phần nội dung tại phiên tòa phúc thẩm là một điều tốt, thể hiện sự tiến bộ trong tranh tụng. Theo ông, tất nhiên sẽ có những quan điểm khác nhau về mặt nội dung giữa HĐXX và kiểm sát viên trong giai đoạn phúc thẩm nhưng chỉ xảy ra ở những vụ án phức tạp, nhiều tình tiết chưa rõ mà thôi. Việc tham gia ý kiến về mặt nội dung của kiểm sát viên sẽ giúp HĐXX mổ xẻ, cọ xát vấn đề để tìm ra chân lý khi giải quyết án.

Đồng tình, kiểm sát viên cao cấp Nguyễn Thanh Sơn (Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao) phân tích: Theo luật, tại phiên tòa sơ thẩm, kiểm sát viên chỉ phát biểu ý kiến về tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, HĐXX, những người tham gia tố tụng (khoản 1 Điều 234 BLTTDS sửa đổi). Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, luật lại quy định là kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm (Điều 273a BLTTDS sửa đổi). Như vậy hiểu theo tinh thần của luật sửa đổi thì khác với phiên tòa sơ thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm kiểm sát viên được quyền phát biểu ý kiến cả về mặt tố tụng lẫn nội dung.
Trước hai luồng quan điểm chưa thống nhất như trên, nhiều cán bộ tố tụng và chuyên gia mà chúng tôi trao đổi đều đồng ý rằng hai ngành tòa án, VKS cần sớm ngồi lại trao đổi và có văn bản hướng dẫn chính thức.
Vẫn cần VKS trong phiên tòa dân sự
Trước đây, trong quá trình lấy ý kiến sửa đổi BLTTDS, có nhiều góp ý cho rằng nên bỏ hẳn quy định VKS tham gia phiên tòa dân sự vì không cần thiết. Vụ việc dân sự cốt là ở hai bên đương sự tự định đoạt, nếu có VKS tham gia là vi phạm nguyên tắc lợi ích tư đang được tố tụng thế giới tôn trọng. Nếu cho VKS tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự chỉ để nhận định về tố tụng xem tòa xử đúng hay sai thì không có ý nghĩa. Bởi lẽ bản chất lời phát biểu đó là nói với chính người vi phạm để họ tự kiểm và kết luận mình có vi phạm hay không thì cũng chẳng để nhằm mục đích gì. Mặt khác, đương sự đã có đầy đủ quyền được yêu cầu luật sư, trợ giúp pháp lý, thay đổi người tiến hành tố tụng, kháng cáo, khiếu nại với bản án… nên không cần VKS giám sát, hỗ trợ nữa…
Tuy nhiên, quan điểm này đã không được số đông tán thành. Theo BLTTDS sửa đổi, bổ sung, phạm vi tham gia của VKS trong việc giải quyết các vụ việc dân sự đã được làm rõ hơn và rộng hơn: VKS phải thực hiện kiểm sát ngay từ khi tòa án nhận đơn khởi kiện của đương sự. VKS phải có trách nhiệm tham gia đầy đủ các phiên tòa sơ thẩm trong các trường hợp quy định tại Điều 21 BLTTDS sửa đổi và tham gia tất cả các phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; tham gia 100% phiên họp giải quyết việc dân sự; tham gia phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
Không nên đi vào nội dung
VKS không nên đi sâu vào nội dung vụ án, chỉ nên dừng lại ở việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật về mặt tố tụng mà thôi. Trước đây, chúng ta đã  từng sửa luật, bỏ việc tham gia của VKS tại phiên tòa dân sự, nay sửa lại nhưng phải có sự đổi khác là chỉ tham gia kiểm sát tố tụng chứ không nên đi vào nội dung. Nếu không chả khác gì như quay lại trước đó, là một bước thụt lùi. Nếu VKS quá “dài tay” đi vào nội dung chả khác gì hình thành thêm một “HĐXX thứ hai”. Đồng thời, việc can thiệp quá sâu này sẽ làm cho HĐXX lúng túng, dè dặt và tỏ ra quá thận trọng khi ra quyết định cuối cùng trong bản án. 
Luật sư TRẦN CÔNG LY TAO,
Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM
Bước lùi
Nếu đặt nguyên tắc thỏa thuận lên hàng đầu thì ngay cả tòa án cũng chỉ làm vai trò trung gian cho các bên chứ không áp đặt ý chí hướng giải quyết. Chúng ta nên bỏ hẳn vai trò của VKS ra khỏi án dân sự vì đó là việc của cá nhân với nhau, không cần quyền lực nhà nước can thiệp. Mặt khác, VKS phát biểu quan điểm trong các phiên tòa, phiên họp là trái với nguyên tắc đảm bảo quyền tranh luận và quyền tự định đoạt của đương sự. Cho phép VKS tham gia tất cả phiên tòa dân sự là chúng ta đang bước lùi trong tố tụng.
Luật sư TRƯƠNG XUÂN TÁM,
Ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Nguồn: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM