1. VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG VÀ VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG CHUNG TẠI TÒA ÁN
Tố
tụng tại Tòa án là toàn bộ hoạt động giải quyết tranh chấp của những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng bắt đầu từ việc
nhận đơn kiện cho đến khi kết thúc vụ kiện. Có thể chia quá trình tố
tụng dân sự (TTDS) tại Tòa án làm bốn giai đoạn đó là khởi kiện thụ lý
vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải và xét xử vụ án.
Giáo
dục pháp luật trong hoạt động tố tụng tại Tòa án là việc các cơ quan tố
tụng, người tiến hành tố tụng, các chuyên gia tư vấn pháp luật hướng
dẫn, phổ biến các kiến thức pháp luật và truyền thụ tình cảm pháp lý cho
những người tham gia tố tụng và những người khác trong cộng đồng dân cư
nhằm mục đích giải quyết vụ kiện một cách thấu tình đạt lý, từ đó hình
thành ở họ sự hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật, tình cảm
pháp lý và thói quen hành động theo pháp luật.
Do
tính đặc thù của hoạt động tố tụng nên đối tượng trực tiếp tham gia
công tác giáo dục pháp luật và đối tượng được tuyên phổ biến pháp luật
trong hoạt động tố tụng tại Tòa án chủ yếu là cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại Tòa án.
Theo
quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) thì cơ quan tiến hành tố tụng gồm:
Tòa án nhân dân (TAND) và Viện Kiểm sát nhân dân; những người tiến hành
tố tụng tại Tòa án gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án; Viện
trưởng Viện kiểm sát và kiểm sát viên; Những người tham gia tố tụng
trong vụ kiện là đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Đương sự
trong vụ kiện dân sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Nguyên đơn là người đưa đơn khởi kiện, người được cá nhân,
cơ quan tổ chức khác do Bộ luật TTDS quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa
án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của
người đó bị xâm phạm. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn
khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan tổ chức khác do Bộ luật TTDS quy định.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không
khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Ngoài đương sự còn có những người
tham gia tố tụng khác, đó là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự như luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp
pháp lý có đủ tiêu chuẩn và điều kiện quy định trong Bộ luật TTDS,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và người đại diện cho
đương sự.
Việc
giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng tại Tòa án chỉ được bắt
đầu tiến hành khi có đơn khởi kiện của đương sự. Như vậy có thể nói, đơn
khởi kiện của đương sự là sự khởi đầu và là sự kiện pháp lý làm phát
sinh quan hệ giáo dục pháp luật giữa các chủ thể trong hoạt động tố tụng
tại tòa án. Động cơ tìm hiểu pháp luật của những người tham gia tố tụng
tại Tòa án (đối tượng học viên chủ yếu của hình thức giáo dục pháp luật
này) khá là thực tế, đó là
khát khao, mong muốn có một kiến thức pháp lý nhất định để hướng đến
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, thiết thực, cận kề cho bản
thân mình, nên nhu cầu tìm hiểu pháp luật để bảo vệ lợi ích chính đáng
của họ cấp thiết hơn. Vì vậy, những người tham gia tố tụng đến với những
người, cơ quan tố tụng, với các chuyên gia tư vấn pháp luật để học hỏi
và tìm hiểu các quy định của pháp luật trong lĩnh vực họ đang theo kiện
cũng có điểm khác biệt so với các hình thức giáo dục pháp luật khác, đó
là họ chủ động hơn, nhiệt tình hơn và nó còn được ví như là một nhu cầu
khách quan cần phải được đáp ứng.
Hình
thức giáo dục pháp luật trong hoạt động tố tụng tại Tòa án cũng mang
nét đặc trưng riêng, nó không được tổ chức thành trường lớp, không có
giáo trình cụ thể như hình thức giáo dục pháp luật trong trường học.
Hình thức giáo dục này cũng không mang tính lưu giữ các nguồn tài liệu
pháp luật phục vụ công tác nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật như hình
thức giáo dục pháp luật bằng tủ sách pháp luật và nó cũng không được tổ
chức thành phong trào rộng khắp trong trong toàn thể cộng đồng dân cư
theo kế hoạch định hướng trước của các chủ thể giáo dục pháp luật như
hình thức giáo dục pháp luật trong cộng đồng. Giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động tố tụng tại Tòa án phát sinh trên cơ sở đơn khởi kiện của
đương sự và là
một quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có chủ định và có kế
hoạch của các chủ thể giáo dục đó là các Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư
ký tòa án, Giám định viên và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác đến
các đối tượng giáo dục là những người tham gia tố tụng và những người
khác có quan tâm đến quan hệ tranh chấp đang được Tòa án giải quyết,
nhằm mục đích trước hết là giải
quyết đúng đắn, khách quan vụ kiện, tạo niềm tin cho người tham gia tố
tụng và nhân dân, làm hình thành ở họ ý thức pháp luật, trạng thái xúc
cảm, tình cảm pháp luật đúng đắn, là cơ sở cho hành vi, ứng xử phù hợp
với yêu cầu của pháp luật.
Chất
lượng của công tác giáo dục pháp luật trong hoạt động tố tụng tại Tòa
án có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của việc giải quyết vụ án và ngược
lại, nó được ví như hai mặt của một vấn đề. Thực tiễn cho thấy, trong
quá trình giải quyết vụ kiện, nếu người, cơ quan tiến hành tố tụng và
người, cơ quan tham gia tố tụng (tức cả đội ngũ giảng viên và học viên)
cùng lấy pháp luật làm chuẩn mực trong hoạt động tố tụng, tôn trong sự
thật khách quan thì chất lượng giáo dục pháp luật trong hoạt động này
luôn diễn biến theo chiều hướng
tích cực. Trường hợp người, cơ quan tiến hành tố tụng đưa người, cơ quan
tham gia tố tụng đi trái nguyên tắc này thì kết quả giải quyết vụ án sẽ
bị sai lệch và kết quả của việc giáo dục pháp luật trong hoạt động này
có chiều hướng ngược lại. Như vậy, thành công của công tác giáo dục pháp
luật trong hoạt động tố tụng tại Tòa án luôn luôn đồng thời với thành
công của việc giải quyết vụ án.
2. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN
1.2 Một số khái niệm về khởi kiện và thụ lý vụ án
Cho
đến nay, chưa có tài liệu nào định nghĩa một cách đầy đủ hành vi khởi
kiện là gì, nhưng qua thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án, có thể
hiểu khởi kiện là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc qua người
đại diện hợp pháp viết văn bản trình bày các sự kiện phát sinh trong
đời sống mà họ cho rằng, trong sự kiện đó, có cá nhân, tổ chức đã xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ cần phải được pháp luật bảo vệ,
gửi cho Tòa án có thẩm quyền nhằm yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Trong thực tế, hành vi khởi kiện chỉ xảy ra khi có một hoặc nhiều sự kiện phát sinh
mà tự người khởi kiện hoặc các bên không thể cùng đồng thuận giải quyết
được cần yêu cầu một cơ quan bảo vệ pháp luật đứng ra giải quyết, can
thiệp như sự kiện tranh giành đất đai, tài sản, ly hôn, vi phạm cam kết
trong hợp đồng v.v.. Tuy nhiên, không phải bất cứ đơn khởi kiện nào cũng
được Tòa án tiếp nhận thụ lý để giải quyết. Theo quy định của Bộ luật
TTDS, Tòa án chỉ thụ lý những đơn kiện đúng về mặt hình thức, có yêu cầu
rõ ràng cụ thể, có nội dung phản ánh đầy đủ quan hệ pháp luật đang bị
tranh chấp và thuộc thẩm quyền của mình khi đương sự đã nộp đủ tiền tạm
ứng án phí.
Như
vậy, thụ lý vụ án là việc Tòa án có thẩm quyền xem xét đơn, nhận đơn,
ghi vào sổ theo dõi đơn khởi kiện và phân công Thẩm phán giải quyết vụ
kiện của cá nhân, tổ chức khởi kiện khi có đủ điều kiện khởi kiện theo
quy định của Bộ luật TTDS. Đơn khởi kiện là điều kiện tiên quyết để thụ
lý vụ án, nó làm phát sinh quan hệ pháp lý giữa Tòa án và cá nhân, tổ
chức khởi kiện, làm phát sinh quan hệ giáo dục pháp luật giữa các chủ
thể. Sau khi vụ án được thụ lý, cá nhân, tổ chức khởi kiện trở thành
đương sự trong vụ kiện, có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp
luật, đồng thời họ cũng trở thành đối tượng học viên chủ yếu của công
tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng tại Tòa án.
2.2. Giáo dục pháp luật trong giai đoạn khởi kiện
Có
quan điểm cho rằng, ở giai đoạn khởi kiện chưa cần đặt vấn đề tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho cá nhân hoặc tổ chức khởi kiện, bởi lẽ
đây mới là hoạt động ban đầu của người khởi kiện, ở giai đoạn này người
khởi kiện chỉ cần nêu được những vấn đề chính của sự kiện đã và đang xảy
ra kèm theo những vấn đề cần yêu cầu Tòa án giải quyết là đủ. Tuy nhiên
trong thực tiễn khi có sự kiện tranh chấp phát sinh, người khởi kiện đã
có nhu cầu được phổ biến kiến thức pháp luật về khởi kiện dân sự nhằm
có được một đơn kiện đúng với hình thức và chuyển tải đúng, đủ nội dung
yêu cầu của mình, gửi đến một Tòa án có thẩm quyền theo đúng quy định
của pháp luật để được Tòa án chấp nhận thụ lý và bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình đang bị người khác xâm phạm. Thông thường ở giai đoạn
này người khởi kiện thường tìm đến các luật sư, luật gia và những người
làm công tác trợ giúp pháp lý v.v.. (gọi chung là các chuyên gia tư vấn
pháp luật) để được trợ giúp về mặt pháp lý. Kết quả thăm dò ý kiến của
100 người khởi kiện trong quý IV năm 2011 tại bốn cơ quan TAND cấp huyện
của tỉnh ĐakLak cho thấy, có hơn 70% số người muốn tìm hiểu pháp luật
để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án, khoảng 17%
số người khởi kiện muốn tìm hiểu pháp luật để cùng với luật sư tham gia
tố tụng tại tòa, số còn lại khoảng 13% số người không có điều kiện về
thời gian, phải ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng tại
Tòa án nhưng vẫn có mong muốn tìm hiểu pháp luật để tăng thêm vốn kiến
thức pháp luật phục vụ đời sống. Nhu cầu khách quan này của người khởi
kiện trên thực tế đã làm phát sinh hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp
luật. Hoạt động này trước hết được tiến hành giữa bên tuyên truyền là
các chuyên gia tư vấn pháp luật với bên được tuyên truyền là cá nhân, tổ
chức khởi kiện. Kiến thức pháp luật mà người khởi kiện và người bị kiện
được phổ biến trong giai đoạn này thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất:
Bài học pháp luật đầu tiên của người khởi kiện trong giai đoạn này là
cách thức viết đơn khởi kiện, hay nói cách khác,là người khởi kiện được
các chuyên gia tư vấn pháp luật phổ biến các quy định của pháp luật về
hình thức, nội dung đơn khởi kiện, căn cứ khởi kiện và đặc biệt là hiểu
được trách nhiệm vật chất khi đưa đơn khởi kiện. Thực tiễn giải quyết
tranh chấp dân sự, hành chính tại Tòa án cho thấy, một đơn khởi kiện đạt
yêu cầu quy định trong bộ luật TTDS là phải được thể hiện bằng hình
thức văn bản ghi rõ họ tên địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện và
các vấn đề cần yêu cầu Tòa án giải quyết, các vấn đề này phải có căn cứ
pháp luật và phải được trình bày ngắn gọn, dễ hiểu. Ngoài ra, người
khởi kiện cũng cần phải nắm được các quy định của pháp luật về trách
nhiệm pháp lý gắn liền với trách nhiệm vật chất khi đưa đơn khởi kiện
đối tác ra Tòa án. Ví dụ, khi đưa đơn khởi kiện một cá nhân hay tổ chức
mà người khởi kiện cho rằng cá nhân hay tổ chức đó đã xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, người khởi kiện buộc phải nộp một khoản tạm
ứng án phí bằng 25% tổng số án phí của vụ án. Trong trường hợp thua kiện
thì người khởi kiện phải nộp toàn bộ án phí của vụ kiện. Đây là khoản
tiền ràng buộc trách nhiệm của người khởi kiện, khoản phí vật chất này
làm cho người khởi kiện buộc phải cân nhắc, tìm hiểu kỹ càng các căn cứ
của pháp luật trước khi đưa đơn khởi kiện đối tác ra Tòa án. Yêu cầu cụ
thể của người khởi kiện trong giai đoạn này là phải nắm được các quy
định chi tiết của Bộ luật TTDS về hình thức, nội dung đơn kiện, căn cứ
khởi kiện và các quy định của pháp luật về trách nhiệm vật chất khi đưa
đơn khởi kiện. Ngoài ra, tùy theo từng lĩnh vực tranh chấp, người khởi
kiện còn phải nắm được các quy định của các luật nội dung như BLDS, Luật
Thương mại, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Lao động
v.v.. để phần trình bày trong nội dung đơn kiện được đầy đủ, rõ ràng,
phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, làm căn cứ cho Tòa án giải
quyết. Vì vậy, yêu cầu của công tác giáo dục pháp luật đặt ra cho những
chuyên gia tư vấn pháp luật trong giai đoạn này là bằng mọi phương
pháp, cách thức truyền đạt, chuyển tải cho cho người khởi kiện nắm được
các quy định chi tiết của luật TTDS về cách thức trình bày đơn khởi
kiện, các quy định của luật nội dung trong lĩnh vực họ đang theo kiện để
giúp người khởi kiện xác định đúng các căn cứ khởi kiện, đặc biệt là
làm cho người khởi kiện hiểu được các quy định của pháp luật về trách
nhiệm vật chất khi đơn kiện của họ không được Tòa án chấp nhận, nghĩa là
phải làm cho người khởi kiện nhận thức được hậu quả pháp lý khi đơn
khởi kiện của họ không đủ căn cứ pháp luật và bị thua kiện. Thành công
của công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật giữa các chuyên
gia tư vấn pháp luật và người khởi kiện trong hoạt động khởi kiện được
đánh giá bằng chính chất lượng của đơn khởi kiện đó là một đơn kiện đúng
hình thức theo quy định của pháp luật, các yêu cầu của người khởi kiện
được trình bày ngắn gọn rõ ràng, dễ hiểu, có căn cứ pháp luật và được
Tòa án chấp nhận thụ lý để giải quyết.
Thực
tế hiện nay vẫn còn những chuyên gia tư vấn pháp luật vì lợi ích cá
nhân nên ngay từ giai đoạn khởi kiện đã cố tình phức tạp hóa những quy
định của pháp luật trong hoạt động khởi kiện và các hoạt động tố tụng
khác, gây khó khăn trong tiếp thu kiến thức pháp luật cho người khởi
kiện, người bị kiện và những người liên quan trong vụ kiện làm cho họ
không thể tham gia tố tụng một cách độc lập mà buộc phải phụ thuộc lâu
dài vào nhà tư vấn. Thực tế này đặt ra cho Nhà nước ta trách nhiệm quản
lý chặt chẽ hệ thống luật sư, mở rộng các tổ chức trợ giúp pháp lý, tạo
điều kiện cho nhân dân có điều kiện và môi trường lựa chọn nhà tư vấn đủ
năng lực chuyên môn và có đạo đức nghề nghiệp.
Thứ hai:
Phổ biến cho người khởi kiện các quy định của pháp luật về cách thức
xác định thẩm quyền của Tòa án để gửi đơn khởi kiện. Đây không phải là
vấn đề mới được đặt ra trong công tác giáo dục pháp luật nhưng cũng là
vấn đề đang được người khởi kiện quan tâm. Thực tiễn cho thấy, người
khởi kiện viết được đơn khởi kiện đạt yêu cầu nhưng không gửi đúng Tòa
án có thẩm quyền thì đơn khởi kiện đó buộc phải chuyển lòng vòng, trước
hết là làm mất thời gian, cơ hội của người khởi kiện, đồng thời gây khó
khăn tốn kém tiền bạc và sức lao động trong việc xử lý đơn của Nhà nước.
Vì vậy, mong muốn của người khởi kiện và cũng là mong muốn của Nhà nước
ta là đơn kiện phải đến đúng cơ quan Tòa án có thẩm quyền trong thời
gian sớm nhất. Từ nhu cầu khách quan này, người khởi kiện thường hướng
đến việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của Tòa án trước khi đưa đơn khởi kiện. Yêu cầu đặt ra cho
các chuyên gia tư vấn pháp luật trong hoạt động này là phải tuyên truyền
phổ biến cho người khởi kiện hiểu được một cách sơ lược về hệ thống các cơ quan TAND
và chức năng nhiệm vụ của nó được quy định trong Luật Tổ chức TAND,
BLDS và Bộ luật TTDS, nghĩa là phải làm cho người khởi kiện nhận thức,
hình dung và phân biệt được thẩm quyền của Tòa án theo cấp, theo lãnh
thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Có quan điểm cho rằng, ở giai
đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án không cần thiết phải phổ biến cho đương
sự chức năng nhiệm vụ của toàn hệ thống các cơ quan Tòa án, bởi lẽ trong
giai đoạn này, đương sự chỉ gửi đơn khởi kiện tại Tòa án cấp sơ thẩm
nên chỉ cần biết thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm là đủ. Tuy
nhiên trong thực tiễn phổ biến pháp luật cho đương sự về thẩm quyền của
Tòa án ở giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án, các Thẩm phán và các
chuyên gia tư vấn pháp luật khác đều nhận ra một thực tế là, những đương
sự khởi kiện vì nhiều lý do khác nhau nhưng đều có mong muốn hình dung
được chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của từng bộ phận trong toàn bộ hệ
thống các cơ quan Tòa án Việt Nam hiện nay. Mặt khác, thực tiễn giải
quyết tranh chấp dân sự và hành chính cũng cho thấy những đương sự được
phổ biến tỉ mỉ các quy định của pháp luật về thẩm quyền của từng bộ phận
trong toàn bộ hệ thống các cơ quan Tòa án ngay từ giai đoạn thụ lý vụ
án đều có khả năng xác định thẩm quyền nhanh và chính xác ở giai đoạn
giải quyết sơ thẩm cũng như giai đoạn phúc thẩm sau này. Vì vậy, việc
phổ biến cho đương sự hiểu biết về thẩm quyền của toàn hệ thống các cơ
quan Tòa án cần được các cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp
luật khác thực hiện ngay từ giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án. Đây là
một yêu cầu tương đối khó khăn mà từ trước tới nay ít có chuyên gia tư
vấn pháp luật nào đạt tới, nhưng so với nhu cầu tìm hiểu pháp luật hiện
nay của nhân dân thì yêu cầu này là phù hợp thực tế phát triển của xã
hội. Thành công của công tác giáo dục pháp luật trong giai đoạn này được
đánh giá bằng sự nhận thức của người khởi kiện về thẩm quyền giải quyết
các loại án của từng cơ quan Tòa án, nghĩa là khi có sự kiện tranh chấp
xảy ra, người khởi kiện phân biệt được một cách thành thạo vụ tranh
chấp nào thì thuộc Tòa án nào giải quyết và họ có tâm lý yên tâm khi đơn
khởi kiện của họ chưa được giải quyết thỏa đáng ở Tòa án cấp dưới thì
có thể được xem xét lại ở Tòa án cấp trên hay nói cách khác, họ biết
được cơ quan Tòa án nào sẽ giải quyết cho họ khi quyền lợi ích hợp pháp
của họ bị xâm phạm.
3.2. Giáo dục pháp luật trong giai đoạn thụ lý vụ án
Khi
một đơn khởi kiện có đủ điều kiện được Tòa án thụ lý và phân công Thẩm
phán trực tiếp giải quyết thì người khởi kiện, người bị kiện cùng thay
đổi địa vị pháp lý. Họ trở thành những người tham gia tố tụng tại Tòa án
có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật TTDS. Như vậy, đối
tượng tham gia quan hệ giáo dục pháp luật trong giai đoạn này cũng được
mở rộng hơn. Ngoài các chuyên gia tư vấn pháp luật, quan hệ giáo dục
pháp luật giữa người, cơ quan tiến hành tố tụng với những người, cơ quan
tham gia tố tụng trong vụ kiện bắt đầu được hình thành. Yêu cầu đặt ra
cho các cán bộ Tòa án, kiểm sát viên và các chuyên gia tư vấn pháp luật
trong giai đoạn này là:
Một là: Tư
vấn cho đương sự các quy định của pháp luật về người đại diện tham gia
tố tụng tại Tòa án và quy định của pháp luật về quyền tìm người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho mình khi cần thiết, nghĩa là phải làm cho
đương sự và những người tham gia tố tụng khác nhận thức được các chế
định về đại diện theo quy định của luật dân sự và TTDS hiện hành. Hay
nói cách khác là làm cho họ hiểu được theo quy định của pháp luật dân sự
hiện nay có hai loại đại diện đó là đại diện theo pháp luật và đại diện
theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật
quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định bao gồm: cha mẹ
đối với con chưa thành niên; người giám hộ đối với người được giám hộ;
người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự; người đứng đầu pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; tổ trưởng tổ hợp tác
đối với tổ hợp tác và những người khác theo quy định của pháp luật. Đại
diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền của người
đại diện và người được đại diện. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận.
Việc
phổ biến các chế định pháp luật về đại diện của cán bộ tòa án và các
chuyên gia tư vấn pháp luật một mặt giúp cho đương sự và những người
tham gia tố tụng khác hiểu được địa vị pháp lý và trách nhiệm nặng nề
của mình khi tham gia tố tụng với tư cách đại diện, giúp họ thực hiện
tốt quyền và nghĩa vụ đại diện, đồng thời giúp họ có trách nhiệm hơn
trong việc lựa chọn người khác thay mình tham gia tố tụng với tư cách
đại diện theo ủy quyền tại Tòa án. Mặt khác, vấn đề giáo dục pháp luật
về đại diện còn giúp các đương sự và người tham gia tố tụng khác hiểu
biết về trách nhiệm pháp lý khi đứng tên đại diện trong xử lý tình huống
hàng ngày. Xin lấy ví dụ: Người đứng tên đại diện hộ gia đình ký hợp
đồng vay vốn Ngân hàng để phục vụ mục đích sản xuất, tiêu dùng chung của
hộ, khi được phổ biến pháp luật về đại diện, họ hiểu được việc họ đứng
đại diện hộ gia đình ký hợp đồng vay tiền sẽ làm phát sinh trách nhiệm
vật chất đối với tất cả các thành viên trong hộ gia đình, từ đó họ sẽ có
sự cân nhắc và tính toán thận trọng hơn khi ký hợp đồng vay, thận trọng
hơn khi sử dụng vốn và có trách nhiệm cao hơn trong việc trả nợ cho
Ngân hàng. Tuy nhiên, các chế định của pháp luật về đại diện là những
khái niệm tương đối khó khăn đối với người tham gia tố tụng. Vì vậy khi
truyền đạt, chuyển tải kiến thức pháp luật về đại diện cho họ, các
chuyên gia tư vấn pháp luật, các kiểm sát viên và các cán bộ Tòa án cần
có nội dung, chương trình cụ thể, có tâm huyết và trích quỹ thời gian
hợp lý.
Hai là: Phổ biến cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác về quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
Quyền
và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được quy định cụ thể từ
Điều 58 đến Điều 78 Bộ luật TTDS. Nó bao gồm rất nhiều quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà người tham gia tố tụng buộc phải tìm hiểu trong quá trình tố
tụng. Đây là vấn đề được người, cơ quan tiến hành tố tụng và các chuyên
gia tư vấn pháp luật đưa vào chương trình phổ biến giáo dục pháp luật
xuyên suốt trong cả quá trình tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng tại
Tòa án bắt đầu từ giai đoạn khởi kiện đến khi kết thúc vụ án.
Ở
giai đoạn thụ lý vụ án thông qua việc ban hành thông báo thụ lý vụ án,
cán bộ Tòa án, kiểm sát viên và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác
bước đầu phổ biến cho người tham gia tố tụng một số quyền và nghĩa vụ
như quyền thay đổi, bổ sung đơn kiện của nguyên đơn, quyền bác bỏ nội
dung đơn kiện và quyền phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của
người có quyền nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Yêu cầu đặt ra cho người,
cơ quan tiến hành tố tụng và các chuyên gia tư vấn pháp luật khác trong
giai đoạn này là phải bằng nhiều biện pháp, cách thức chuyển tải cho
người tham gia tố tụng những quy định của Bộ
luật TTDS về quyền và nghĩa vụ của họ liên quan đến khởi kiện và phản
tố trong vụ kiện. Hay nói rõ hơn là làm cho người tham gia tố tụng nhận
thức được quyền trong TTDS, hành chính hay kinh doanh thương mại đều
phải đi đôi với nghĩa vụ, ví dụ đương sự có quyền thay đổi bổ sung nội
dung đơn khởi kiện nhưng đồng thời phải có nghĩa vụ chứng minh tính có
căn cứ pháp luật của các nội dung đơn kiện được bổ sung, thay đổi đó.
Tham gia tố tụng ở giai đoạn thụ lý vụ án, người tham gia tố tụng cần
nhận thức được mỗi loại đương sự có các quyền và nghĩa vụ khác nhau,
nhưng bản chất của mọi quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS tại Tòa
án đều xuất phát từ quyền định đoạt của họ. Quyền này đã trở thành
nguyên tắc chung xuyên suốt trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
Tòa án. Thực hiện quyền này đương sự có thể tự quyết định việc khởi kiện
hay phản tố làm phát sinh quan hệ tố tụng và quan hệ giáo dục pháp luật
giữa họ với người, cơ quan tiến hành tố tụng và họ cũng có thể rút yêu
cầu khởi kiện hay phản tố của mình ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình
tố tụng để làm chấm dứt các quan hệ nói trên.
Ba là: Phổ biến cho bị đơn thủ tục nộp đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập
Sau
khi thông báo thụ lý vụ án, người, cơ quan tiến hành tố tụng và các
chuyên gia tư vấn pháp luật khác lập chương trình hướng dẫn phổ biến cho
đương sự biết theo quy định của BLDS thì sau khi thụ lý đơn khởi kiện,
bị đơn có quyền phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan có quyền yêu cầu độc lập trong vụ án. Việc phản tố của bị đơn
hay yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án
chỉ được tiến hành ở Tòa án cấp sơ thẩm, phải là việc có liên quan đến
vụ kiện và phải thực hiện trước thời gian Tòa án ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử. Cùng với việc thông báo thụ lý vụ án, người, cơ quan tiến
hành tố tụng và các chuyên gia tư vấn pháp luật sử dụng kiến thức pháp
luật về tố tụng nhằm làm cho bị đơn nhận thức và phân biệt được phản tố
trong vụ kiện không đồng nghĩa với phản bác yêu cầu của nguyên đơn. Bị
đơn muốn phản bác hay bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn chỉ cần cung cấp các
chứng cứ cho Tòa án để chứng minh yêu cầu của nguyên đơn là không có
căn cứ pháp luật. Ví dụ, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn
trả cho nguyên đơn 100 triệu đồng tiền nợ theo hợp đồng mua bán hàng
hóa đã ký giữa hai bên. Trong trường hợp này, bị đơn bác bỏ yêu cầu của
nguyên đơn bằng cách xuất trình cho Tòa án hợp đồng mua bán hàng hóa,
hóa đơn giao hàng và hóa đơn thanh toán tiền chứng minh mình không còn
nợ tiền nguyên đơn và yêu cầu Tòa bác đơn kiện của nguyên đơn. Còn bị
đơn phản tố đối với nguyên đơn khi bị đơn nhận thức rằng trong cùng sự
kiện phát sinh tranh chấp dẫn đến nguyên đơn khởi kiện thì bị đơn cũng
có quyền lợi đang bị nguyên đơn xâm phạm. Tóm lại việc phản tố của bị
đơn đối với nguyên đơn là việc đòi quyền lợi vất chất có liên quan
trong vụ kiện. Mục đích phản tố của bị đơn là để bù trừ nghĩa vụ đối
với nguyên đơn hoặc dẫn đến loại trừ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn, ví dụ, nguyên đơn khởi kiện bị đơn đòi nợ đầu tư trong hợp
đồng liên kết đầu tư trồng cây công nghiệp ký giữa hai bên, bị đơn phản
tố nguyên đơn đòi trả tiền bồi thường vì nguyên đơn trong khi đầu tư
trồng cây trên đất đã tự ý cắt một phần diện tích đất thuộc quyền sử
dụng của bị đơn giao cho người khác...
Thủ
tục viết đơn phản tố của bị đơn và thủ tục viết đơn yêu cầu độc lập của
người có quyền và nghĩa vụ liên quan cũng như trách nhiệm vật chất khi
nộp đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập tương tự như thủ tục khởi kiện của
nguyên đơn, nghĩa là đơn phản tố hay đơn yêu cầu độc lập cũng cần được
làm thành văn bản có họ tên địa chỉ người viết đơn và họ tên địa chỉ
người bị phản tố và bị yêu cầu, nội dung đơn cần ngắn gọn, rõ ràng và
phải có căn cứ pháp luật, khi nộp đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập,
đương sự cũng phải nộp một khoản tạm ứng án phí bằng 25% tổng số án phí
phản tố.
Vấn
đề quan trọng nhất cần tư vấn và phổ biến cho bị đơn và người có quyền
nghĩa vụ liên quan trong giai đoạn thụ lý vụ án vụ là trong trường hợp
nào thì cần phải phản tố và cần yêu cầu độc lập. Việc phản tố hay yêu
cầu độc lập cần phải có căn cứ pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và đúng pháp luật. Tránh tình
trạng đương sự lợi dụng phản tố, yêu cầu độc lập để làm rối và kéo dài
việc giải quyết vụ án.
4.2. Một số khó khăn trong công tác phổ biến pháp luật ở giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án và giải pháp khắc phục
Thực
tiễn giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án cho thấy, điều khó khăn mà
cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật gặp phải trong hoạt
động phổ biến pháp luật cho các đương sự trong giai đoạn khởi kiện và
thụ lý vụ án chủ yếu là vấn đề thẩm quyền của các cấp Tòa án, cụ thể:
-Các
quy định về thẩm quyền của từng cấp Tòa án được quy định khái quát
trong Luật Tổ chức TAND và thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự lại
được quy định trong Bộ luật TTDS. Khi phổ biến pháp luật về thẩm quyền
cho đương sự, cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật phải phối
hợp lồng ghép hai loại luật này. Đây là một công việc hết sức khó khăn
cho cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật. Từ trước tới nay,
hai luật này gần như được coi là “của riêng” của ngành tư pháp, chưa có
chương trình chi tiết phổ biến rộng khắp trong nhân dân. Thực tế hoạt
động này cho thấy, đối với đương sự, vấn đề thẩm quyền của Tòa án là
những vấn đề hết sức xa lạ, có những đương sự có học vị cao, có nhận
thức xã hội rộng nhưng đối với vấn đề thẩm quyền của Tòa án lại là vấn
đề mới mẻ, chỉ khi có sự kiện phát sinh cần đến sự bảo vệ của pháp luật
họ mới nghiên cứu và tiếp cận các luật này.
-Việc
phổ biến pháp luật về thẩm quyền cho người tham gia tố tụng của cán bộ
Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật chưa được thực hiện theo một
chương trình thống nhất trong toàn ngành. Hầu hết các cán bộ Tòa án và
các chuyên gia tư vấn pháp luật phổ biến pháp luật về thẩm quyền của Tòa
án cho người tham gia tố tụng bằng kinh nghiệm thực tiễn đúc rút được
từ thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
-Các
quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án nói chung có quá nhiều
từ ngữ chuyên môn mà hầu hết người khởi kiện lại không có chuyên môn sâu
về pháp luật nên có nhiều trường hợp, người khởi kiện đã được các
chuyên gia tư vấn pháp luật phổ biến, hướng dẫn, tư vấn về thẩm quyền
của Tòa án mà vẫn gửi đơn kiện đến Tòa án không thuộc thẩm quyền, hoặc
có người gửi đơn đúng Tòa án có thẩm quyền nhưng cũng chỉ hiểu biết thẩm
quyền của Tòa án trong một vụ tranh chấp cụ thể mang tính chất cục bộ
mà không hiểu biết một cách tổng thể về thẩm quyền của các Tòa án, nên
cứ mỗi lần khởi kiện lại phải tìm chuyên gia pháp luật tư vấn lại về
thẩm quyền.
Để
khắc phục những vấn đề này, Viện Khoa học xét xử và Trường Cán bộ Tòa
án thuộc TAND Tối cao cần phối hợp soạn thảo chương trình giáo dục pháp
luật thống nhất trong toàn ngành Tòa án. Đối với chương trình phổ biến
quy định về thẩm quyền của Tòa án, nên sử dụng phương pháp vẽ sơ đồ hệ
thống Tòa án, ghi rõ trong sơ đồ chức năng nhiệm vụ thẩm quyền của từng
cấp Tòa án, thay đổi các từ ngữ chuyên môn bằng các từ đồng nghĩa dễ
hiểu mà nhân dân thường dùng trong đời sống, phổ biến chương trình này
thống nhất trong toàn ngành Tư pháp kèm theo nguồn kinh phí hợp lý hỗ
trợ cho cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật trong công tác
phổ biến pháp luật cho người tham gia tố tụng. Đồng thời, phát hành rộng
rãi trên phương tiện thông tin đại chúng sơ đồ TAND có kèm theo chú
giải về chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp Tòa án. Đồng thời,
luôn tạo điều kiện thuận lợi cho toàn thể nhân dân trong việc tìm hiểu
về thẩm quyền của các cơ quan Tòa án và nâng cao hiệu quả của công tác
giáo dục pháp luật trong ngành tư pháp cả nước./.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét