1. Giấy phép kinh doanh - công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý doanh nghiệp và nền kinh tế
Trong
bất kỳ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh
và trong các xã hội khác nhau thì mức độ bảo đảm việc thực hiện nhu cầu
tự do kinh doanh đó cũng khác nhau[1].
Có thể nói, tự do kinh doanh là quyền năng quan trọng nhất của con
người trong lĩnh vực kinh tế và là sự quan tâm hàng đầu của các quốc gia
khi ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến doanh nghiệp. Ở Việt
Nam, quyền tự do kinh doanh cho người dân đã chính thức được ghi nhận
tại Điều 57 Hiến pháp 1992. Theo đó, bất kỳ cá nhân, tổ chức không thuộc
các trường hợp pháp luật cấm đoán đều có quyền gia nhập thị trường bằng
cách thành lập doanh nghiệp kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Suốt hơn 20
năm đổi mới kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân
1990, Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999, sau này là Luật Doanh
nghiệp 2005 với những quy định ngày càng hoàn thiện và thông thoáng hơn,
nhằm khuyến khích người dân đầu tư thành lập doanh nghiệp trong những
ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, dù quyền tự do kinh doanh
đã được luật hóa nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp diễn ra trong bất kỳ ngành, nghề kinh doanh nào
cũng được. Ngược lại, trong một số ngành nghề kinh doanh đặc thù thì Nhà
nước vẫn phải duy trì cơ chế cấp phép kinh doanh với mục đích duy trì
và kiểm soát nền kinh tế, quản lý hoạt động của doanh nghiệp, đó là điều
hết sức bình thường mà pháp luật doanh nghiệp nhiều quốc gia trên thế
giới cũng có quy định tương đồng. Vì dù
dưới góc độ nào, Nhà nước vẫn giữ một vai trò nhất định trong đời sống
kinh tế - xã hội, vì kinh tế là nền tảng có ảnh hưởng quyết định nhất
đối với mọi thời đại, mọi chế độ xã hội[2]. Theo quan điểm của Sabine G. Persson và Camilla Steinby (2006) thì để
thâm nhập vào một thị trường có tính bảo hộ cao thì các công ty phải có
và duy trì được giấy phép kinh doanh (GPKD) do Nhà nước cấp. Nghĩa là
các công ty phải chứng minh sự tồn tại và hoạt động của họ phải đáp ứng
đầy đủ các điều kiện mà Nhà nước đặt ra[3].
Trên thế giới, người ta phân biệt rõ hai loại cơ chế kiểm soát thủ tục hình thành của doanh nghiệp:[4] (i) cơ chế đăng ký (Registration hoặc Notification), theo đó, Nhà nước yêu cầu nhà đầu tư (NĐT) phải cung cấp các thông tin cụ thể của họ để được phép hoạt động kinh doanh; (ii)
cơ chế cấp phép (License) nhằm kiểm tra sự đáp ứng của NĐT đối với các
điều kiện thực tế mà có thể có độ khó và tính cụ thể nhiều hơn hoặc ít
hơn trong các quy định pháp luật đang tác động đến thành lập doanh nghiệp[5]. Nói cách khác, doanh nghiệp
hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường thì bị chi phối bởi hai
loại giấy phép: giấy phép thành lập (Entry Licensing) và giấy phép hoạt
động (Operation Licensing)[6]. Đối với giấy phép thành lập thì một doanh nghiệp
không thể hoạt động hợp pháp trong bất kỳ lĩnh vực nào trừ phi được cấp
phép thành lập. Còn giấy phép hoạt động thì đòi hỏi sự cấp phép của Nhà
nước cho các hoạt động kinh doanh đặc thù nhưng không ảnh hưởng đến sự
tồn tại của doanh nghiệp[7], đôi khi người ta còn gọi giấy phép này là giấy phép tiêu cực (Negative Licensing)[8].
Ở
Việt Nam, hiện chưa có một định nghĩa chính thức nào về giấy phép kinh
doanh (GPKD) trong luật. Thực tế, doanh nghiệp gọi GPKD là giấy phép
"con”. Trần Hữu Huỳnh cho rằng GPKD là các loại giấy tờ, chấp thuận bằng văn bản hoặc dưới hình thức khác mà doanh nghiệp
phải xin cơ quan quản lý nhà nước trước khi có thể tiến hành hoạt động
kinh doanh, ngoài giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép
thành lập ban đầu[9]. Bùi Huy Cường lại có quan niệm khác khi cho rằng, GPKD là chứng thư pháp lý do Nhà nước cấp cho một số chủ thể nhất định khi có đủ điều kiện mà Nhà nước đặt ra[10].
Về vai trò của GPKD, theo Anthony Ogus (2005) thì cơ chế cấp phép có thể được sử dụng để giúp tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước[11]. Thậm chí, ở các nước Châu Phi nói tiếng Anh thì họ sử dụng các biện pháp kiểm soát "đầu vào” của doanh nghiệp như là công cụ cơ bản trong công tác thuế[12], điều này thường xảy ra là do mục đích của chính quyền địa phương[13]. Erik Lenntorp (2009) cho rằng GPKD là công cụ pháp lý được sử dụng rộng rãi để nhằm cân bằng giữa chi phí và lợi ích cho hoạt động của doanh nghiệp[14]. Còn Pinson (2006) khẳng định GPKD được xem như là một phương tiện để quản lý các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành nghề nhất định[15].
Ở Việt Nam, trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp có quyền chủ động đăng ký và hoạt động kinh doanh mà không cần phải xin phép, xin chấp thuận, hỏi ý kiến cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) nếu ngành, nghề kinh doanh đó: (i) không thuộc ngành, nghề cấm kinh doanh;[16] (ii) không
thuộc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật
chuyên ngành. Đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện luật định. Quy định này là cần thiết nhằm giúp Nhà nước Việt Nam kiểm soát tốt hơn nền kinh tế, đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp trong khuôn khổ luật định, không làm rối loạn nền kinh tế. Ở Trung Quốc, thậm chí sau nhiều lần cải cách thì hiện tại trong hơn 146 lĩnh vực của nền kinh tế thì họ vẫn đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhận được sự chấp thuận của Nhà nước rồi mới được phép hoạt động[17].
2. Thực trạng giấy phép kinh doanh ở Việt Nam: những kết quả đạt trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính
Trước năm 2000, ở Việt Nam, GPKD tồn tại rất nhiều trong nền kinh tế[18]. Theo ước tính có khoảng 500 GPKD tất cả[19]. Chính GPKD tồn tại quá nhiều, trên mức cần thiết cộng với thủ tục thành lập doanh nghiệp
nhiêu khê, phức tạp trong giai đoạn này đã làm nản lòng không ít nhà
đầu tư có dự định ra thương trường và chúng đã tạo lực cản cho cải cách
thủ tục hành chính (TTHC). Ngày 03/02/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg và Chính phủ đã ban hành Nghị định
30/2000/NĐ-CP ngày 11/08/2000 để bãi bỏ GPKD không phù hợp và chuyển một
số GPKD thành điều kiện kinh doanh (ĐKKD). Thi hành các văn bản này, đã
có khoảng 145 GPKD bị bãi bỏ. Trong năm 2007, 289 GPKD đã được rà soát
và hàng chục giấy phép đã được kiến nghị bãi bỏ. Đến thời điểm năm 2009,
Chính phủ đã bãi bỏ được 316 giấy phép và chuyển 44 giấy phép khác
thành ĐKKD[20]. Theo thống kê, chỉ riêng Quyết định 19/2000/QĐ-TTg bãi bỏ 84 GPKD đã tiết kiệm cho mỗi doanh nghiệp trung bình hàng năm khoảng 4,5 triệu đồng và 21 ngày đối với người điều hành doanh nghiệp[21]. Việc giảm bớt số lượng GPKD là tín hiệu tích cực cho nền kinh tế, đem lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội hơn trong hoạt động kinh doanh, vì một khi rào cản GPKD giảm bớt thì năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mới thực sự được phát huy. Chẳng hạn, thi hành Quyết định
19/2000/QĐ-TTg, quy định Sở Giao thông vận tải cấp GPKD vận tải hàng hoá
và hành khách bằng đường bộ được bãi bỏ, nên đã tạo điều kiện cho hàng
vạn doanh nghiệp
vận tải chất lượng cao ra đời, đem lại nhiều đột phá trong đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần loại bỏ được tình trạng xe dù,
bến cóc từng tồn tại dai dẳng, gây nhiều bức xúc cho xã hội
Hiện tại, thẩm quyền đặt ra GPKD được xác định chặt chẽ về mặt pháp lý theo đó, ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện và ĐKKD áp dụng theo các quy định của các
luật, pháp lệnh, nghị định chuyên ngành hoặc quyết định có liên quan của
Thủ tướng Chính phủ[22]. Các quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và ĐKKD tại các văn bản QPPL khác không có hiệu lực thi hành[23].
Điều này có nghĩa là, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và
Thủ tướng Chính phủ quy định việc ĐKKD, còn các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp không có thẩm quyền đặt ra
ĐKKD và GPKD đối với doanh nghiệp. Cùng với đó, để hạn chế tình trạng GPKD bùng phát thì trách nhiệm của Chính phủ là phải định
kỳ rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần các ĐKKD; bãi bỏ hoặc
kiến nghị bãi bỏ các điều kiện không còn phù hợp; sửa đổi hoặc kiến nghị
sửa đổi các điều kiện bất hợp lý; ban hành hoặc kiến nghị ban hành ĐKKD
mới theo yêu cầu QLNN[24]. Như vậy, kể từ thời điểm áp dụng Luật Doanh nghiệp 2005
về sau thì GPKD khó có điều kiện phát triển trong nền kinh tế, ít nhất
là về mặt pháp lý, do chính sách của Nhà nước ta nỗ lực xây dựng một môi
trường kinh doanh thông thoáng, có tính cạnh tranh cao, loại bỏ các rào
cản pháp lý đối với doanh nghiệp.
Kiểm soát tốt ngành, nghề kinh doanh có điều kiện cũng là nội dung quan trọng hàng đầu của chương trình cải cách TTHC ở nước ta "TTHC
sẽ phải tiếp tục được cải cách mạnh. Tất cả những giấy phép con, ĐKKD
nào ban hành không hợp lý đều phải được xóa bỏ. Nếu năm nay chưa làm hết
thì năm sau tiếp tục làm"[25].
Khi ban hành Nghị quyết số 25/2010/NQ-CP ngày 02/06/2010 về đơn giản
hoá 258 TTHC thuộc chức năng quản lý của các Bộ, ngành, Chính phủ đã
giao chỉ tiêu cụ thể cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ rà soát, bãi bỏ các
TTHC gây trở ngại cho hoạt động của doanh nghiệp,
trong đó việc giảm bớt các loại GPKD là một trong những ưu tiên được
Chính phủ nhắc đến, nhằm giảm bớt số lượng GPKD hoặc nếu có duy trì thì
phải cải tiến theo hướng tiện lợi hơn cho doanh nghiệp.
Chẳng hạn việc gộp hai thủ tục cấp mới Giấy phép hành nghề vận chuyển
chất thải nguy hại và thủ tục cấp mới Giấy phép hành nghề xử lý, tiêu
huỷ chất thải nguy hại lại thành một, đồng thời nâng thời hạn Giấy chứng
nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu từ 12 tháng lên thành 36 tháng đã
làm giảm tốn kém cho doanh nghiệp khi phải làm thủ tục cấp lại giấy phép này[26].
3. Những tồn tại và hạn chế của pháp luật về giấy phép kinh doanh
Khi
luận bàn về mặt trái của GPKD, nhiều nhà kinh doanh nhấn mạnh rằng, đây
là lực cản chủ yếu đến hoạt động đầu tư và sự mạo hiểm mới của họ[27].
Ở các nước Đông - Nam Âu (SEE) trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn
cầu, họ cũng xém xét lại các thủ tục và điều kiện cấp phép kinh doanh và
công tác cấp phép dưới chuẩn quốc gia để đảm bảo tất cả đều minh bạch[28].
Ở Việt Nam, dù trải qua nhiều lần cải cách TTHC, với những kết quả đạt
được đáng khích lệ nhưng vấn đề GPKD trong pháp luật doanh nghiệp vẫn
cần phải được xem xét lại dưới các góc độ sau :
Thứ
nhất, số lượng ngành, nghề kinh doanh phải có GPKD vẫn còn nhiều, gây
trở ngại lớn cho doanh nghiệp khi thực hiện quyền tự do kinh doanh của
mình.
Theo
thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tính đến đến
thời điểm 03/2010, cả nước có 315 GPKD các loại tồn tại trong nền kinh
tế[29]. Đành rằng, GPKD cũng rất cần thiết, thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước trong một số ngành, nghề kinh doanh đặc thù. GPKD cũng là phương tiện để Nhà nước đặt ra các điều kiện cho các công ty và tác động đến chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế[30]. Duy
có điều, số lượng GPKD đó tồn tại bao nhiêu là điều các nước thường cân
nhắc kỹ trước khi đặt ra chúng, nếu không khéo sẽ tạo "chướng ngại vật”
trên con đường kinh doanh cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Ở Singapore, quốc gia này cũng duy trì cơ chế cấp GPKD nhập khẩu xăng dầu cho doanh nghiệp, họ quản lý ngành nghề này chặt chẽ, không cho phát triển tràn lan, đó cũng là điểm tương đồng với Việt Nam chúng ta. Ngay
cả Trung Quốc - nơi có số lượng doanh nghiệp lớn hơn hẳn Việt Nam thì
họ cũng chỉ có khoảng 180 GPKD các loại tồn tại trong nền kinh tế. Mặt
khác, Chính phủ Trung Quốc buộc cơ quan đăng ký kinh doanh phải công bố
tất cả các loại giấy phép và chỉ khi công bố thì chúng mới có hiệu lực[31]. Đối với Việt Nam, số lượng 315 GPKD là quá sức chịu đựng của doanh nghiệp. Cũng theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, một doanh nghiệp vẫn cần đến bình quân 4,14 GPKD các loại, và 14,56% doanh nghiệp đánh giá rằng, rất khó khăn để có đủ các loại giấy phép cần thiết này[32]. Đặc
biệt những năm gần đây, số lượng ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
nói chung và GPKD nói riêng ở Việt Nam đã không ngừng gia tăng theo
nhiều cách thức khác nhau, đi ngược lại chủ trương kiềm chế chúng mà
Quốc hội đã đề ra tại Luật Doanh nghiệp 2005[33].
Nếu như vào thời điểm năm 1999, cả nước chỉ có 29 loại hàng hoá, dịch
vụ bị đặt vào diện cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có
điều kiện thì đến thời điểm năm 2010, con số đó đã lên đến 157, tức là
gấp khoảng 5 lần so với 10 năm trước![34] Nhìn vào số liệu đó, chúng ta có thể hình dung những khó khăn mà doanh nghiệp
Việt Nam đang phải đối mặt với TTHC phát sinh từ GPKD. Đa số các điều
kiện kinh doanh lại phát sinh từ các văn bản dưới luật do Bộ, cơ quan
ngang Bộ hoặc do UBND, HĐND ban hành cũng có, trong khi, như đã nói, các
cơ quan trên không có quyền đặt ra ĐKKD[35]. GPKD thường có chung một điểm "sinh ra thì dễ nhưng khai tử thì cực khó”.
Năm 2000, để loại bỏ hơn 100 GPKD các loại, Nhà nước ta phải sử dụng
đến các văn bản pháp luật do Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ ban hành.
Năm 2010, Chính phủ phải ban hành Nghị quyết 25/2010/NQ-CP để chỉ đạo
các Bộ, cơ quan ngang Bộ cắt giảm số lượng TTHC trong đó có GPKD thuộc
phạm vi quản lý của mình. Trong khi phần
lớn các nước công nghiệp phát triển họ áp dụng cơ chế cấp phép trong 3
lĩnh vực cơ bản (là quy hoạch sử dụng đất, quản lý chất thải môi trường
và vấn đề an toàn trong xây dựng)[36] thì
việc duy trì một số lượng lớn GPKD mang tính đại trà trong nền kinh tế
đã khiến Việt Nam đi ngược lại với xu thế chung của thế giới, điều này
sẽ làm bào mòn lòng tin của NĐT và vô hiệu hoá chương trình cải cách
TTHC mà Nhà nước đang tiến hành.
Điều
đáng lo là trong giai đoạn 2009 - 2010, các GPKD xuất hiện trở lại
trong bối cảnh Đề án 30 của Chính phủ về cải cách TTHC đang được triển
khai một cách quyết liệt chưa từng có. Một
số lượng lớn GPKD ra đời mang tính cục bộ, đã làm cho nạn tham nhũng,
sách nhiễu doanh nghiệp có điều kiện phát triển và cơ chế xin - cho sẽ
có đất sống hơn bao giờ hết[37]. Điều đó tất yếu làm tăng gánh nặng TTHC cho doanh nghiệp mà
thường thì các thủ tục này có "độ khó” cao, khiến cho con đường kinh
doanh cho doanh nghiệp ngày càng chông gai hơn. Theo kết quả rà soát của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiến hành trên 37 loại GPKD
của một số ngành cho thấy, 100% số giấy phép được đánh giá là có điều
kiện cấp phép không hợp lý; 89% số giấy phép được rà soát có vấn đề về
thủ tục cấp phép[38].
Có thể nói, GPKD
là đỉnh cao của sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh
doanh, là biểu hiện của sự hạn chế quyền tự do kinh doanh[39]. Nó là một trong những "kẻ can thiệp” nhiều nhất vào các thủ tục pháp lý[40]. Một cơ quan nhà nước nắm quyền cấp GPKD có thể quyết định con đường kinh doanh cho doanh nghiệp
thông qua việc họ có quyền cấp hay không cấp giấy phép, có quyền gia
hạn hay không gia hạn GPKD. Chẳng hạn, ngành công thương hiện sở hữu
nhiều GPKD quan trọng như GPKD nhập khẩu xăng dầu, giấy phép bán lẻ xăng
dầu, giấy phép sản xuất rượu, giấy phép xuất khẩu gạo, giấy phép cho
thương nhân nước ngoài bán lẻ hàng hoá tại Việt Nam, giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp... Có gì đảm bảo rằng tất
cả các loại GPKD hiện thuộc thẩm quyền của ngành công thương đều hữu ích
cho công tác QLNN và không gây tiêu cực đến lợi ích của doanh nghiệp? Bài học của vụ "chạy quota” xảy ra tại Bộ Công thương vào năm 2005 vẫn còn nóng hổi. Vì vậy, một trong những thách thức lớn của công cuộc cải cách TTHC là Nhà nước có "đại phẫu” vấn đề GPKD dư thừa được không? Tại sao
sự phát triển bất thường của GPKD được cho là "căn bệnh trầm kha” của
nền kinh tế, dứt khoát phải "trị” nhưng khi "kê thuốc trị” bằng các quy
định pháp lý mạnh mẽ suốt nhiều năm qua thì lại không giảm, không dứt,
trái lại còn gia tăng? Đó là những câu hỏi mà các doanh nghiệp đang rất cần câu trả lời từ phía nhà nước, từ chính cơ quan đặt ra GPKD, đang sở hữu GPKD.
Thứ
hai, các điều kiện để được cấp GPKD ngày càng khắt khe hơn, khiến việc
gia nhập thị trường của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
Bên cạnh nỗi lo về số lượng GPKD nhiều, buộc doanh nghiệp phải "cõng” thêm TTHC đã đành, doanh nghiệp
còn có nỗi lo khác lớn không kém, đó là các quy định về ĐKKD ngày càng
ngặt nghèo hơn khiến cho quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh của doanh nghiệp bị chặn lại bởi các "rào cản” pháp lý, hệ quả là các điều kiện hình thành của doanh nghiệp càng khắt khe và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra ngày càng cao[41].
Đơn
cử, theo Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công
cộng ban hành kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009, thì
muốn có được GPKD vũ trường hay karaoke, doanh nghiệp phải đáp ứng nhiều điều kiện rất khó như kinh doanh karaoke trong khu dân cư thì doanh nghiệp phải có sự đồng ý
bằng văn bản của các hộ liền kề hoặc là địa điểm kinh doanh phải cách
trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, di tích lịch sử - văn
hoá, cơ quan hành chính ít nhất là 200m[42]. Thử hỏi những điều kiện trên có được bao doanh nghiệp đáp ứng, nhất là ở đô thị lớn như các thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ... Hơn nữa, việc yêu cầu các hộ liền kề phải đồng y bằng văn bản có thêm xác nhận của UBND cấp xã chỉ khiến doanh nghiệp lâm vào bế tắc[43]. Ngoài ra, yêu cầu mỗi phòng karaoke chỉ được bố trí 01 nhân viên phục vụ từ 18 tuổi trở lên[44] là hết sức khắt khe, can thiệp trực tiếp vào hoạt động cụ thể của doanh nghiệp, buộc nhiều doanh nghiệp phải vi phạm để tồn tại!
Chỉ
vì sự khắt khe đó mà tại thành phố Hồ Chí Minh có tổng cộng 544 cơ sở
kinh doanh karaoke nhưng đối chiếu với các điều kiện đặt ra thì có đến
124 cơ sở phải ngừng hoạt động hoặc phải di dời![45]
Do điều kiện cấp phép kinh doanh karaoke quá khó trong khi nhu cầu của
xã hội lớn, nên đã xuất hiện tình trạng nhiều chủ thể kinh doanh lặng lẽ
rút lui để hình thành cơ sở kinh doanh "chui” tồn tại dưới các hình
thức khác mà vẫn được coi là hợp pháp như karaoke gia đình, câu lạc bộ
hát với nhau, phòng thu âm giọng hát... Khi đó, họ không cần đến GPKD
karaoke nữa mà doanh thu vẫn không bị suy giảm![46] Điều đó cho thấy, ĐKKD trong lĩnh vực này đang tiếp tục làm khổ doanh nghiệp, dù Chính phủ đã "cách tân” bằng Nghị định 103/2009/NĐ-CP.
Thứ ba, GPKD nhiều nhưng hiệu quả QLNN từ các loại giấy phép này chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra
Ở
Việt Nam, hiệu quả của công tác cấp GPKD cũng cần được xét lại trong
nhiều trường hợp. Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền giải thích là do
xuất phát từ yêu cầu QLNN để đặt ra ĐKKD, nhưng hiệu quả về mặt QLNN đến
nay vẫn chưa rõ ràng. Đơn cử như trong lĩnh vực chứng khoán, việc cấp
giấy phép cho niêm yết cổ phiếu lên Sàn giao dịch của Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước cũng còn có những bất cập trong công tác thẩm định. Hàng loạt
công ty cổ phần đã được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép cho
niêm yết cổ phiếu tại HNX và HOSE sau khi đã tiến hành thẩm định hồ sơ
trong thời hạn từ 3 - 6 tháng, nhưng có quá nhiều công ty trong số đó cổ
phiếu phát hành trên sàn chỉ phục vụ cho mục đích lãnh đạo công ty bán
cổ phiếu thu tiền, làm giá cổ phiếu, tính thanh khoản của cổ phiếu rất
kém[47]...
Nhà đầu tư vẫn bị lừa, bị lỗ vì những nguồn cung kém chất lượng mà Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước không thể kiểm soát được, vì vậy việc thẩm định
hồ sơ để cấp phép từ 3 - 6 tháng là hoàn toàn vô nghĩa. Thực tế này cần
phải cải tổ chính sách phát hành cổ phiếu ra công chúng và đánh giá lại
hiệu quả của các loại Giấy phép mà Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đang cấp[48]
để có những thay đổi kịp thời, nhằm đưa thị trường chứng khoán Việt Nam
phát triển lành mạnh, thực sự là phong vũ biểu của nền kinh tế, làm cho
TTHC trong lĩnh vực này có ý nghĩa tích cực về mặt QLNN.
Thứ tư, GPKD phần lớn có thời hạn, tạo thêm thủ tục gia hạn giấy phép, gây tốn kém tiền của và công sức cho doanh nghiệp
Theo
quy định pháp luật hiện hành, GPKD được ghi thời hạn. Quy định này
khiến doanh nghiệp phải đối mặt với thủ tục gia hạn giấy phép, vì nếu
không được gia hạn giấy phép, doanh nghiệp
phải chấm dứt hoạt động trong ngành nghề đó. Thời hạn của GPKD ở Việt
Nam rất đa dạng, có loại giấy phép có thời hạn từ vài tháng đến vài năm,
nhưng cũng có loại không ghi thời hạn... Chẳng hạn, theo quy định tại
Điều 35 Nghị định số 39/2009/NĐ-CP do Chính phủ ban hành vào ngày
23/04/2009 về vật liệu nổ công nghiệp thì GPKD vật liệu nổ công nghiệp,
Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phục vụ khai thác khoáng sản
chỉ có thời hạn tối đa là 5 năm, còn Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công
nghiệp phục vụ thi công công trình, nghiên cứu, thử nghiệm, hoạt động
dầu khí và Giấy phép dịch vụ nổ mìn thì Nhà nước cấp theo thời hạn công
trình nhưng không quá 02 năm; Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ
công nghiệp, tiền chất thuốc nổ thì theo thời hạn đề nghị trong hồ sơ
nhưng không quá 03 tháng; Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp
thì cũng cấp theo thời hạn đề nghị trong hồ sơ nhưng không quá 06 tháng.
Trường hợp các loại giấy phép này mà hết hạn thì 01 tháng trước khi hết
hạn, doanh nghiệp
buộc phải làm thủ tục xin cấp lại giấy phép như lần xin cấp mới ban đầu
tại Sở Công thương. Hoặc Nghị định số 84/2009/NĐ-CP do Chính phủ ban
hành ngày 15/10/2009 quy định: GPKD xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu do Bộ
Công thương cấp và Giấy chứng nhận đủ ĐKKD xăng dầu do Sở Công thương
cấp chỉ có hiệu lực 5 năm, kể từ ngày cấp. Thiết nghĩ, kinh doanh nhập
khẩu xăng dầu là ngành nghề Nhà nước hạn chế kinh doanh, hiện cả nước
chỉ có 11 đầu mối doanh nghiệp được quyền nhập khẩu xăng dầu[49]. Để có được giấy phép này, doanh nghiệp
phải có sự đầu tư cơ sở vật chất rất lớn, phải trải qua các TTHC với
các ĐKKD có "độ khó” rất cao mới được Bộ Công thương cấp phép, nhưng
chúng chỉ có thời hạn 5 năm là không hợp lý, dẫn đến việc "trói” doanh nghiệp với thủ tục gia hạn giấy phép và dễ làm phát sinh tiêu cực trong công tác cấp phép./.
[1] Xem TS. Bùi Ngọc Cường, “Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành của Việt Nam” Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 4/2004, tr 7.
[2] Xem GS.TSKH Từ Điển, “Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 07/2009, tr 7.
[3]Xem Sabine G. Persson and Camilla Steinby, “Networks in a protected business: Licenses as restraints and facilitators”, Journal of industrial marketing management”, Volume 35, Issue 07/10/2006, Pages 870-880.
[4] Xem Bureau of Industrial Economics (Australia), Business Licence: International Bechmarking (Report 96/9, 1996, Pages: 10-14); N.Devas and R.Kelly “Regulation or Revenue? Implementing local government business licence reform in Kenya” 2001, 21 Public Administration and Development, Page 381, 383.
[5] Xem Anthony Ogus and Qing Zhang “Licensing regimes East and West”, International Review of Law and Economics, Volume 25 (2005), Page 126.
[6] Xem The distinction is made in J.Morisset and O.L.Neso, “Administrative barriers to foreigners in developing countries” World Bank Policy Research, Working Paper No 2848 (2002).
[7] Xem Anthony Ogus and Qing Zhang: “Licensing regimes East and West”, International Review of Law and Economics, Volume 25 (2005), Page 126.
[8] Xem C.Scott and J.Blake, Cranston’s Consumer and the Law, (The Third edition, Butterworths, 2000), Page 460
[9] Xem Trần Hữu Huỳnh,“Cải cách hệ thống GPKD ở Việt Nam trong giai đoạn hậu WTO”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, Số 2 (39) 2007.
[10] Xem TS. Bùi Ngọc Cường,“Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam”, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 04/2004, tr 106.
[11] Xem Anthony Ogus and Qing Zhang “Licensing regimes East and West”, International Review of Law and Economics, Volume 25 (2005), Page 138.
[12] Xem e.g ., R.Kelly, et all “Improving Revenue Mobilization in Malawi: Study in Business Licensing and Property rates”, Report prepared for Government and UNCDF (2001).
[13] Xem N.Devas and R.Kelly “Regulation or Revenue ? Implementing Local Government Business License Reform in Kenya”, Journal of Public Administration and Development, Volume 21, 2001, Page 381, 383.
[14] Xem Erik Lenntorp, “On the Joint Use of Licensing and Liability” International Review of Law and Economics”, 2009, Volume 29, Page 244.
[15] Xem Pinson, Linda Jinnett, Jerry, “Step to small Business start-up: Everything you need to know to turn your idea into a successful Business”, Publisher: Dearborn Trade, A.Kaplan Professional Company, 2006, Page 89.
[16] Danh mục ngành nghề cấm kinh doanh hiện được xác định tại
Nghị định 102/2010/NĐ-CP, Nghị định 108/2006/NĐ-CP, Nghị định
59/2006/NĐ-CP cũng như trong các quy định pháp luật chuyên ngành khác có
liên quan. Ngoại trừ ngành nghề cấm kinh doanh, doanh nghiệp được
kinh doanh các ngành nghề còn lại, kể cả các ngành nghề đó không nằm
trong danh mục ngành, nghề có mã số được liệt kê tại Quyết định số
10/QĐ-TTg ngày 23/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số
337/QĐ-BKHĐT ngày 10/04/2007 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
[17] Xem The Enterprise Registration of Bureau of National Industrial and Commerce of Administration of P.R.C: “Collection of Laws and Regulations Concerning Prior Approvals for Enterprises’ Registry”, (2000), Page 712.
[18] Trước năm 2000, trung bình mỗi doanh nghiệp cần đến 4-5 giấy phép, có khi trên 10 giấy! Chưa kể thủ tục về con dấu, đăng ký thuế, hoá đơn,…rất phức tạp. Trích
từ “Một số điểm mới cơ bản của Luật Doanh nghiệp” do TS. Hoàng Thế Liên
(Chủ biên), Thông tin Khoa học Pháp lý của Viện Nghiên cứu khoa học
Pháp lý, Bộ Tư pháp (2000) tr 31.
[19]
Số liệu trên do Viện Nghiên cứu Quản lý Trung ương và Phòng Thương mại -
Công nghiệp Việt Nam phối hợp rà soát, được TS. Vũ Thị Hoài Phương
trích dẫn trong bài viết "Hoàn thiện pháp luật về TTHC trong đầu tư”, Tạp chí Quản lý Kinh tế số ra tháng 03/2010.
[20]Xem "Cải cách TTHC từ khi Việt Nam gia nhập WTO” của TS. Hà Quang Ngọc, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 3 (171) năm 2009.
[21] Học viện Hành chính Quốc gia: "Một số giải pháp hoàn thiện QLNN đối với doanh nghiệp”, Trang Thị Tuyết (Chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, 06/2006, tr 153 và 154.
[22] Xem Khoản 5 Điều 7 của Luật Doanh nghiệp 2005 và Khoản 1 Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010.
[25] Phát biểu của Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng tại Hội nghị "Phát triển doanh nghiệp dân doanh” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 07/09/2007.
[28] Xem OECD (2010): “Investment Reform Index 2010: Key Findings and Recommendation” in Monitoring Policies and Institutions for Direct Investment in South-East Europe, Page 1.
[29] Xem“Hoàn thiện pháp luật về TTHC trong đầu tư” của TS. Vũ Thị Hoài Phương, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số ra tháng 03/2010.
[30] Xem Sabine G. Persson and Camilla Steinby “Networks in a protected business: Licenses as restraints and facilitators”, Journal of industrial marketing management”, Volume 35, Issue 07/10/2006, Page 872.
[31] Xem PGS.TS Phạm Duy Nghĩa “Giấc mơ về nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật Doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7 (219) năm 2006, Trang 52.
[33]
TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế
trung ương trong phát biểu với Phóng viên Báo Tiền Phong tại Hội nghị sơ
kết 7 năm thực hiện Nghị quyết trung ương 5 về kinh tế tư nhân tổ chức
vào tháng 04/2010 tại Hà Nội đã khẳng định: “Luật Doanh nghiệp khi ra đời đã xóa bỏ được 180 giấy phép con, chuyển đổi 286 giấy phép khác. Nhưng đến năm 2010, giấy phép đã mọc thêm hơn 400 cái. Những giấy phép này được quy định trong luật, nghị định” (http://www.baobacgiang.com.vn/PrintPreview/55117/).
[34] Tài liệu Hội thảo sửa đổi Nghị định 59/2006/NĐ-CP do Bộ Công thương tổ chức tại Hà Nội ngày 10/08/2010.
[35]
Theo số liệu tổng hợp bước đầu của Chính phủ, từ tháng 11/2003 đến
05/2005, các bộ ngành đã tổ chức kiểm tra theo thẩm quyền được 3632 văn
bản, bước đầu đã phát hiện trên 400 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
Trong đó văn bản có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên, sai thẩm quyền cần huỷ bỏ, bãi bỏ chiếm 4-5%, không đảm bảo về căn
cứ pháp lý trên 20% (Xem“Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới” TS. Nguyễn Văn Hậu và TS. Nguyễn Thị Như Hà (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 10/2009, tr 88).
[36] Xem Bureau of Industrial Economics (Australia), Business Licence: International Bechmarking (Report 96/9, 1996, Pages: 10-14); N.Devas and R.Kelly: “Regulation or Revenue? Implementing local government business licence reform in Kenya” 2001, 21 Public Administration and Development, Page 21 – 24.
[37]
Theo báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI), tổng hợp từ 16.200 doanh nghiệp trên 42 tỉnh,
thành, chi phí tiêu cực trong cấp phép kinh doanh là rất lớn. Để thực
hiện đầy đủ thủ tục đăng ký kinh doanh phải mất 45 ngày, ở những tỉnh
nhanh nhất cũng phải mất 30 ngày (33% số doanh nghiệp); 20% số doanh
nghiệp phải mất ba tháng mới xong thủ tục đăng ký kinh doanh để đi vào
hoạt động (Nguồn: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”, TS. Nguyễn Văn Hậu và TS. Nguyễn Thị Như Hà (đồng chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, tháng 10/2009, tr 123).
[38] Phát biểu của TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đăng tải tại www.vneconomy, 25/09/2007.
[39] Xem TS. Bùi Ngọc Cường, “Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam”, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 04/2004, tr 106.
[40] Xem: Anthony Ogus: “Evaluating Alternative Regulatory Regimes: The contribution of Law and Economics”, Geoforum, Volume 30, 1999, Page 224.
[41] Xem: Anthony Ogus and Qing Zhang: “Licensing regimes East and West”, International Review of Law and Economics, Volume 25 (2005), Page 139.
[42]
Điều 24 và Điều 30 của Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ
văn hoá công cộng ban hành kèm theo Nghị định 103/2009/NĐ-CP ngày
06/11/2009.
[44]
Khoản 6 Điều 32 Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh văn hoá công
cộng ban hành kèm theo Nghị định 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009.
[46] Đến 09/2010,
Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM đã cấp khoảng 1.300 giấy chứng
nhận đăng ký “hoạt động ghi âm” hoặc “dịch vụ phòng thu âm”. Đa
số điểm “hoạt động ghi âm” hoặc “dịch vụ phòng thu âm” đều
chuyển sang kinh doanh dưới tên gọi thu âm trên nền nhạc karaoke, tập trung nhiều ở các quận: 12, Tân Phú, Tân Bình, Bình Tân, Gò Vấp, Bình Thạnh,… (Nguồn: Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày
07/09/2010, có thể truy cập vào địa chỉ
http://phapluattp.vn/20100906112249474p0c1021/nhieu-loi-chao-moi-bangiay-phep-karaoke.htm).
[47] Trường
hợp của CTCP Nông lâm sản thực phẩm Yên Bái (mã chứng khoán là CAP)
được UBCKNN cấp phép lên sàn HNX và chính thức giao dịch vào ngày
09/01/2008, vốn điều lệ chỉ vỏn vẹn khoảng 10 tỷ đồng. Tính đến ngày
28/01/2011, khối lượng giao dịch khớp lệnh trung bình 10 phiên gần nhất
chỉ có 430 cổ phiếu/phiên, thanh khoản quá kém. Trong các phiên giao
dịch vào ngày 17/01/2011, 19/01/2011 và 20/01/2011 cổ phiếu CAP hoàn
toàn không có giao dịch dù mang tiếng là công ty đại chúng (http://cafef.vn/hastc/CAP-cong-ty-co-phan-lam-nong-san-thuc-pham-yen-bai-yfaco.chn)
[48]
Trong năm 2010, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã “ách lại” 20 hồ sơ của
các công ty cổ phần xin niêm yết cổ phiếu lên HNX và HOSE mà lẽ ra các
doanh nghiệp này phải được lên Sàn giao dịch vì lý do không đáng có đó
là vướng mắc về TTHC giữa Uỷ ban Chứng khoán nhà nước và Sở Kế hoạch
& Đầu tư xoay quanh quy định tại Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày
04/01/2010 của Chính phủ. Điều này đã gây bất bình cho các doanh nghiệp
đủ điều kiện niêm yết trên HNX và HOSE, khiến nhiều người đặt nghi vấn
về năng lực của cơ quan QLNN này (Anh Phương “Uỷ ban Chứng khoán làm khó cho doanh nghiệp?” http://www.phapluatvn.vn/ ngày 25/01/2011).
[49] Trong 11 doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng dầu thì Petrolimex chiếm giữ đến 60% thị phần tại Việt Nam (Số liệu do Bộ Công thương công bố).
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét