Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 đã
có những tác động tích cực đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước trong thời gian qua, nhưng nó cũng có không ít hạn chế, bất cập.
Liên quan đến phần hợp đồng dân sự, dường như các nhà làm luật mới chỉ
quan tâm đến giao kết và thực hiện hợp đồng, chứ chưa dành sự chú ý đến
quan hệ của các bên trong khi thực hiện hợp đồng và sau khi hợp đồng
chấm dứt. Nhiều vấn đề phát sinh trong thực tiễn như:
điều chỉnh nội dung hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi, một số nghĩa vụ có
thể tiếp tục tồn tại khi hợp đồng chấm dứt, hay vấn đề chuyển giao hợp
đồng (CGHĐ)..., vẫn chưa được Bộ luật làm rõ. Bài viết tập trung làm rõ sự cần thiết phải bổ sung quy định về CGHĐ
vào BLDS, vì giao dịch pháp lý ba bên này thường xuyên được thực hiện,
trong khi pháp luật thực định của Việt Nam vẫn chưa có quy định rõ ràng.
1. Lợi ích của chuyển giao hợp đồng
Do môi trường kinh doanh luôn có những biến động nên một hợp đồng - mặc
dù phù hợp với nhu cầu và mục đích của các bên vào thời điểm giao kết,
nhưng vẫn có thể trở thành gánh nặng với một trong các bên do không còn
mong muốn hoặc phương tiện để tiếp tục thực hiện nó. Khi một bên thấy
việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không còn mang lại lợi ích mong muốn, anh ta sẽ tìm cách “tự giải phóng khỏi quan hệ hợp đồng”[1] bằng cách chấm dứt hợp đồng hoặc CGHĐ. Vì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng dẫn tới hậu quả là bên đơn
phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại, nên cách này sẽ tốn kém và
ít được sử dụng hơn CGHĐ. Trong một số hoàn cảnh, CGHĐ có thể mang lại
lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Trước hết, đối với bên chuyển giao,
CGHĐ giải phóng anh ta khỏi một hợp đồng mà anh ta không còn mong muốn
tiếp tục thực hiện mà không phải bồi thường thiệt hại. Đối với bên nhận
chuyển giao, anh ta được trực tiếp thừa hưởng một hợp đồng mà không phải
mất công đàm phán và có một lượng khách hàng có sẵn từ trước. Còn đối
với bên còn lại trong hợp đồng, anh ta tiếp tục được thực hiện hợp đồng
với một đối tác có mong muốn và phương tiện tốt hơn, và như vậy có thể
thu hồi vốn và sinh lợi từ việc thực hiện hợp đồng[2].
Ngoài ra, việc CGHĐ còn có ý nghĩa tích cực về mặt xã hội vì nó không
gây ra bất kỳ sự chấm dứt hợp đồng nào, vì “các quyền và nghĩa vụ không
bị chấm dứt, mà được chuyển từ bên chuyển giao sang bên nhận chuyển
giao”[3].
Tuy
nhiên, kỹ thuật tưởng như đơn giản này lại đặt ra một số vấn đề lớn khi
liên quan đến các loại hợp đồng phức tạp. Vấn đề thứ nhất là nguyên tắc
hiệu lực bất biến[4] - vốn là nguyên tắc nền tảng của pháp luật hợp đồng - có nguy cơ bị xâm phạm khi CGHĐ. Khi hợp đồng được giao kết hợp pháp, các bên phải “thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác”[5].
Việc thay thế một bên trong hợp đồng có nguy cơ khiến cho hợp đồng
không được thực hiện đúng theo giao kết ban đầu bởi vì bên nhận chuyển
giao là bên thứ ba. Vậy mà, hợp đồng chỉ ràng buộc các bên giao kết, nên
sẽ khó có thể bắt buộc bên thứ ba này thực hiện nghiêm chỉnh toàn bộ
nội dung hợp đồng mà anh ta không ký với bên còn lại trong hợp đồng. Vấn
đề thứ hai là hiện nay, BLDS 2005 của Việt Nam mới chỉ quy định về
chuyển giao quyền yêu cầu (các Điều 309-314) và chuyển giao nợ (các Điều
315-317), trong khi hợp đồng không đơn thuần là tập hợp các quyền và
nghĩa vụ, mà còn là mối quan hệ của các bên. Pháp luật thực định của
nước ta mới chỉ có quy định về chuyển giao đối với một số hợp đồng đặc
thù[6], chứ chưa có quy định về việc CGHĐ nói chung. Do chưa có một chế định chung cho CGHĐ,
nên các bên sẽ không biết chắc chắn hợp đồng của mình có thể chuyển
giao được hay không, và nếu có thì phải tuân theo các điều kiện gì, liệu
có thể tự do thỏa thuận việc chuyển giao hoặc cấm chuyển giao hay
không? Tòa án cũng sẽ gặp khó khăn khi phải thụ lý các vụ tranh chấp
liên quan đến CGHĐ do chưa có cơ sở pháp lý để giải quyết. Do vậy, cần làm rõ bản chất của CGHĐ để từ đó đề xuất hướng bổ sung chế định này vào BLDS.
2. Bản chất của chuyển giao hợp đồng
2.1. Định nghĩa
Mặc
dù việc CGHĐ vẫn thường xuyên được thực hiện trong thực tế, nhưng hiện
nay hầu hết các hệ thống luật trên thế giới đều chưa có định nghĩa về
việc này. Theo C. LAPP[7],
một trong những học giả tiên phong nghiên cứu về CGHĐ tại châu Âu, thì
CGHĐ là “một thỏa thuận theo đó một bên trong hợp đồng chuyển giao cho
một người thứ ba toàn bộ các quan hệ pháp lý bắt nguồn từ hợp đồng đó”.
Theo quan điểm này, không phải bản thân hợp đồng, mà thực chất là các
mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mới là đối tượng
được chuyển giao, vì hợp đồng là một sự thống nhất ý chí làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ. Nhưng sự thống nhất ý chí - cơ sở hình thành hợp đồng
- là một yếu tố phi vật chất nên không thể chuyển giao được. Nếu một
người thứ ba tham gia vào sự thống nhất ý chí này thì sẽ có một sự thống
nhất ý chí mới, và như vậy là một hợp đồng mới được hình thành. Vì thế,
không phải hợp đồng - nguồn gốc của quyền và nghĩa vụ - được chuyển
giao, mà là mối quan hệ pháp lý phát sinh từ hợp đồng được dịch chuyển
sang cho người thứ ba. Một số tác giả khác lại cho rằng, CGHĐ là “một hành vi pháp lý nhằm thay thế một bên trong một mối quan hệ hợp đồng bởi một bên thứ ba”[8].
Theo cách hiểu này, thực ra không có sự CGHĐ, mà có sự dịch chuyển của
một người mà trước đó là bên thứ ba trong hợp đồng vào một mối quan hệ
hợp đồng[9]. Như vậy có thể coi CGHĐ là một hành vi pháp lý, qua
đó một người thứ ba, được gọi là bên nhận chuyển giao (C), thế vào vị
trí của một bên, gọi là bên chuyển giao (A), trong hợp đồng mà anh ta đã
ký với một bên, gọi là bên còn lại trong hợp đồng (B).
2.2. Các hình thức CGHĐ
Nếu xét trên góc độ căn cứ pháp lý của việc chuyển giao thì có thể phân biệt hai loại CGHĐ chính. Một là,
CGHĐ theo thỏa thuận của các bên. Việc chuyển giao này được thực hiện
thông qua một thỏa thuận với sự thống nhất ý chí của cả ba bên tham gia.
Hai là,
CGHĐ theo luật định. Loại chuyển giao này được quy định trong một văn
bản pháp luật cụ thể và không đòi hỏi phải có sự đồng ý của bên còn lại
trong hợp đồng. Việc CGHĐ sẽ tự động được thực hiện khi thỏa mãn các
điều kiện của pháp luật, như trong trường hợp có sự thay đổi về chủ lao
động thì các hợp đồng lao động sẽ tự động được chuyển sang cho chủ lao
động mới[10].
Ở một số nước còn có hình thức CGHĐ do tòa án quyết định. Trong một số
hoàn cảnh cụ thể, tòa án có thể buộc các bên phải CGHĐ để bảo vệ lợi ích
chung, chẳng hạn một doanh nghiệp tiếp quản một doanh nghiệp khác đang trong tình trạng khó khăn hoặc nộp đơn xin phá sản[11].
Nếu
xét trên góc độ ràng buộc pháp lý, có thể có CGHĐ giải phóng nghĩa vụ
và CGHĐ không giải phóng nghĩa vụ. Được gọi là CGHĐ giải phóng nghĩa vụ
khi bên chuyển giao được giải phóng hoàn toàn khỏi hợp đồng và CGHĐ
không giải phóng nghĩa vụ khi bên chuyển giao vẫn phải cam kết đảm bảo
việc thực hiện hợp đồng ban đầu bởi bên nhận chuyển giao.
Tất
cả các định nghĩa về CGHĐ như đã phân tích ở trên đều có điểm chung là
việc CGHĐ không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
- đối tượng của sự chuyển giao, mà nó chỉ dịch chuyển từ người này sang
người khác. Vì vậy, CGHĐ sẽ khác với một số hành vi pháp lý ba bên
khác.
3. Chuyển giao hợp đồng và các giao dịch pháp lý ba bên
Thay đổi nội dung hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có thể có các thay đổi đến các khía cạnh khác nhau của hợp đồng, chẳng hạn đối tượng
của hợp đồng thay đổi hoặc không còn tồn tại. Sự thay đổi nội dung hợp
đồng có thể khiến cho việc thực hiện nó cần phải có sự tham gia của một
bên thứ ba. Trong trường hợp này, người ta không coi đó là CGHĐ, vì các
bên trong hợp đồng không có sự thay đổi.
Thay thế nghĩa vụ. CGHĐ
không phải là thay thế nghĩa vụ, bởi vì CGHĐ không làm chấm dứt hợp
đồng ban đầu và không làm phát sinh một hợp đồng mới. Trong thay thế
nghĩa vụ[12], một nghĩa vụ bị chấm dứt do được thay thế bằng một nghĩa vụ dân sự khác[13], còn trong CGHĐ, nghĩa vụ không bị chấm dứt, mà nó được chuyển từ một bên giao kết sang một bên trước đó là bên thứ ba.
Chuyển giao nghĩa vụ.
CGHĐ cũng khác với chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ,
mặc dù về bản chất đây cũng là một giao dịch pháp lý ba bên. Lập luận
chính được các học giả nêu ra là hợp đồng không đơn thuần là tập hợp các
quyền và nghĩa vụ, mà còn là mối quan hệ giữa hai bên giao kết[14] và đi liền với nó là phẩm chất cá nhân cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng và các quyền phản kháng đơn phương[15].
4. Chuyển giao hợp đồng tại một số quốc gia
4.1. CGHĐ tại một số nước theo hệ thống luật lục địa
Hiện
nay, nhiều nước như Đức, Italy, Bồ Đào Nha và Bỉ, đã có các cơ chế đặc
thù cho phép thực hiện việc CGHĐ. Tại Italy và Bồ Đào Nha, CGHĐ được
hiểu là sự thay thế người chuyển giao bởi một người thứ ba (người nhận
chuyển giao) vào mối quan hệ hợp đồng với sự đồng ý của bên còn lại.
Việc CGHĐ có hậu quả là sự chuyển giao toàn bộ các nghĩa vụ, quyền yêu
cầu và quyền phản kháng đơn phương (như quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng, quyền gia hạn hợp đồng...) từ bên chuyển giao sang cho bên nhận
chuyển giao[16].
Tại Bỉ, pháp luật quy định việc chuyển giao một số loại hợp đồng chuyên
biệt. Trong trường hợp pháp luật không có quy định, hợp đồng chỉ có thể
được chuyển giao nếu được sự đồng ý của tất cả các bên. Tòa án Bỉ có xu
hướng đề cao sự tự do thỏa thuận. Điều này có nghĩa là việc CGHĐ chỉ có
thể được thực hiện nếu được sự đồng ý của tất cả các bên. Tuy nhiên,
trong trường hợp hợp đồng không có quy định về CGHĐ, Tòa
án Bỉ có xu hướng ưu tiên việc chuyển giao khi việc tiếp tục thực hiện
hợp đồng nhờ đó trở nên thuận lợi hơn và chỉ chấp nhận cho bên còn lại
trong hợp đồng từ chối sự chuyển giao khi việc này gây bất lợi cho anh
ta. Như vậy, Tòa án Bỉ đã đặt ra yêu cầu đối với bên còn lại trong hợp
đồng phải nêu rõ lý do từ chối chuyển giao. Trong pháp luật của các nước
theo hệ thống Germanique (hệ thống luật dân sự) như Đức, Thụy Sỹ, Áo và các nước Scandinave (bao gồm Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển ở vùng Bắc Âu),
không có quy định chung nào của pháp luật điều chỉnh việc CGHĐ, nhưng
các nước này có xu hướng chấp nhận việc chuyển giao do các bên thỏa
thuận và coi đó không đơn thuần là sự chuyển giao quyền và nghĩa vụ. Tại
Argentina, việc CGHĐ chỉ có hiệu lực với sự đồng ý của tất cả ba bên.
Tại hầu hết các nước này, cũng có các văn bản chuyên ngành quy định việc
chuyển giao một số hợp đồng chuyên biệt như hợp đồng thuê nhà kinh
doanh, hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng lao động trong trường hợp hợp nhất
doanh nghiệp.
Tại Pháp, một số học giả cho rằng, có thể CGHĐ, mặc dù BLDS Pháp không có quy định minh thị nào về việc này, thậm chí còn cấm việc chuyển giao nghĩa vụ[17]. Nhiều học giả Pháp cho rằng, việc CGHĐ có thể được thực hiện thông qua việc kết hợp chuyển giao quyền và ủy thác thực hiện nghĩa vụ (délégation)[18].
Theo C. LAPP, tất các các thành phần của mối quan hệ hợp đồng - các
quyền, nghĩa vụ và quyền phản kháng đơn phương - đều có thể chuyển giao
được. Tuy nhiên, theo L. AYNÈS[19], việc
CGHĐ không phải là kết quả của việc chuyển giao từng bộ phận của hợp
đồng, mà chính hợp đồng trong tổng thể của nó được dịch chuyển. Tác giả
này cho rằng,
CGHĐ không đi ngược lại các nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng,
cũng không trái với nguyên tắc hợp đồng chỉ ràng buộc các bên ký
kết. Hợp đồng vẫn giữ nguyên được nội dung và mục đích ban đầu của nó
và bên nhận chuyển giao là bên thế quyền. Đúng là bên nhận chuyển giao
là bên thứ ba đối với hợp đồng ban đầu, nhưng anh ta có thể chịu sự ràng
buộc với hợp đồng này với tư cách là người thế quyền, mà điều này được
pháp luật cho phép. Vì vậy một bên có thể CGHĐ mà không cần sự đồng ý
của bên còn lại. Giải pháp này thuận lợi cho bên chuyển giao, nhưng lại
bất lợi cho bên còn lại trong hợp đồng. Nó làm xói mòn sự an toàn pháp
lý hợp đồng, vì bên còn lại trong hợp đồng không được hưởng lợi gì từ
việc CGHĐ trong khi lại đứng trước nguy cơ bên nhận chuyển giao không
thực hiện đúng hợp đồng. Ngoài ra, việc CGHĐ, nếu được thực hiện thành
công, còn có thể làm tăng thêm nghĩa vụ cho bên còn lại trong hợp đồng.
Vì thế, nhiều tác giả khác cho rằng việc CGHĐ chỉ có thể với sự đồng ý
của tất cả các bên. Tuy nhiên, trong trường hợp như vậy thì vì có sự
thống nhất ý chí mới, nên sẽ có một hợp đồng mới được hình thành[20],
mặc dù nội dung của nó không có gì thay đổi. Do CGHĐ thực chất là việc
ký một hợp đồng mới nên nó sẽ làm phát sinh các nghĩa vụ gắn liền với
việc giao kết hợp đồng, như nghĩa vụ cung cấp thông tin trước khi ký kết
hợp đồng (đối với bên nhượng quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương
mại, bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm). Vì vậy, bên có nghĩa vụ
phát sinh khi CGHĐ sẽ có xu hướng đưa vào trong hợp đồng một điều khoản
cấm CGHĐ.
Các thẩm phán của Pháp cũng có những quan điểm khác nhau về CGHĐ. Trong suốt một thời gian dài, nhiều Tòa án Pháp vẫn cho rằng,
hợp đồng là không thể chuyển giao được, trong khi một số thẩm phán lại
cho rằng nguyên tắc hợp đồng chỉ ràng buộc các bên ký kết không ngăn cản
việc CGHĐ. Trong một bản án ngày 07/01/1992 liên quan đến việc chuyển giao một hợp đồng bảo trì thiết bị điện tử, Tòa án tối cao Pháp đã quyết định rằng: “Phẩm
chất cá nhân của các bên giao kết không thể là lý do ngăn cản việc
chuyển giao các quyền và nghĩa vụ của một bên trong hợp đồng sang cho
một người thứ ba”[21]. Như vậy, tại Pháp, mọi hợp đồng đều có thể được chuyển giao với điều kiện được bên còn lại chấp nhận[22].
Sự chấp nhận này có thể được thể hiện ngay từ thời điểm giao kết hợp
đồng thông qua một điều khoản quy định về CGHĐ, hoặc vào thời điểm thực
hiện việc chuyển giao. Thông qua hai phán quyết ngày 6/5/1997[23],
Tòa án tối cao Pháp đã tái khẳng định sự cần thiết của sự đồng ý của
bên còn lại trong hợp đồng đối với việc CGHĐ. Trong vụ việc thứ nhất,
hợp đồng được chuyển giao mà không được sự đồng ý của bên kia, và như
vậy, theo Tòa án tối
cao, CGHĐ này là vô hiệu. Vụ việc thứ hai liên quan đến một hợp đồng
bảo trì thiết bị giữa công ty A và công ty B. Hợp đồng này có một điều
khoản quy định rằng,
các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có thể chuyển giao được cho
một bên thứ ba. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty B được thay
thế bởi công ty C, nhưng công ty A đã từ chối thanh toán phí bảo trì
cho công ty C. Công ty C kiện ra tòa. Tòa án tối cao Pháp đã cho rằng
việc chuyển giao là hợp pháp mặc dù không nhận được sự đồng ý của công
ty A vào thời điểm thực hiện việc chuyển giao. Hai phán quyết này là
không mâu thuẫn nhau, vì trong vụ việc thứ hai, công ty A đã đưa ra sự
đồng ý về việc CGHĐ ngay từ thời điểm ký hợp đồng.
Dự
thảo sửa đổi BLDS Pháp đã đưa vào một phần quy định việc CGHĐ theo đó
“trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, việc CGHĐ có thể thực hiện
được với sự đồng ý của tất cả các bên tham gia”[24].
4.2. CGHĐ trong hệ thống luật Anh-Mỹ
Về cơ bản, hệ thống luật Anh-Mỹ
hiện đại chấp nhận việc CGHĐ theo thỏa thuận của các bên. Khi việc
chuyển giao theo hợp đồng được thực hiện, bên nhận chuyển giao sẽ được
hưởng một phần hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của bên CGHĐ, nhưng không
bao giờ được hưởng nhiều
hơn các quyền mà bên chuyển giao đã có trong hợp đồng. Đây được gọi là
nguyên tắc ngang bằng quyền lợi (standing in the shoes principle). Trong
pháp luật của Anh, hợp đồng không thể tự động được chuyển giao cho
người thứ ba. Việc CGHĐ phải được sự đồng ý của tất cả các bên: bên
chuyển giao, bên nhận chuyển giao, và đặc biệt là bên còn lại trong hợp
đồng. Cũng giống như pháp luật Việt Nam và Pháp, trong pháp luật của Anh
không có một chế định riêng cho CGHĐ. Tuy nhiên, trong thực tế, thuật
ngữ “CGHĐ” vẫn được sử dụng rộng rãi[25].
Tại
Mỹ, người ta sử dụng thuật ngữ “assign a right” để chỉ việc chuyển giao
một quyền và “delegate a duty” để chỉ việc chuyển giao nghĩa vụ. Trong
chuyển giao quyền, người chuyển giao được gọi là assignor, người nhận
chuyển giao là assignee và người có nghĩa vụ là obligor. Khi giao dịch
thành công, quyền của người chuyển giao được chuyển toàn bộ sang cho
người nhận chuyển giao[26]. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không đòi hỏi sự đồng ý của bên có nghĩa vụ[27].
Nguyên tắc cơ bản là mọi quyền phát sinh từ một hợp đồng đều có thể
được chuyển giao, nhưng vẫn có một số ngoại lệ. Chẳng hạn, việc chuyển
giao quyền sẽ không được chấp nhận nếu việc chuyển giao này làm thay đổi
cơ bản hoàn cảnh của bên có nghĩa vụ hoặc làm tăng thêm chi phí cho
việc thực hiện nghĩa vụ, hoặc làm giảm cơ hội thu được quyền lợi mà đáng
lẽ anh ta được hưởng từ việc thực hiện nghĩa vụ đó[28]. Theo quy định của UCC (Uniform Commercial Code - Bộ luật Thương mại thống nhất)
§ 2-210, sẽ không được chấp nhận: việc chuyển giao quyền nếu việc thực
hiện quyền này gắn liền với nhân thân của người có nghĩa vụ[29];
việc chuyển giao quyền phát sinh từ một hợp đồng theo đó người thụ trái
có quyền mua toàn bộ các sản phẩm mà người có nghĩa vụ có thể sản xuất
ra (output contract), hoặc toàn bộ số lượng hàng mà anh ta cần
(requirement contract); việc chuyển giao quyền bảo đảm mà người mua bảo
hiểm được hưởng đối với bên cung cấp bảo hiểm.
Nhìn
chung, việc chuyển giao quyền phát sinh từ hợp đồng sẽ không được chấp
nhận nếu nó có hậu quả là làm thay đổi cơ bản các điều kiện của hợp
đồng. Việc chuyển giao các quyền phát sinh trong tương lai được chấp
nhận nếu chúng phát sinh từ một hợp đồng đã được ký kết, hoặc từ một
quan hệ kinh doanh đã tồn tại. Ngược lại, không thể chuyển giao các
quyền sẽ phát sinh từ một hợp đồng sẽ được ký kết hoặc từ một quan hệ
kinh doanh sẽ được thiết lập[30].
Nhưng, theo nguyên tắc công bằng (equity), người ta có thể yêu cầu thực
hiện việc chuyển giao quyền khi quyền này phát sinh trên cơ sở tồn tại
của một hợp đồng tương lai (contract to assign)[31]. Ngoài ra, UCC §9-204, cũng thừa nhận hiệu lực của một số chuyển giao các quyền sẽ phát sinh trong tương lai.
Restatement Second of contracts (Bộ pháp điển hóa về Hợp đồng xuất bản lần thứ hai) chấp nhận các điều khoản cấm việc chuyển giao quyền phát sinh từ hợp đồng[32]. Tuy nhiên, Tòa án có xu hướng hạn chế các điều khoản này vì chúng vi phạm nguyên tắc tự do chuyển nhượng quyền[33].
Thật vậy, khi điều khoản liên quan đến việc cấm hoàn toàn việc chuyển
giao lợi nhuận từ hợp đồng sang cho bên thứ ba (hoặc chỉ được chuyển
giao với sự đồng ý của bên kia), nó sẽ bị thẩm phán coi đó là điều khoản
“xóa bỏ quyền”. Nếu việc chuyển giao được thực hiện bất chấp các bên có
điều khoản cấm chuyển giao, thì bên có nghĩa vụ có thể yêu cầu bên
chuyển giao bồi thường thiệt hại vì vi phạm điều khoản không chuyển
giao, nhưng việc chuyển giao vẫn có hiệu lực trong mối quan hệ giữa bên
nhận chuyển giao và bên có nghĩa vụ[34].
Ngoài
ra, Restatement Second of Contracts còn thừa nhận một số nguyên tắc
giải thích bất lợi đối với các điều khoản hạn chế khả năng chuyển giao
quyền phát sinh từ hợp đồng. Thật vậy, điều khoản “cấm CGHĐ” phải được
hiểu như là chỉ cấm việc chuyển giao các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng,
chứ không thể được hiểu như là việc cấm chuyển giao các quyền phát sinh
từ hợp đồng đó. Điều khoản cấm chuyển giao quyền phát sinh từ hợp đồng
phải được hiểu là trao cho bên có nghĩa vụ quyền được đòi bồi thường
thiệt hại trong trường hợp việc chuyển giao được thực hiện bất chấp điều
khoản cấm chuyển giao, chứ không phải là nguyên nhân làm việc chuyển
giao vô hiệu. Tương tự, một điều khoản như vậy không cấm việc chuyển
giao quyền đòi bồi
thường, trong trường hợp vi phạm hợp đồng, cũng như các quyền được thừa
nhận cho bên chuyển giao sau khi anh ta đã thực hiện toàn bộ các nghĩa
vụ của mình[35]. Cuối cùng, một điều khoản như vậy phải được hiểu như là được ký kết vì lợi ích của bên có nghĩa vụ, và như vậy,
nó không thể ngăn cản bên nhận chuyển giao quyền thực hiện các quyền
đối với bên chuyển giao, cũng như không thể được hiểu là điều khoản cấm
bên có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với bên nhận chuyển
giao.
Việc
chuyển giao nghĩa vụ tại Mỹ có thể được thực hiện thông qua hai cách:
ủy nhiệm và thay thế nghĩa vụ (novation). Ủy nhiệm thực hiện nghĩa vụ
được định nghĩa là sự chỉ định bởi một bên trong hợp đồng, gọi là bên ủy
nhiệm (obligor delegor) một người thứ ba (gọi là delegee) thực hiện
thay cho mình nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Bên thụ trái các nghĩa vụ
được chuyển giao được gọi là obligee[36].
Bên nhận ủy nhiệm thực hiện nghĩa vụ trở thành người có nghĩa vụ đối
với bên có quyền. Tuy nhiên, việc ủy nhiệm không giải phóng hoàn toàn
người có nghĩa vụ ban đầu. Còn thay thế nghĩa vụ (novation) là một thỏa
thuận ba bên (three-party agreement) theo đó người có quyền đồng ý giải
phóng người có nghĩa vụ ban đầu, chấp nhận cho người thứ ba thế vào vị
trí của người có nghĩa vụ.
Có một nguyên tắc được Tòa
án của Mỹ chấp nhận rộng rãi là mọi nghĩa vụ hợp đồng đều có thể được
chuyển giao thông qua ủy nhiệm, trừ phi người có quyền chứng minh được
rằng việc chuyển giao nghĩa vụ ảnh hưởng đến lợi ích cơ bản của mình
(substantial interest) và rằng, chỉ có việc thực hiện nghĩa vụ bởi người có nghĩa vụ ban đầu mới đảm bảo được lợi ích mong đợi từ việc ký kết hợp đồng[37].
Quy định này chủ yếu liên quan đến các nghĩa vụ gắn liền với phẩm chất
cá nhân của người giao kết (“skill, wisdom, taste or character of the
person originally agreeing to tender performance”)[38].
Như vậy, đối với các nghĩa vụ mà việc thực hiện nó gắn liền với phẩm
chất cá nhân của người có nghĩa vụ thì pháp luật Mỹ ưu tiên loại chuyển
giao không giải phóng nghĩa vụ. Thật vậy, trong vụ Crane Ice Cream Co. v
Terminal Freezing & Heating Co.,[39],
thẩm phán đã không chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ cung ứng hàng
hóa vì bên mua (bên có quyền) sẽ không thể có được đầy đủ lượng hàng hóa
mà anh ta cần, trong khi đối tượng được chuyển giao lại là một
requirement contract, nghĩa là một hợp đồng cung ứng theo đó bên cung
ứng cam kết bán toàn bộ lượng hàng hóa mà người mua cần.
Khi một văn bản được coi là một CGHĐ, người ta có xu hướng coi đó là một văn bản ủy nhiệm[40],
và việc chấp nhận chuyển giao là một chấp nhận sự ủy nhiệm, nghĩa là sự
thừa nhận bởi người có quyền rằng anh ta chấp nhận một người có nghĩa
vụ đối với mình thay thế cho người có nghĩa vụ ban đầu. Trừ trường hợp
có thỏa thuận khác, việc CGHĐ có hậu quả là chuyển giao cho người nhận
chuyển giao toàn bộ các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Tuy
nhiên, bên có nghĩa vụ ban đầu không được giải phóng hoàn toàn khỏi
nghĩa vụ.
4. Bổ sung chế định chuyển giao hợp đồng vào pháp luật Việt Nam
Những phân tích ở trên cho thấy,
đa số các nước đều chấp nhận việc CGHĐ. Để tránh xảy ra các tranh chấp
liên quan đến giao dịch rất hay được thực hiện này, thiết nghĩ cần bổ
sung một quy định chung về CGHĐ vào BLDS của Việt Nam.
Hệ
thống luật của Anh-Mỹ có xu hướng cởi mở hơn đối với CGHĐ. Mặc dù cả
hai hệ thống luật châu Âu lục địa và luật Anh-Mỹ đều đòi hỏi việc CGHĐ
phải được thực hiện với sự đồng ý của tất cả các bên tham gia, nhưng nếu
như hệ thống luật lục địa coi việc CGHĐ là ngoại lệ của nguyên tắc hiệu
lực bất biến, thì hệ thống luật Anh-Mỹ lại cho rằng về nguyên tắc mọi
quyền và nghĩa vụ đều có thể chuyển giao được. Vì thế, trong suốt một
thời gian dài, tại các nước theo hệ thống pháp luật lục địa,
như Pháp chẳng hạn, nếu hợp đồng có quy định về việc cấm chuyển giao,
thì một bên có quyền từ chối việc chuyển giao thực hiện bởi bên kia mà
không cần giải thích gì thêm. Trong khi đó, tại Anh-Mỹ, bên từ chối
chuyển giao phải chứng minh việc chuyển giao sẽ gây cho anh ta bất lợi.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các thẩm phán của các nước theo hệ
thống luật lục địa, mặc dù vẫn giữ vững nguyên tắc hiệu lực bất biến của
hợp đồng, nhưng khi xem xét các tranh chấp liên quan đến CGHĐ lại thiết
lập cơ chế chống lạm quyền. Cũng như mọi quyền khác, bên có quyền từ
chối CGHĐ không được lạm quyền của mình, mà phải thực hiện nó trên cơ sở
thiện chí và hợp tác, vốn là những nguyên tắc cơ bản của việc thực hiện
hợp đồng. Như vậy, đã có sự xích lại gần nhau của hai hệ thống luật
trong vấn đề CGHĐ.
Chúng tôi cho rằng, chỉ
nên quy định việc chuyển giao đối với loại hợp đồng song vụ mà việc
thực hiện kéo dài trong thời gian, bởi lẽ đối tượng chính của CGHĐ là sự
dịch chuyển quyền và nghĩa vụ của một bên trong hợp đồng sang cho một
người mà trước đó là bên thứ ba. Hợp đồng song vụ có thể được chuyển
giao nếu sự chuyển giao này không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các
bên. Các bên chỉ cần thông báo cho nhau về việc chuyển giao mà không
cần giải thích gì thêm. Tuy nhiên, đối với các hợp đồng mà việc thực
hiện gắn liền với phẩm chất, năng lực của các bên giao kết (intuitu
personae)[41],
thì sự đồng ý của bên còn lại trong hợp đồng là điều kiện tiên quyết
cho sự chuyển giao. Bên còn lại có thể từ chối sự chuyển giao, nhưng
phải chứng minh rằng việc thay đổi đối tác sẽ gây bất lợi đến việc tiếp
tục thực hiện hợp đồng. Các bên có thể thể hiện ý chí của mình về việc
chuyển giao hay không CGHĐ vào thời điểm giao kết hợp đồng thông qua một
điều khoản quy định rõ các khả năng này, hoặc vào thời điểm thực hiện
việc CGHĐ./.
[1]
L. AYNES, Les clauses de circulation du contrat, trong tuyển tập“Les
principales clauses des contrats conclus entre professionnels”, PUAM,
1990, tr. 131.
[2]
Chúng ta hãy lấy ví dụ về hợp đồng mua bán nhà đang trong quá trình xây
dựng. Trong loại hợp đồng này, người mua trả giá của căn hộ theo tiến
độ xây dựng. Nếu một người mua đã trả được một phần của giá trị hợp đồng
theo tiến độ xây dựng của năm thứ nhất và không có khả năng chi trả cho
đến khi công trình hoàn thành, thì người mua có thể đơn phương chấm dứt
hợp đồng, do bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Nhưng nếu người mua
tìm được một người khác thay thế cho mình thì việc CGHĐ sang cho người
thứ ba này sẽ không những không gây thiệt hại, mà ngược lại còn có thể
có lợi cho tất cả các bên. Đối với người mua - người CGHĐ, anh ta sẽ
được giải phóng khỏi hợp đồng mà anh ta không có khả năng tiếp tục thực
hiện mà không phải bồi thường thiệt hại. Đối với bên thứ ba - bên nhận
chuyển giao, anh ta sẽ có được căn hộ trong thời gian ngắn hơn. Còn đối
với bên bán - bên còn lại trong hợp đồng, việc CGHĐ giúp anh ta tìm được
một đối tác có khả năng tốt hơn để tiếp tục thực hiện hợp đồng dang dở,
qua đó đảm bảo được tiến độ xây dựng toàn bộ tòa nhà, và như vậy giữ
được cam kết đối với các bên mua khác.
[3] T. GALVAO, La cession du contrat, Tạp chí Pháp luật quốc tế so sánh (RIDC), số 2, 1951, tr. 217 và tiếp theo.
[4] Hay
còn gọi là Nguyên tắc Pacta sunt servanda. Về khái niệm này xem: Lê
Minh Hùng, Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Luận án tiến sỹ, ĐH Luật TP Hồ Chí Minh, 2010, tr. 23 và tiếp theo.
[7] C. LAPP, Essai sur la cession de contrat synallagmatique à titre particulier, luận án tiến sỹ, Strasbourg, 1950, tr. 9.
[8] J. FLOUR, J.-L. AUBERT và E. SAVAUX, Droit civil, t. 3, Le rapport d’obligation, 5e éd., 2007, A. Colin, tr. 246.
[11] Điều L. 642-7, Bộ luật Thương mại Pháp. Xem
thêm: B. THULLIER, Cession judiciaire des contrats et loi de sauvegarde
des entreprises : moins de pouvoirs pour le juge, D. 2006. Point de vue
130.
[13] Bùi Đức Giang, Bán tài sản là khoản vay theo quy định của pháp luật Anh, Thông tin pháp luật dân sự, 8/2012.
[16]
C. LARROUMET, La cession de contrat : une régression du droit français,
Mélanges M. Cabrillac, 1999, Dalloz-Litec, tr. 155. K.-H. NEUMAYER, La
transmission des obligations en droit comparé, in IXe journées d’études juridiques J. Dabin, 1980, Bruylant-Litec, tr. 255.
[38] T.L. Stark, L.R. Brody, F.K. Browne, Negotiating and Drafting Contract Boilerplate, ALM 2003, p. 34.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét