Thời
gian gần đây, dư luận đề cập nhiều đến việc một số công ty có vốn đầu
tư nước ngoài bị nghi ngờ thực hiện hành vi chuyển giá để trốn thuế
(điển hình là Công ty Coca-Cola Việt Nam). Nhiều ý kiến bức xúc khi các
doanh nghiệp này kinh doanh nhiều năm ở Việt Nam, liên tục kê khai lỗ
nhưng lại mở rộng kinh doanh, tăng doanh thu. Có doanh nghiệp có lỗ cộng
dồn lớn hơn số vốn đầu tư ban đầu. Nguyên nhân của tình trạng này là do
thiếu cơ sở pháp lý, do Luật Đầu tư sơ hở, hay do giao dịch của doanh
nghiệp quá đặc thù làm cơ quan thuế bất lực?... Chúng tôi xin bàn đến
góc độ khả năng thực thi pháp luật của cơ quan thuế.
1. Cơ sở pháp lý
Có
thể liệt kê các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề liên quan
đến chuyển giá như Luật Quản lý thuế 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012); Luật
Giá 2012; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008; Thông tư 66/2012/TT-BTC
(Thông tư 66 - hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong
giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết), trong đó đặc
biệt là Thông tư 66 điều chỉnh chi tiết và trực tiếp nhất.
Mục đích của Thông tư 66 là hướng dẫn thực hiện các quy định về việc xác
định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ
liên kết làm căn cứ kê khai xác định nghĩa vụ thuế thu nhập của cơ sở
kinh doanh. Thuật ngữ “giá thị trường” được giải thích là “để chỉ
giá sản phẩm theo thỏa thuận khách quan trong giao dịch kinh doanh trên
thị trường giữa các bên không có mối quan hệ liên kết (các bên độc
lập)”. Như vậy, các doanh nghiệp có mối liên hệ liên kết khi giao dịch
với nhau phải thực hiện theo giá thị trường như với các bên độc lập
(arm’s length principle).
Thông
tư 66 đã quy định chi tiết thế nào là các bên liên kết (tỷ lệ nắm giữ
vốn đầu tư của chủ sở hữu, tỷ lệ vốn vay của bên liên kết…). Thông tư 66
cũng hướng dẫn cách xác định giá thị trường trong giao dịch liên kết.
Theo đó, có 5 phương pháp xác định giá thị trường: 1) Phương pháp so
sánh giá giao dịch độc lập; 2) Phương pháp giá bán lại; 3) Phương pháp
giá vốn cộng lãi; 4) Phương pháp so sánh lợi nhuận; 5) Phương pháp tách
lợi nhuận. Tùy theo đặc thù của từng giao dịch mà lựa chọn phương pháp
xác định giá thị trường phù hợp nhất. Trong đó Phương pháp 1 dựa vào đơn
giá sản phẩm trong giao dịch độc lập để xác định đơn giá sản phẩm trong
giao dịch liên kết khi các giao dịch này có điều kiện giao dịch tương
đương nhau. Trong trường hợp không xác định được giá giao dịch độc lập
(do là giao dịch đặc thù hoặc duy nhất) thì có thể áp dụng các phương
pháp còn lại trên cơ sở xác định tỷ suất lợi nhuận gộp hoặc tỷ suất sinh
lợi.
Khi
khai báo thuế, doanh nghiệp có giao dịch liên kết có nghĩa vụ kê khai
vào một mẫu ban hành kèm theo Thông tư 66 gồm thông tin về giao dịch
liên kết và phương pháp xác định giá đối với các giao dịch liên kết đó. Doanh
nghiệp có giao dịch liên kết có nghĩa vụ và trách nhiệm lưu giữ các
thông tin, tài liệu và chứng từ làm căn cứ áp dụng phương pháp xác định
giá thị trường đối với sản phẩm trong các giao dịch liên kết và xuất
trình đầy đủ các dữ liệu, tài liệu, chứng từ cần thiết chứng minh cho
việc lựa chọn và áp dụng phương pháp xác định giá phù hợp nhất đối với
giao dịch liên kết.
Nếu doanh
nghiệp dựa vào các tài liệu, dữ liệu, chứng từ không hợp pháp, không
hợp lệ hoặc không nêu rõ nguồn gốc xuất xứ để xác định mức giá, tỷ suất
lợi nhuận gộp hoặc các tỷ suất sinh lời áp dụng cho giao dịch liên kết
hoặc không áp dụng hoặc cố tình áp dụng không đúng các quy định tại
Thông tư 66 và doanh nghiệp không chứng minh được trong thời hạn tối đa
là 90 ngày kể từ khi nhận được thông báo của cơ quan thuế thì tùy theo
mức độ tuân thủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ của doanh nghiệp mà cơ
quan thuế có quyền căn cứ vào cơ sở dữ liệu của mình ấn định mức giá
được sử dụng để kê khai tính thuế, ấn định thu nhập chịu thuế hoặc số
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp đối với doanh nghiệp có giao dịch
liên kết.
2. “Chuyển giá” là gì ?
Thuật ngữ “chuyển giá” là để ám chỉ việc doanh nghiệp dàn xếp
các giao dịch với bên có mối quan hệ liên kết theo mức giá không như
mức giá đối với bên độc lập (nói đơn giản là mua với giá cao và bán với
giá thấp) hoặc các khoản chi trả dịch vụ bất hợp lý hoặc không cần thiết
nhằm mục đích chuyển lợi nhuận về quốc gia có mức thuế suất có lợi nhất
cho tập đoàn đó. Hành vi “chuyển giá” vì
vậy thường được thực hiện bởi các tập đoàn đa quốc gia có các công ty
con hoặc cơ sở kinh doanh thường trú ở nhiều quốc gia khác nhau. “Chuyển
giá” ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu thuế của các quốc gia có liên
quan.
Để
chống chuyển giá, các quốc gia phát triển đã tích lũy nhiều kinh nghiệm
và xây dựng các quy định pháp luật về nguyên tắc xác định giá thị
trường; xác định mối quan hệ liên kết; nguyên tắc ấn định chi phí, tỷ
suất lợi nhuận, ấn định mức thuế.... Mặc dù vẫn tồn tại một số hạn chế,
nhưng có thể nói, Thông tư 66 đã thừa kế khá đầy đủ những kinh nghiệm
chống chuyển giá của các quốc gia phát triển.
3. Khả năng thực thi chống “chuyển giá” của cơ quan thuế
Theo
Thông tư 66, cơ quan thuế phải xem xét bảng kê khai giao dịch liên kết
của doanh nghiệp và các tài liệu chứng từ chứng minh (bao gồm hợp đồng,
chứng từ, hóa đơn...). Nếu doanh nghiệp có giao dịch liên kết khai báo
lỗ, đặc biệt là lỗ kéo dài nhưng vẫn mở rộng quy mô kinh doanh, doanh
thu tăng nhưng vẫn lỗ thì là những đối tượng cần phải thanh tra các giao
dịch liên kết. Doanh nghiệp có nghĩa vụ phải chứng minh các giao dịch
liên kết có thực sự cần thiết, kế đến là giá giao dịch có theo các
nguyên tắc xác định giá thị trường. Nếu cơ quan thuế không thống nhất
thì có quyền: bác bỏ giao dịch đó (không chấp nhận khoản khấu trừ thu
nhập chịu thuế), hoặc ấn định phương pháp xác định giá khác với phương
pháp xác định giá của doanh nghiệp để kê khai tính thuế, ấn định thu
nhập chịu thuế hoặc số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Để làm được
điều này, cơ quan thuế phải dựa vào cơ
sở dữ liệu của cơ quan thuế là các thông tin, dữ liệu liên quan đến
việc xác định nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp do cơ quan thuế thu
thập, phân tích, lưu giữ, cập nhật và quản lý từ các nguồn khác nhau.
Thực tế hiện nay, để thực hiện được các nội dung trên không đơn giản, cơ quan thuế vướng phải những khó khăn sau:
Cơ sở dữ liệu
Những
nguồn cơ sở dữ liệu có sẵn mà cơ quan thuế có thể thu thập được như:
thông tin, dữ liệu do các cơ quan, ban, ngành của Nhà nước, các viện
nghiên cứu, các hiệp hội và các tổ chức chuyên ngành được Nhà nước công
nhận và chịu trách nhiệm công bố công khai hoặc cung cấp theo yêu cầu;
báo cáo tài chính, báo cáo đầu tư thường niên hoặc định kỳ của các công
ty niêm yết trên thị trường chứng khoán được công bố công khai theo các
quy định và điều lệ hoạt động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên,
những nguồn này không thể bao gồm hết các thông tin của các doanh nghiệp
có giao dịch có tính chất và bối cảnh giao dịch tương đồng. Một nguồn
thông tin, dữ liệu khá đầy đủ và toàn diện là nguồn thông tin, dữ liệu
do các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hành nghề độc
lập được cấp phép hoạt động xác nhận hoặc công bố công khai (ví dụ: cơ
quan kiểm toán độc lập, cơ quan đăng ký, đăng kiểm chất lượng, tổ chức
phân loại, đánh giá uy tín các doanh nghiệp). Hiện nay, nguồn dữ liệu
loại này được các công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán, thuế sử dụng và
được chấp nhận bởi cơ quan thuế ở các nước. Tuy nhiên, đến nay, cơ quan
thuế Việt Nam chưa mua một nguồn cơ sở dữ liệu nào. Lý do được đưa ra là
giá một cơ sở dữ liệu khá đắt. Vấn đề đặt ra là cơ quan thuế khó mà có
cơ sở để bác các kê khai thuế của doanh nghiệp nếu không có nguồn cơ sở
dữ liệu này để phân tích so sánh giao dịch độc lập có tính chất và điều
kiện tương đồng. Với những nguy cơ thất thu thuế do doanh nghiệp thực
hiện chuyển giá như hiện nay thì việc phải mua nguồn cơ sở dữ liệu này
là việc không thể không làm.
Năng lực cán bộ thuế
Một
khó khăn mang tính chủ quan là năng lực của cán bộ thuế. Kể cả khi cơ
quan thuế đã mua nguồn cơ sở dữ liệu nói trên thì việc sử dụng được
nguồn dữ liệu đó cũng là một thách thức bởi vấn đề ngoại ngữ, khả năng
phân tích tìm ra cơ sở để xác định giá giao dịch độc lập tương đồng hoặc
tỷ suất lợi nhuận gộp, tỷ suất sinh lợi tương đồng (bench-marking).
Hiện nay, ngoài Tổng cục Thuế có tổ chuyên trách quản lý thuế đối với
hoạt động chuyển giá thì các Cục thuế địa phương không có một bộ phận
chuyên trách về chuyển giá, mà chủ yếu là cán bộ thuế phụ trách thuế thu
nhập doanh nghiệp kiêm nhiệm. Bản thân các cán bộ thuế này cũng không
được đào tạo bài bản về chuyến giá. Do đó vấn đề cấp bách hiện nay,
ngoài việc phải mua nguồn cơ sở dữ liệu, cần phải đào tạo chuyên sâu về
chống chuyển giá cho cán bộ thuế từ trung ương đến địa phương và họ chỉ
phụ trách chuyên về chuyển giá. Cũng cần nói thêm là tại các công ty
cung cấp dịch vụ kiểm toán và thuế lớn đều có bộ phận phụ trách chuyên
về chuyển giá.
Trở lại nghi án Coca-cola Việt Nam
Thông tin báo chí đăng tải trong thời gian qua về nghi án Coca-cola chuyển giá có hai luồng ý kiến: thứ nhất
quy cho các giao dịch với bên liên kết của Coca-cola Việt Nam là giao
dịch đặc thù, duy nhất, khó xác định giá giao dịch tương đồng (bao gồm
cả ý kiến của cơ quan thuế Việt Nam); thứ hai
(chủ yếu là lý giải của Coca-cola Việt Nam) đó là giá nguyên liệu mua
của công ty mẹ cao, những chi phí lớn mà Coca-cola phải đầu tư...
Phân
tích và áp dụng các quy định của Thông tư 66 thì các lý do trên không
phải là vấn đề lớn. Một là, Thông tư 66 cho phép áp dụng 5 phương pháp
xác định giá thị trường đối với giao dịch với bên liên kết. Tùy theo đặc
thù của giao dịch mà lựa chọn phương pháp áp dụng phù hợp nhất. Nếu
trong trường hợp Coca-cola thực hiện giao dịch đặc thù, duy nhất và khó
xác định được giá giao dịch độc lập theo phương pháp 1, thì có thể áp
dụng phương pháp xác định tỷ suất lợi nhuận và đây là thẩm quyền của cơ
quan thuế có quyền điều chỉnh và ấn định phương pháp xác định giá thị
trường phù phợp. Hai là, việc Coca-cola Việt Nam kê khai những chi phí
khác thì cơ quan thuế cũng hoàn toàn có thể xác định tính cần thiết hay
có hợp lý hay không để khấu trừ.
Vấn
đề ở đây - như đã nêu trên - là cơ quan thuế Việt Nam thiếu cơ sở dữ
liệu để bác bỏ kê khai của doanh nghiệp và năng lực của cán bộ thuế.
Việc hiểu biết hạn chế và thiếu cơ sở dữ liệu dẫn đến việc cơ quan thuế
không thể mạnh tay với doanh nghiệp, bởi nếu không khéo thì có thể bị
doanh nghiệp kiện ngược ra tòa hành chính. Hiện nay, bản thân các thẩm
phán cũng khó có thể nói là am tường về chuyển giá thì việc xét xử những
vụ kiện như thế là một thách thức đối với họ.
Kế hoạch hành động của cơ quan thuế
Ngành
thuế Việt Nam đang thực hiện chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2011-2020, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực thực thi thuế
quốc tế (trong đó có vấn đề quản lý thuế đối với chuyển giá). Cụ thể[1]:
Trong
chương trình hành động kiểm soát hoạt động chuyển giá giai đoạn
2012-2015 của Bộ Tài chính, sẽ thành lập tổ chuyên trách quản lý thuế
đối với hoạt động chuyển giá tại một số Cục thuế quản lý nhiều doanh
nghiệp liên kết như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh v.v.. Bên cạnh đó,
Tổng cục Thuế đã tiếp nhận nhiều sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế (JICA,
ADB, EU, IFC, WB...) cho việc đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ thuế
về giá chuyển nhượng.
Từ
năm 2012, ngành thuế đã đặt thanh tra giá chuyển nhượng là nhiệm vụ
trọng tâm của ngành. Thực tế đã thanh tra, kiểm tra 1.495 doanh nghiệp
lỗ có dấu hiệu chuyển giá, đã điều chỉnh giá dẫn đến nhiều doanh nghiệp
từ lỗ đã có lãi, truy thu và phạt 622,8 tỷ, giảm lỗ 3.306,6 tỷ. Sắp tới
ngành thuế sẽ tăng cường rà soát, đánh giá rủi ro và thanh tra giá
chuyển nhượng, đảm bảo tỷ lệ 20% cuộc thanh tra giá chuyển nhượng tính
trên tổng số cuộc thanh tra được thực hiện.
Đối
với hệ thống cơ sở dữ liệu, ngành thuế đang tiến hành tin học hóa các
thông tin về đăng ký thuế, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, bản cân đối kế toán, tình hình thực hiện kê khai, nộp thuế của
doanh nghiệp và có kế hoạch mua thêm nguồn cơ sở dữ liệu.
Hy
vọng với những nỗ lực trên, ngành thuế Việt Nam có thể nâng cao được
khả năng thực thi chống chuyển giá - hiện đang là vấn đề bức xúc không
chỉ đối với Nhà nước mà cả đối với người dân Việt Nam./.
[1] Theo thông tin của Tổng cục Thuế về thực trạng công tác quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá tại Việt Nam tại hội thảo “Quản lý hoạt động chuyển giá - kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam” tại Hà Nội, tháng 12/2012 .
Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét