Khái
niệm nền kinh tế phi thị trường (Non Market Economy-NME) có nguồn gốc
từ Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết năm
1935. Giai đoạn sau thế chiến thứ hai bắt đầu xuất hiện thuật ngữ “các
quốc gia thương mại nhà nước”. Sự ra đời của thuật ngữ này là do việc
các nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ngoại thương của
một số quốc gia, chủ yếu là các nước Đông Âu1. Hiện tượng nhà
nước độc quyền tuyệt đối trong hoạt động giao dịch ngoại thương đã làm
cho các nhà kinh tế học cũng như chính trị gia chuyển sang nghiên cứu
một đặc tính mới của hệ thống kinh tế phi thị trường, có tên là hệ thống
kế hoạch hóa tập trung. Theo đó đã xuất hiện thuật ngữ “nền kinh tế kế
hoạch tập trung,” thuật ngữ này đã thay thế “nền kinh tế nhà nước kinh
doanh”. Trong Luật Hải quan Hoa Kỳ năm 1973, thuật ngữ “quốc gia nền
kinh tế tập trung” lần đầu tiên đã xuất hiện. Cùng thời kỳ đó, thuật ngữ
“nhà nước xã hội chủ nghĩa” đã được đề cập trên thế giới. Với sự bắt
đầu cải cách thị trường trong hầu hết các nền kinh tế kế hoạch tập trung
vào những năm 1980 và đầu 1990, hiện tượng này đã trở thành phổ biến và
được gọi là “quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường”
(Transaction to a market economy). Tuy nhiên, cùng với sự xác định khái
niệm “các quốc gia đang trong thời kỳ chuyển đổi” (transaction
countries) thì thuật ngữ nền kinh tế phi thị trường cũng được sử dụng
lại. Các thuật ngữ đó xuất hiện đã có một ý nghĩa triết học hơn là một ý
nghĩa kinh tế hay pháp lý2.
Trong
khuôn khổ WTO, khái niệm NME được đề cập trong khoản 1 điều VI của GATT
1994 “Thừa nhận rằng trong trường hợp nhập khẩu từ một nước mà thương
mại hoàn toàn mang tính chất độc quyền hoặc hầu như độc quyền hoặc toàn
bộ giá trong nước do nhà nước định đoạt, việc xác định tính so sánh của
giá cả nhằm mục đích nêu tại khoản 1 có thể có những khó khăn đặc biệt
và trong những trường hợp đó, các bên ký kết là bên nhập khẩu có thể
thấy cần tính đến khả năng rằng việc so sánh chính xác với giá cả trong
nước của nước đó không phải lúc nào cũng thích đáng”3. Thông
qua quy định này, các thành viên của WTO nhận thấy một cách rõ ràng
rằng, các quốc gia NME có thể cần phải đối xử một cách khác biệt hơn các
quốc gia có nền kinh tế thị trường (Market Economy-ME) trong vụ kiện
chống bán phá giá.
Dựa
vào điều khoản này, nhiều nước thành viên của WTO đã không chấp nhận
các thông tin về giá cả hay chi phí sản xuất được cung cấp bởi các quốc
gia được xem là NME. Các quốc gia này cho rằng giá cả và chi phí do các
quốc gia NME được điều chỉnh và can thiệp bởi Chính phủ và do đó, không
theo quy luật của thị trường. Cơ quan điều tra sẽ sử dụng giá và chi phí
sản xuất của hàng hóa tại một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường để
thay thế, làm cơ sở tính toán cho giá thông thường. Trong mỗi vụ kiện,
các quốc gia ME được lựa chọn để thay thế phải ở một mức phát triển cùng
với quốc gia NME bị điều tra chống bán phá giá. Trong một số trường
hợp, cơ quan điều tra đã xây dựng và sử dụng các thông tin tổng hợp về
giá cả và chi phí4. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hầu hết
các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều phát triển hơn các quốc gia
NME hoặc cơ quan điều tra cố tình dùng các quốc gia ME phát triển hơn để
làm cơ sở tính toán, với mục đích tính toán biên độ phá giá lớn hơn và
dẫn đến mức thuế đánh vào các sản phẩm bị điều tra chống bán phá giá từ
các quốc gia NME sẽ cao hơn, ví dụ, trong vụ kiện xe đạp tại EC, Mexico
được lựa chọn là quốc gia thay thế Việt Nam5.
Tiêu
chí của UNCTAD (United Nations Conferenceon Trade and Development) định
nghĩa về nền kinh tế phi thị trường và nền kinh tế thị trường theo các
cách sau:6
(i)
Một quốc gia được coi là có nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế thị
trường đó phải dựa chủ yếu vào lực lượng thị trường để xác định mức độ
của sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm mà không có sự can thiệp
của chính phủ7.
(ii)
Một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường là thị trường mà trong đó
chính phủ tìm mọi cách để quản lý các hoạt động kinh tế một cách rộng
lớn thông qua cơ chế quản lý tập trung, chẳng hạn như các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây, trái ngược với nền kinh tế thị trường là phụ thuộc
vào lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực sản xuất. Trong NME, mục
tiêu sản xuất, giá cả, phân bổ đầu tư, nguyên liệu thô, lao động, thương
mại quốc tế và hầu hết các tổ hợp kinh tế khác được điều chỉnh bởi nền
kinh tế kế hoạch được lập ra bởi cơ quan kinh tế kế hoạch tập trung; Do
vậy, khu vực công đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cung và cầu trong nền kinh tế quốc dân8.
UNCTAD
cũng đã sử dụng thuật ngữ các quốc gia thương mại nhà nước và nhóm D để
phân biệt một nền kinh tế phi thị trường đối với nền kinh tế thị
trường. Từ trước cho đến thời kỳ có sự chuyển đổi giai đoạn 1989-1991
theo các chính sách định hướng kinh tế thị trường, nhóm D bao gồm các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tham gia UNCTAD, bao gồm Romania và
Yoguslavia (được xem là nhóm các quốc gia 77) và Albania (không tích cực
tham gia UNCTAD và các yếu tố khác trong hệ thống Liên hợp quốc). Các
quốc gia nhóm D cho thấy một sự tham gia đặc biệt trong sự phân công của
ban thư ký UNCTAD liên quan với “thương mại giữa các quốc gia với các
hệ thống kinh tế khác biệt”9. Tuy nhiên, ngày nay ít có quốc
gia nào có hệ thống kế hoạch tập trung hoàn toàn, mà có một số đặc điểm
để nó được định hướng là một nền kinh tế chuyển đổi10.
Từ
khi áp dụng Luật chống bán phá giá 1921 cho đến khi thông qua Luật
Thương mại 1974, việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nền
kinh tế NME đã được Hoa Kỳ đưa ra và áp dụng duy nhất thông qua hoạt
động của cơ quan quản lý. Trong thập kỷ 1960, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã sử
dụng thuật ngữ “quốc gia thay thế” để áp dụng cho các quốc gia NME11.
Phương pháp tiếp cận này đã được thông qua và được pháp điển hóa bởi
Quốc hội Hoa Kỳ vào trong Luật Thương mại 1974. Quốc hội đồng thời cũng
thông qua sự độc quyền khác của Bộ Tài chính, được biết là phương pháp
tiếp cận “Các yếu tố của sản xuất” trong Đạo luật về Hiệp định thương
mại như là một sự thay thế được sử dụng trong các vụ kiện NME khi không
có các quốc gia thay thế12. Trong Đạo luật Cạnh tranh và
Thương mại 1988, Nghị viện Hoa Kỳ đã ban hành một số đổi mới đối với
luật chống bán phá giá, bắt đầu là định nghĩa NME, cũng như là đặt ra
quy định DOC đưa ra và xem xét khi nào thì một quốc gia cụ thể được xem
là NME. Theo đó, một quốc gia được coi là NME khi “không hoạt động theo
nguyên tắc thị trường của cơ cấu giá và chi phí, vì thế doanh số bán
hàng của hàng hóa trong quốc gia đó không phản ánh được giá trị thông
thường của hàng hóa”. Đạo luật quy định US DOC sẽ đưa ra sáu tiêu chí để
xem xét trước khi quyết định, bao gồm:
1. Mức độ chuyển đổi của đồng nội tệ;
2. Mức độ theo đó mức lương được xác định thông qua đàm phán tự do giữa người lao động và đơn vị sử dụng lao động;
3. Mức độ theo đó việc liên doanh hoặc các dự án đầu tư nước ngoài được phép thực hiện;
4. Mức độ sở hữu của chính phủ hoặc kiểm soát của các phương tiện sản xuất;
5. Mức độ kiểm soát của chính phủ về việc phân bổ các nguồn lực, giá cả và sản lượng của doanh nghiệp;
6. Các tiêu chí khác do DOC đưa ra;13
Như
vậy, với năm tiêu chí đầu tiên là có các giới hạn cụ thể để các quốc
gia có nền kinh tế NME như Việt Nam có thể phấn đấu để đạt được (mặc dù
là rất khó khăn để đáp ứng được các tiêu chí này). Tuy nhiên, với tiêu
chí thứ sáu: “các tiêu chí khác do DOC đưa ra” là các tiêu chí nào? Đây
là điều luật hết sức mơ hồ và không một quốc gia nào có thể đáp ứng được
nếu như không có sự đồng ý của DOC. Bởi vì, cho dù quốc gia đó đã đáp
ứng được năm tiêu chí đầu thì DOC vẫn có quyền đưa vào các tiêu chí khác
mà họ thích. Vì thế, quyết định vấn đề có được công nhận nền kinh tế
thị trường hay không là do chính phủ Hoa Kỳ, tùy bối cảnh chính trị của
họ vui hay buồn mà thôi.
(1)
Alexander Polouektov, “Nền kinh tế phi thị trường” (The Non-Market
Economy-NME) Quy định trong thương mại quốc tế: Trong bối cảnh gia nhập
WTO, Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển, NCTAD/DITC/TNCD/MISC.20, 9/10/ 2002.
(2) Như trên.
(3) GATT 1994.
(4) John H. Jackson, William J. Davey, và Alan
O. Sykes, trang 721-722 (trích dẫn từ Longyue Zhao và Yan Wang, Các
biện pháp thương mại và các nền kinh tế phi thị trường: Ý nghĩa kinh tế
của vụ kiện chống trợ cấp đầu tiên của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, tháng
3/2008.)
(5)
Trần Thu Hường,Quy chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật CMBG
của EU và thực tiễn áp dụng trong các vụ kiện đối với hàng hóa Việt Nam,
2010.
(6)
Các Thuật ngữ Hải quan của UNCTAD có thể được tìm thấy trong hệ thống
tự động về dữ liệu Hải quan (ASYCUDA). ASYCUDA được phát triển bởi
UNCTAD, và sẽ đưa vào tài khoản các mã số và chất lượng quốc tế được
phát triển bởi ISO (International Organization for Standardization), WCO
(World Customs Organization) và Liên hợp quốc.
(7) Như trên, xem ‘nền kinh tế thị trường -market economy’.
(8) Như trên, xem ‘ nền kinh tế phi thị trường - non-market economy’.
(9) Như trên, xem Nhóm D.
(10)
Longyue Zhao và Yan Wang,Các biện pháp thương mại và các nền kinh tế
phi thị trường: Ý nghĩa kinh tế của vụ kiện chống trợ cấp đầu tiên của
Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, tháng 3/ 2008.
(11)
Tại thời điểm đó, Bộ Tài chính Hoa Kỳ là cơ quan chịu trách nhiệm pháp
lý về các biện pháp khắc phục thương mại trong nước cho đến khi thông
qua đạo luật hiệp định thương mại năm 1979, theo đó cơ quan quản lý được
chuyển từ Bộ Tài chính sang Bộ Thương mại.
(12)
Tatelman, B. Todd.Pháp luật về các biện pháp thương mại và các nền kinh
tế phi thị trường: Một tổng quan về pháp lý, 23/4/ 2007.
(13) Đạo luật 19 U.S.C. § 1677(18) (B) (2000).
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét