Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Các hành vi cạnh tranh bị cấm trong Dự thảo Luật giá

Dưới góc độ cạnh tranh, giá của sản phẩm luôn là phương diện cạnh tranh cơ bản và kinh điển để doanh nghiệp lôi kéo khách hàng và ganh đua với nhau. Quyền tự do cạnh tranh đòi hỏi pháp luật tạo hành lang pháp lý rộng rãi cho doanh nghiệp trong việc định giá cạnh tranh của sản phẩm. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định hai nhóm hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Dự thảo Luật giá (Dự luật giá) cũng đưa ra những hành vi bị cấm, trong đó có nhiều hành vi liên quan đến cạnh tranh. Vì vậy, Dự luật giá cần được nghiên cứu liên kết với Luật Cạnh tranh về vấn đề này.
1. Khảo sát về các hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá
Điều 10 Dự luật giá quy định các hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh. Theo đó,
Thứ nhất, những hành vi trên có thể đã là đối tượng điều chỉnh của những lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật cạnh tranh, pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và pháp luật quản lý giá. Sự dẫn chiếu pháp luật trong Dự luật giá chưa đầy đủ và chưa theo đúng tinh thần của các văn bản pháp luật có liên quan. Ví dụ, Dự luật giá cấm hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về chống bán phá giá. Trong lý thuyết và trong thực tiễn pháp luật, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu không là hành vi vi phạm pháp luật. Trong thương mại quốc tế, hiện tượng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá đơn giản chỉ là sự khác biệt giữa giá xuất khẩu của hàng hóa và giá thông thường của hàng hóa tương tự (trong đó giá xuất khẩu thấp hơn giá thông thường). Hiện tượng này có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sự khác biệt về chi phí, sức ép cạnh tranh, từ những toan tính chiếm đoạt thị trường… Do đó, không thể gắn mọi trường hợp hàng hóa nhập khẩu bán phá giá với hành vi cạnh tranh bất chính. Nhà nước chỉ áp dụng biện pháp chống bán phá giá khi thỏa mãn đủ các điều kiện: hàng hóa nhập khẩu bị kết luận có bán phá giá; có thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước; có quan hệ nhân quả giữa việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước. Ngay cả khi thỏa mãn các điều kiện trên, pháp luật chỉ cho phép cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để chấm dứt hiện tượng bán phá giá, chấm dứt khả năng gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước bằng các biện pháp khắc phục thiệt hại như thuế chống bán phá giá mà không áp dụng các biện pháp xử lý người thực hiện hành vi như một chủ thể vi phạm pháp luật. Vì vậy, hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu không phải là hành vi bị cấm theo pháp luật chống bán phá giá.
Thứ hai, Ban soạn thảo đã sắp xếp các hành vi bị cấm một cách khá lộn xộn và không theo bất kỳ tiêu chí nào nên đã có sự trùng lặp về hành vi. Sự trùng lắp thể hiện rõ trong quy định tại Khoản 1 và Khoản 5 Điều 10 Dự luật giá. Khoản 1 cấm hành vi liên kết với các tổ chức, cá nhân khác để tác động làm sai lệch giá, liên kết độc quyến ấn định mức giá bán (hoặc giá mua) bất hợp lý gây tổn hại đến quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng hoặc các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và của Nhà nước; Khoản 5 cấm hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp không đúng quy định của pháp luật. Hai hành vi này đều có chung hình thức biểu hiện là các doanh nghiệp liên kết để chi phối giá thị trường bằng việc thỏa thuận ấn định giá mua hoặc giá bán hàng hóa, dịch vụ; mục đích của hai hành vi này đều có thể là ấn định giá để bóc lột khách hàng hoặc để gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh không tham gia thỏa thuận. Nếu dựa vào câu chữ, có thể hình dung rằng liên kết độc quyền về giá là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp để tạo ra mức giá độc quyền (không còn cạnh tranh) trên thị trường. Đương nhiên, giá độc quyền sẽ xuất hiện trong trường hợp thỏa thuận giá có sự tham gia của tất cả các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường liên quan. Thỏa thuận ấn định giá trực tiếp hoặc gián tiếp là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường (có thể toàn bộ doanh nghiệp hoặc một số doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị trường liên quan). Vì vậy, liên kết độc quyền ấn định mức giá bán hoặc giá mua hàng hóa dịch vụ là một loại của thỏa thuận ấn định giá với mức độ tham gia bao gồm tất cả doanh nghiệp có trên thị trường liên quan.
2. Định danh hành vi không chuẩn xác nếu nhìn dưới góc độ pháp luật cạnh tranh
2.1. Các hành vi có sự liên kết giữa các doanh nghiệp
Trong Điều 10 của Dự luật giá, hai hành vi bị cấm tại Khoản 1, Khoản 5 như đã nêu trên có hình thức là sự thỏa thuận về giá giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Những hành vi trên mang bản chất hạn chế cạnh tranh về giá trên thị trường bằng các cách thức tạo ra thị trường không có giá cạnh tranh để bóc lột khách hàng hoặc tạo ra mức giá có sức cạnh tranh hủy diệt đối thủ để ngăn cản sự phát triển của thị trường cạnh tranh.
Trong lý thuyết cạnh tranh, hai hành vi trên đều được gọi là thỏa thuận giá gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận này bao gồm hai loại có mục đích và đối tượng bị xâm hại khác nhau:
- Thỏa thuận ấn định giá mua hoặc giá bán hàng hóa, dịch vụ nhằm bóc lột khách hàng. Loại thỏa thuận này được thực hiện với hình thức các doanh nghiệp thống nhất cùng nhau áp dụng mức giá hoặc cách thức tính giá gây bất lợi cho khách hàng. Thỏa thuận này sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho khách hàng khi quyền lựa chọn của người tiêu dùng bị hạn chế bởi các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận có thể (i) chi phối được giá thị trường, làm cho giá bán trên thị trường tăng cao hoặc giá mua bị giảm xuống; (ii) là nguồn cung hoặc nguồn cầu lớn trên thị trường. Do đó, Luật Cạnh tranh năm 2004 (Luật CT) chỉ cấm các thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm từ 30% trở lên trên thị trường liên quan.
- Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ để ngăn cản doanh nghiệp khác gia nhập thị trường hoặc phát triển kinh doanh hoặc để loại bỏ doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận ra khỏi thị trường. Lý thuyết cạnh tranh còn gọi hành vi này là định giá cướp đoạt (hủy diệt) hoặc định giá ngăn cản đối thủ cạnh tranh. Hành vi định giá cướp đoạt hoặc định giá ngăn cản không bị cấm đoán vì nó khiến giá hàng hóa giảm ở hiện tại mà vì những lo ngại về khả năng suy giảm sản lượng hoặc giá tăng vọt trong tương lai1.
Trong Dự luật giá, mặc dù không trực tiếp gọi tên loại thỏa thuận này, song với cách thức mô tả liên kết độc quyền ấn định mức giá bán (hoặc giá mua) bất hợp lý gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng hoặc của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác… cho thấy việc gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác có thể là gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh là khách hàng hoặc là đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia liên kết. Trong trường hợp gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh thì hành vi liên kết độc quyền giá có thể là thỏa thuận ấn định giá nhằm ngăn cản hoặc loại bỏ đối thủ không tham gia liên kết.
Khoản 6 và Khoản 7 Điều 8 Luật CT quy định thỏa thuận ấn định giá để ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc kìm hãm không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh hoặc loại bỏ doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận ra khỏi thị trường là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Điều 9 Luật CT sử dụng nguyên tắc cấm tuyệt đối đối với các thỏa thuận này.
Đối chiếu các quy định trong Dự luật giá với lý thuyết cạnh tranh và các quy định trong pháp luật cạnh tranh có liên quan đến hành vi liên kết ấn định giá, theo chúng tôi, Dự luật giá đã tách thỏa thuận ấn định giá thành hai hành vi khác nhau không dựa trên tính chất và biểu hiện của hành vi mà dựa trên mức độ chi phối thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Theo đó, liên kết độc quyền ấn định giá là thỏa thuận ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà chủ thể tham gia bao gồm tất cả doanh nghiệp hoạt động trên thị trường liên quan (loại trừ hoàn toàn cạnh tranh về giá trên thị trường). Do đó, mức độ nguy hại của liên kết độc quyền ấn định giá cao hơn so với các thỏa thuận ấn định giá khác vì đã loại bỏ hoàn toàn khả năng lựa chọn của khách hàng về giá của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Có thể ý định của Ban soạn thảo trong việc tách liên kết độc quyền ấn định giá thành một hành vi độc lập so với thỏa thuận ấn định giá để tạo cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp quản lý giá như kiểm soát các yếu tố hình thành giá, kiểm soát giá độc quyền. Những biện pháp này không áp dụng đối với các thỏa thuận ấn định giá không tạo nên độc quyền giá. Tuy nhiên, cách giải quyết này không thật sự thuyết phục cả về lý luận lẫn thực tiễn pháp luật: (i) chúng ta không thể sử dụng hai tên gọi khác nhau cho cùng một loại hành vi. Thỏa thuận giữa các doanh nghiệp về giá sản phẩm cần phải được gọi tên thống nhất theo biểu hiện của hành vi. Số lượng doanh nghiệp tham gia hoặc mức độ độc quyền hóa về giá chỉ cho thấy khả năng chi phối thị trường của thỏa thuận mà không thể làm chuyển hóa tên gọi và bản chất của hành vi. Với cách tiếp cận hiện tại, các quy định về hành vi vi phạm pháp luật trong Dự luật giá sẽ bị lộn xộn và cho thấy ban soạn thảo không phân biệt được và bị nhầm lẫn về tính chất của một hành vi hạn chế cạnh tranh với khả năng chi phối thị trường của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; (ii) có sự khác biệt giữa Dự luật giá với Luật CT. Yêu cầu về tính thống nhất của pháp luật đòi hỏi Ban soạn thảo một văn bản phải tham khảo và liên kết với các văn bản pháp luật khác đã được ban hành và đang có hiệu lực nhằm phân định phạm vi điều chỉnh, đặt ra các nguyên tắc để giải quyết những mâu thuẫn và khác biệt, tránh chồng chéo giữa các quy định về cùng một vấn đề. Với những phân tích trên, thỏa thuận ấn định giá và liên kết độc quyền ấn định giá hàng hóa, dịch vụ được đưa ra trong Dự luật giá cũng đã được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật CT. Theo đó, dù thỏa thuận có sự tham gia của toàn bộ hay một phần doanh nghiệp trên thị trường liên quan thì Luật CT cũng gọi tên chung là thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Chưa bàn luận đến cấu thành pháp lý của hành vi, chỉ xem xét về tên gọi đã có sự khác nhau trong quy định giữa Luật CT và Dự luật giá. Không phải là đạo luật thay thế hay bổ sung cho Luật CT, nếu Luật giá có đề cập đến các hành vi hạn chế cạnh tranh làm căn cứ áp dụng các biện pháp quản lý nhà nước về giá mà không kế thừa tên gọi và các quy định tương ứng của Luật CT là không hợp lý. Điều đó cho thấy Ban soạn thảo Luật giá chưa thực sự tôn trọng tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
2.2. Hành vi do một doanh nghiệp thực hiện
Theo Điều 10 Dự luật giá, một số hành vi bị cấm vì gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường nhưng không có dấu hiệu của sự liên kết giữa nhiều doanh nghiệp bao gồm:
- Lạm dụng vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh thị trường ấn định mức giá bán (hoặc giá mua) bất hợp lý gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng hoặc các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và của Nhà nước;
- Chào giá hoặc áp dụng giá bán hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng quá thấp, bất hợp lý so với giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc độc chiếm thị trường, làm đảo lộn trật tự sản xuất và kinh doanh gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác hoặc lợi ích của Nhà nước;
- Áp dụng phân biệt về giá (bao gồm phân biệt cả về giá bán buôn hoặc giá bán lẻ) khi cung cấp cùng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân khác nhau.
Những hành vi trên phát sinh trong quá trình định giá hàng hóa, dịch vụ nhưng lại nhằm thực hiện các chính sách cạnh tranh của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các chính sách cạnh tranh được thể hiện thông qua mục đích của hành vi là bóc lột khách hàng hoặc chiếm đoạt thị trường của đối thủ cạnh tranh. Vì các hành vi trên được xem xét từ góc độ cạnh tranh nên chúng cũng được quy định trong pháp luật cạnh tranh. Điều 13 Luật CT cấm các hành vi: bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh; áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng; áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Vấn đề đặt ra cho việc nghiên cứu là đối chiếu các quy định hiện hành của Luật CT với các ý tưởng lập pháp có trong Dự luật giá về những hành vi trên để xác định mối tương quan giữa hai văn bản pháp luật này, loại bỏ những quy định trùng nhau không cần thiết hoặc những ý tưởng lập pháp chưa đúng, hoặc những ý tưởng lập pháp có thể tạo chồng chéo giữa các văn bản pháp luật. Trong quá trình rà soát, chúng tôi nhận thấy:
Một là, trong ba hành vi trên, Dự luật giá chỉ dự liệu một trường hợp áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan là hành vi ấn định giá bất hợp lý gây thiệt hại cho người tiêu dùng, cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác. Với hai hành vi còn lại, Dự luật giá không đặt ra điều kiện về chủ thể. Do đó, có thể hiểu rằng hai hành vi này bị cấm cho dù chủ thể thực hiện hành vi có hoặc không có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường. Cách tiếp cận này đưa đến những hệ quả khó lường về lý thuyết và tính thống nhất của hệ thống pháp luật:
- Về lý thuyết, các hành vi trên bị cấm vì gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể thực hiện hành vi trên đều có thể làm hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Để có thể gây hạn chế cạnh tranh, chủ thể thực hiện hành vi phải có khả năng chi phối thị trường (có quyền lực thị trường); nếu không, các hành vi trên không thể gây hậu quả hạn chế cạnh tranh mà ngược lại thị trường sẽ tự trừng phạt người thực hiện hành vi. Nhà nước và pháp luật chưa cần can thiệp khi thị trường tự điều tiết qua cơ chế trừng phạt tự nhiên.
- Với ba hành vi tương tự, Điều 13 Luật CT chỉ cấm khi doanh nghiệp thực hiện hành vi là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, có vị trí độc quyền. Như vậy, có sự khác nhau giữa Luật CT và Dự luật giá về xử lý đối với hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ và hành vi phân biệt đối xử về giá. Sự khác nhau này có thể hiểu theo những giả định sau: (1) Dự luật giá đã mở rộng khả năng điều chỉnh của pháp luật về mặt chủ thể so với Luật CT. Những hành vi trên do doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền thực hiện sẽ xử lý theo Luật CT. Trường hợp chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp không có vị trí thống lĩnh sẽ bị xử lý theo Luật giá. Tuy nhiên, nếu hiểu theo cách này thì Dự luật giá đã can thiệp khá sâu vào thị trường và làm thay những việc mà thị trường có thể tự điều tiết. (2) Đã có mâu thuẫn giữa Luật CT và những quy định của Dự luật giá. Giả định này cho thấy Ban soạn thảo Dự luật giá chưa tham khảo ở mức độ hợp lý về cơ chế điều chỉnh của Luật CT đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Dù với giả định nào thì thực trạng trên sẽ tạo ra một hệ quả không mong muốn là hai văn bản pháp luật quy định về cùng một vấn đề với nội dung khác nhau. Dưới góc độ chính sách, thực trạng này làm cho chính sách cạnh tranh liên quan đến giá sẽ bị lẫn lộn và không nhất quán. Nhà nước dường như chưa thực sự tin tưởng vào sự tự vận hành của thị trường. Dưới góc độ pháp lý, cùng một hành vi với mục đích và cấu thành pháp lý giống nhau nhưng chịu sự điều chỉnh bởi hai văn bản khác nhau. Sự mâu thuẫn và khác biệt về luật điều chỉnh sẽ gây ra những phức tạp và tranh cãi về khoa học, quá trình sử dụng pháp luật để tự bảo vệ mình của các doanh nghiệp.
Hai là, tên gọi (kèm theo đó là cấu thành pháp lý) của các hành vi trên phức tạp đến mức không cần thiết. Nhận định được chứng minh qua quy định về hai hành vi: (i) lạm dụng vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh thị trường ấn định mức giá bán (hoặc giá mua) bất hợp lý gây tổn hại đến quyền lợi của người tiêu dùng hoặc các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác và của Nhà nước. Với cách mô tả như trên, một trong những yếu tố bắt buộc phải chứng minh khi xác định hành vi vi phạm là tổn hại thực tế xảy ra đối với người tiêu dùng hoặc với các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác hoặc của Nhà nước. Điều này rất khó thực hiện, nhất là đối với tổn hại đến quyền lợi của người tiêu dùng bởi tính đơn lẻ, nhỏ nhặt trong quyền lợi của từng người tiêu dùng cụ thể khi mua hàng hóa, dịch vụ từ doanh nghiệp. Với những sản phẩm tiêu dùng có giá trị không lớn, việc ấn định giá bất hợp lý có thể chỉ là sự chênh lệch với giá trị không cao (vài nghìn đồng) so với giá cạnh tranh thì thiệt hại mà từng người tiêu dùng phải chịu trên một sản phẩm là không lớn. Tuy nhiên, nếu xác định trong tổng thể toàn bộ thị trường thì doanh nghiệp có thể thu được khoản lợi bất chính rất lớn. Mặt khác, nhiệm vụ của việc điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh là ngăn chặn doanh nghiệp thực hiện hành vi, ngăn chặn khả năng doanh nghiệp xâm hại đến các quyền lợi hợp pháp cần được bảo vệ. Do đó, nếu đòi hỏi thiệt hại phải xảy ra để làm căn cứ xác định hành vi bị cấm thì pháp luật chỉ còn là công cụ để xử lý những sự việc đã hoàn tất và khắc phục hậu quả đã xảy ra. Khi đó, việc xử phạt người vi phạm chỉ còn có ý nghĩa răn đe cho tương lai mà chưa thực sự ngăn chặn hậu quả ngay từ khi hành vi bắt đầu được thực hiện trên thực tế. Chúng tôi cho rằng, với cách tiếp cận này thì hiệu quả điều chỉnh của pháp luật sẽ không cao đối với việc bảo vệ thị trường cạnh tranh, bởi khi thị trường đã bị tổn thương thì việc phục hồi môi trường cạnh tranh không đơn giản và không thể tiến hành một cách nhanh chóng; (ii) Chào giá hoặc áp dụng giá bán hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng quá thấp bất hợp lý so với giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc độc chiếm thị trường, làm đảo lộn trật tự sản xuất và kinh doanh gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác hoặc lợi ích của Nhà nước. Trong quy định này, một số dấu hiệu về hành vi mang tính định tính như làm đảo lộn trật tự sản xuất kinh doanh và câu chữ lộn xộn với các ý tưởng lặp lại. Đối với hành vi này, dấu hiệu quan trọng nhất của hành vi là bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Các nội dung khác chỉ là hệ quả tất yếu của việc loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Do đó, nếu giữ nguyên điều luật sẽ dẫn đến kết quả là khi điều tra về hành vi, cơ quan điều tra không chỉ phải chứng minh mục đích loại bỏ đối thủ của hành vi mà còn cần chứng minh thêm các hậu quả gián tiếp kể trên. Điều đó không chỉ làm cho cấu thành pháp lý của hành vi thêm phức tạp mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật khi các dấu hiệu trên không thể xác định bằng các yếu tố định lượng. Cũng với hành vi này, Luật CT quy định đơn giản hơn. Khoản 1 Điều 13 Luật CT cấm hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Khoản 1 điều 23 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 quy định căn cứ xác định hành vi chỉ là so sánh giữa giá bán thực tế của hàng hóa dịch vụ với tổng chi phí vật tư trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí quản lý chung và chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, mục đích và hậu quả không là dấu hiệu pháp lý cấu thành của hành vi mà được xác định từ sự bất thường của giá hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp định ra. Với sự so sánh trên, cách mô tả hành vi này của Dự luật giá chỉ có ý nghĩa nghiên cứu và mang tính học thuật hơn là một quy định pháp lý để thực thi.
Ba là, quy định về hành vi phân biệt giá có sự khác biệt lớn so với Luật CT và chưa đầy đủ so với lý thuyết cạnh tranh về phân biệt giá. Khoản 4 Điều 13 Luật CT cấm hành vi áp đặt các điều kiện khác nhau (trong đó có điều kiện về giá) trong các giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh. Luật CT cấm hành vi phân biệt đối xử của doanh nghiệp với các khách hàng là doanh nghiệp (không áp dụng với hành vi phân biệt đối xử với người tiêu dùng). Theo Khoản 5 Điều 10 Dự luật giá, hành vi phân biệt giá bị cấm bao gồm phân biệt giá với các khách hàng là tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc với các khách hàng là người tiêu dùng. Dự luật giá đã mở rộng khả năng điều chỉnh của pháp luật hơn so với Luật CT. Việc mở rộng là cần thiết trong bối cảnh nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng đang là vấn đề cấp bách hiện nay. Trong thực tế, các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc có vị trí độc quyền không chỉ khai thác sự lệ thuộc của khách hàng để áp đặt các điều kiện mua bán bất lợi cho người tiêu dùng mà còn có thể thực hiện mục đích tối đa hóa doanh thu, tối đa hóa lợi nhuận bằng hành vi phân biệt giá, áp dụng các mức giá khác nhau theo nhóm khách hàng, theo khả năng chi trả của từng nhóm khách hàng… Dưới góc độ cạnh tranh, hành vi này bị coi là bất chính bởi chúng tăng khả năng bóc lột người tiêu dùng của các doanh nghiệp đang có quyền lực thị trường, xâm hại đến quyền được đối xử bình đẳng của các nhóm khách hàng.
Tuy nhiên, khi xem xét quy định trên từ góc độ của lý thuyết cạnh tranh, chúng tôi nhận thấy còn nhiều hạn chế trong cách mô tả của Dự luật giá về cấu thành pháp lý của hành vi. Trong lý thuyết cạnh tranh, phân biệt giá là hành vi của người bán hàng hóa áp dụng những mức giá khác nhau tùy theo loại khách hàng mà không dựa vào sự chênh lệch về chi phí2. Hành vi phân biệt giá được xác định dựa trên những căn cứ sau:
- Phân biệt giá được xác định từ việc so sánh giá mua bán của sản phẩm trong các giao dịch tương tự nhau với những khách hàng khác nhau.
- Các giao dịch bị phân biệt giá phải là các giao dịch tương tự nhau. Thông thường, các giao dịch được coi là tương tự nhau khi đáp ứng đủ các điều kiện:
+ Đối tượng của các giao dịch là những loại hàng hóa, dịch vụ tương tự nhau. Tính tương tự được xem xét từ các thuộc tính của sản phẩm, thành phần vật lý hay hóa học, các đặc điểm hoạt động hay chức năng của sản phẩm….
+ Các giao dịch được dùng để so sánh phải tương đương về giá trị. Điều này phụ thuộc vào trị giá của sản phẩm và số lượng, khối lượng được mua bán trong giao dịch. Trong thực tế, các doanh nghiệp có thể thực hiện những chiến lược dành ưu đãi cho các giao dịch có giá trị lớn3, có tính thường xuyên hoặc thưởng tăng trưởng4...
+ Thời điểm xác lập các giao dịch là những thời điểm mà điều kiện thị trường giống nhau. Điều này không có nghĩa là chúng phải được hình thành tại cùng một thời điểm. Thời điểm xác lập có thể khác nhau nhưng trong khoảng thời gian đó, điều kiện thị trường chưa thay đổi, hoặc nếu có thay đổi thì mức độ thay đổi chưa đủ để làm cho điều kiện thương mại phải khác nhau giữa các giao dịch5.
+ Các giao dịch được dùng để so sánh phải nằm ở những công đoạn tương đương của quá trình phân phối, tiêu thụ (tương xứng về cấp độ thương mại).
- Có sự phân khúc thị trường để ngăn chặn khả năng thông đồng giữa các nhóm khách hàng nói trên hoặc ngăn chặn hành vi đầu cơ làm vô hiệu việc phân biệt giá.
- Lý thuyết phân biệt giá còn đặt ra yêu cầu về tính chiến lược của hành vi phân biệt giá. Chỉ cấu thành hành vi phân biệt giá nếu việc áp dụng các mức giá khác nhau có tính hệ thống hoặc phản ánh chiến lược bán hàng lâu dài của doanh nghiệp.
Đối chiếu với các nội dung cơ bản trong lý thuyết về phân biệt giá, có thể dễ dàng nhận thấy rằng cấu thành pháp lý của hành vi phân biệt giá được Dự luật giá đưa ra là sơ sài và đơn giản. Theo đó, hành vi của doanh nghiệp bị coi là vi phạm pháp luật khi thỏa mãn hai điều kiện: áp dụng giá khác nhau cho các khách hàng khác nhau; các khách hàng trên đã mua cùng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ từ doanh nghiệp thực hiện hành vi. Như vậy, tính tương tự của các giao dịch chỉ được xem xét từ góc độ đối tượng mua bán và hành vi phân biệt giá chỉ áp dụng đối với hành vi cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà không áp dụng đối với việc mua sản phẩm từ nhiều khách hàng (phân biệt giá mua). Nếu điều khoản này được thông qua thì điều luật vừa lỏng lẻo, vừa khắc nghiệt đối với các doanh nghiệp. Pháp luật sẽ trở nên lỏng lẻo khi thiếu vắng các quy định điều tiết hành vi của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường mua sản phẩm. Ảnh hưởng của quy định trên đến quyền định giá hàng hóa, dịch vụ cho thấy sự khắc nghiệt của các ý định lập pháp có trong Dự luật giá. Theo đó, (i) doanh nghiệp không thể linh hoạt định đoạt giá hàng hóa, dịch vụ theo giá trị của giao dịch, theo thời điểm giao kết hợp đồng, theo tính liên tục hay vãng lai của giao dịch, theo khả năng đàm phán của khách hàng… Điều này sẽ làm cho diễn biến giá của một loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể trở nên khô cứng. Quyền định giá của doanh nghiệp sẽ chỉ là đàm phán ấn định một mức giá duy nhất cho mọi giao dịch có cùng đối tượng mua bán; (ii) doanh nghiệp sẽ dễ dàng vi phạm điều cấm của pháp luật và dễ dàng bị quy kết là phân biệt giá nếu áp dụng mức giá khác nhau cho các khách hàng. Điều luật có thể bị các doanh nghiệp khác lợi dụng để làm phiền doanh nghiệp khi có sự khác biệt về giá (không phải là phân biệt giá) trong những giao dịch chỉ giống nhau về đối tượng mà không hoàn toàn tương tự ở các khía cạnh khác; (iii) doanh nghiệp sẽ dễ dàng bị kết luận là phân biệt giá khi có sự khác nhau về giá giữa hai giao dịch mua bán cùng một loại hàng hóa, dịch vụ cho dù sự khác biệt này chỉ là đơn nhất và nhất thời (không mang tính hệ thống).
3. Một số đề xuất
Với những phân tích trên, theo chúng tôi, Ban soạn thảo Dự luật giá cần có sự rà soát và nghiên cứu lại các quy định về những hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá theo tinh thần:
Một là, tạo lập mối tương quan pháp lý giữa Luật giá với Luật CT về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá. Theo đó, Dự luật không nên đưa ra khái niệm liên kết độc quyền về giá; không nên mở rộng phạm vi quản lý giá đến phần xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá như thỏa thuận ấn định giá, định giá nhằm loại bỏ đối thủ, phân biệt giá… Dự luật giá được xây dựng nhằm thiết lập cơ chế quản lý giá nên các hành vi bị cấm nên tập trung vào các hành vi trực tiếp xâm hại đến các cơ chế quản lý về giá như hành vi vi phạm các biện pháp bình ổn giá, thẩm định giá, hiệp thương giá… Các hành vi hạn chế cạnh tranh về giá sẽ do Luật CT xử lý bằng cơ chế mà đạo luật này quy định. Có như vậy, chúng ta không chỉ đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật mà còn đảm bảo được sự phối hợp, đồng nhất trong các cơ chế quản lý nhà nước đối với thị trường và các bộ phận cấu thành nên thị trường.
Hai là, khi thiết kế các quy định về hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá, Ban soạn thảo cần xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước và pháp luật vào thị trường trên tinh thần Nhà nước chỉ sử dụng các biện pháp quản lý hành chính đối với thị trường khi và chỉ khi các quy luật thị trường bị vô hiệu hóa hoặc không thể tự điều tiết. Trong môi trường cạnh tranh, dưới sức ép của cạnh tranh dù là lành mạnh hoặc không lành mạnh, các doanh nghiệp tự phải điều tiết hành vi của mình và có thể phải gánh chịu những thiệt hại nhất định (ngay cả khi sự cạnh tranh là lành mạnh thì vẫn có khả năng một hoặc một số doanh nghiệp chịu thiệt hại và phải rút khỏi thị trường trước sức ép cạnh tranh từ các đối thủ khác). Nhà nước phải phân định các trường hợp và xác định thời điểm can thiệp vào các quan hệ cạnh tranh để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh và phát huy tối ưu hiệu quả của cạnh tranh trên thị trường. Với quy luật vận hành tự có, thị trường vẫn có thể tự điều tiết ngay cả khi có hành vi cạnh tranh với mục đích và cách thức không lành mạnh. Không phải mọi trường hợp xuất hiện sự cạnh tranh thiếu lành mạnh đều có thể làm vô hiệu quy luật thị trường. Sự khôn ngoan của người thiết kế khung pháp lý về quản lý thị trường là xây dựng được cơ chế vừa đảm bảo cho sự tự vận hành của thị trường vừa đảm bảo hỗ trợ các quy luật vận hành đó khi thực sự cần thiết. Trong nội dung về xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh về giá, Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ lưỡng cách thức vận hành của hành vi để xem xét khả năng và điều kiện gây hậu quả cho thị trường cạnh tranh để thiết kế cấu thành pháp lý phù hợp. Có như vậy, các quy định sẽ có độ linh hoạt và có giá trị ứng dụng thích ứng với thị trường vốn phát triển và thay đổi không ngừng.
Ba là, trong trường hợp Dự luật giá cần quy định về các hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá để đảm bảo cho cơ chế quản lý giá được đầy đủ thì các quy định về những hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực giá phải tiếp thu những quy định tương ứng trong Luật CT và phải dẫn chiếu đến cơ chế xử lý của Luật CT. Theo đó, cần mạnh dạn chấm dứt tư tưởng cát cứ pháp lý trong việc xây dựng các chế định pháp luật về quản lý thị trường mà cần có sự phối hợp trong việc quản lý các vấn đề liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Các hành vi hạn chế cạnh tranh về giá đã được quy định trong Luật CT cần được xử lý theo đúng Luật CT do các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh giải quyết. Với những trường hợp chưa được quy định trong Luật CT như trường hợp phân biệt đối xử về giá đối với người tiêu dùng thì Luật giá có thể quy định nhưng bổ sung thẩm quyền cho cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh hoặc pháp luật bảo vệ người tiêu dùng nếu chúng ta chưa có điều kiện sửa đổi, bổ sung hai đạo luật đó.
(1) Cơ quan phát triển quốc tế Canada (Dự án hỗ trợ thức thi chính sách PIAP), Luật Cạnh tranh Canada, một số hướng dẫn thi hành, Nxb. Giao thông vận tải, 2006, tr. 286-302.
(2) Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi luật và chính sách cạnh tranh, Bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tài liệu Ban soạn thảo Luật Cạnh tranh, tr 171.
(3) Còn gọi tính kinh tế nhờ quy mô dẫn đến việc giảm giá thành đơn vị của sản phẩm được mua bán.
(4) Thưởng tăng trưởng là việc doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch chiết khấu cho những khách hàng có sự gia tăng về khối lượng, giá trị mua so với kỳ giao dịch trước.
(5) Xem thêm Nguyễn Như Phát – Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các quy định của Luật CT về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2006, tr. 180-182.


Nguồn: NCLP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét