Dưới
góc độ cạnh tranh, giá của sản phẩm luôn là phương diện cạnh tranh cơ
bản và kinh điển để doanh nghiệp lôi kéo khách hàng và ganh đua với
nhau. Quyền tự do cạnh tranh đòi hỏi pháp luật tạo hành lang pháp lý
rộng rãi cho doanh nghiệp trong việc định giá cạnh tranh của sản phẩm.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định hai nhóm hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành
vi hạn chế cạnh tranh. Dự thảo Luật giá (Dự luật giá) cũng đưa ra những
hành vi bị cấm, trong đó có nhiều hành vi liên quan đến cạnh tranh. Vì
vậy, Dự luật giá cần được nghiên cứu liên kết với Luật Cạnh tranh về vấn
đề này.
1. Khảo sát về các hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá
Điều 10 Dự luật giá quy định các hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh. Theo đó,
Thứ nhất,
những hành vi trên có thể đã là đối tượng điều chỉnh của những lĩnh vực
pháp luật khác như pháp luật cạnh tranh, pháp luật chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và pháp luật quản lý giá. Sự dẫn chiếu
pháp luật trong Dự luật giá chưa đầy đủ và chưa theo đúng tinh thần của
các văn bản pháp luật có liên quan. Ví dụ, Dự luật giá cấm hành vi bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về
chống bán phá giá. Trong lý thuyết và trong thực tiễn pháp luật, bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu không là hành vi vi phạm pháp luật. Trong thương
mại quốc tế, hiện tượng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá đơn giản chỉ là
sự khác biệt giữa giá xuất khẩu của hàng hóa và giá thông thường của
hàng hóa tương tự (trong đó giá xuất khẩu thấp hơn giá thông thường).
Hiện tượng này có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sự
khác biệt về chi phí, sức ép cạnh tranh, từ những toan tính chiếm đoạt
thị trường… Do đó, không thể gắn mọi trường hợp hàng hóa nhập khẩu bán
phá giá với hành vi cạnh tranh bất chính. Nhà nước chỉ áp dụng biện pháp
chống bán phá giá khi thỏa mãn đủ các điều kiện: hàng hóa nhập khẩu bị
kết luận có bán phá giá; có thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước; có quan hệ nhân quả giữa việc
hàng hóa nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất
trong nước. Ngay cả khi thỏa mãn các điều kiện trên, pháp luật chỉ cho
phép cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để chấm dứt
hiện tượng bán phá giá, chấm dứt khả năng gây thiệt hại cho ngành sản
xuất trong nước bằng các biện pháp khắc phục thiệt hại như thuế chống
bán phá giá mà không áp dụng các biện pháp xử lý người thực hiện hành vi
như một chủ thể vi phạm pháp luật. Vì vậy, hành vi bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu không phải là hành vi bị cấm theo pháp luật chống bán phá
giá.
Thứ hai,
Ban soạn thảo đã sắp xếp các hành vi bị cấm một cách khá lộn xộn và
không theo bất kỳ tiêu chí nào nên đã có sự trùng lặp về hành vi. Sự
trùng lắp thể hiện rõ trong quy định tại Khoản 1 và Khoản 5 Điều 10 Dự
luật giá. Khoản 1 cấm hành vi liên kết với các tổ chức, cá nhân khác để
tác động làm sai lệch giá, liên kết độc quyến ấn định mức giá bán (hoặc
giá mua) bất hợp lý gây tổn hại đến quyền lợi hợp pháp của người tiêu
dùng hoặc các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và của Nhà
nước; Khoản 5 cấm hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp không đúng quy định của pháp luật. Hai
hành vi này đều có chung hình thức biểu hiện là các doanh nghiệp liên
kết để chi phối giá thị trường bằng việc thỏa thuận ấn định giá mua hoặc
giá bán hàng hóa, dịch vụ; mục đích của hai hành vi này đều có thể là
ấn định giá để bóc lột khách hàng hoặc để gây thiệt hại cho các đối thủ
cạnh tranh không tham gia thỏa thuận. Nếu dựa vào câu chữ, có thể hình
dung rằng liên kết độc quyền về giá là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp
để tạo ra mức giá độc quyền (không còn cạnh tranh) trên thị trường.
Đương nhiên, giá độc quyền sẽ xuất hiện trong trường hợp thỏa thuận giá
có sự tham gia của tất cả các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường
liên quan. Thỏa thuận ấn định giá trực tiếp hoặc gián tiếp là thỏa thuận
giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường (có thể toàn bộ doanh nghiệp
hoặc một số doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị trường liên quan). Vì
vậy, liên kết độc quyền ấn định mức giá bán hoặc giá mua hàng hóa dịch
vụ là một loại của thỏa thuận ấn định giá với mức độ tham gia bao gồm
tất cả doanh nghiệp có trên thị trường liên quan.
2. Định danh hành vi không chuẩn xác nếu nhìn dưới góc độ pháp luật cạnh tranh
2.1. Các hành vi có sự liên kết giữa các doanh nghiệp
Trong
Điều 10 của Dự luật giá, hai hành vi bị cấm tại Khoản 1, Khoản 5 như đã
nêu trên có hình thức là sự thỏa thuận về giá giữa các tổ chức, cá nhân
kinh doanh. Những hành vi trên mang bản chất hạn chế cạnh tranh về giá
trên thị trường bằng các cách thức tạo ra thị trường không có giá cạnh
tranh để bóc lột khách hàng hoặc tạo ra mức giá có sức cạnh tranh hủy
diệt đối thủ để ngăn cản sự phát triển của thị trường cạnh tranh.
Trong
lý thuyết cạnh tranh, hai hành vi trên đều được gọi là thỏa thuận giá
gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận này bao gồm hai loại
có mục đích và đối tượng bị xâm hại khác nhau:
-
Thỏa thuận ấn định giá mua hoặc giá bán hàng hóa, dịch vụ nhằm bóc lột
khách hàng. Loại thỏa thuận này được thực hiện với hình thức các doanh
nghiệp thống nhất cùng nhau áp dụng mức giá hoặc cách thức tính giá gây
bất lợi cho khách hàng. Thỏa thuận này sẽ gây thiệt hại cho người tiêu
dùng hoặc cho khách hàng khi quyền lựa chọn của người tiêu dùng bị hạn
chế bởi các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận có thể (i) chi phối được
giá thị trường, làm cho giá bán trên thị trường tăng cao hoặc giá mua bị
giảm xuống; (ii) là nguồn cung hoặc nguồn cầu lớn trên thị trường. Do
đó, Luật Cạnh tranh năm 2004 (Luật CT) chỉ cấm các thỏa thuận ấn định
giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp khi thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm từ 30% trở lên trên thị trường
liên quan.
-
Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ để ngăn cản doanh nghiệp khác
gia nhập thị trường hoặc phát triển kinh doanh hoặc để loại bỏ doanh
nghiệp không tham gia thỏa thuận ra khỏi thị trường. Lý thuyết cạnh
tranh còn gọi hành vi này là định giá cướp đoạt (hủy diệt) hoặc định giá
ngăn cản đối thủ cạnh tranh. Hành vi định giá cướp đoạt hoặc định giá
ngăn cản không bị cấm đoán vì nó khiến giá hàng hóa giảm ở hiện tại mà
vì những lo ngại về khả năng suy giảm sản lượng hoặc giá tăng vọt trong
tương lai1.
Trong
Dự luật giá, mặc dù không trực tiếp gọi tên loại thỏa thuận này, song
với cách thức mô tả liên kết độc quyền ấn định mức giá bán (hoặc giá
mua) bất hợp lý gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng
hoặc của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác… cho thấy việc gây thiệt
hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác có thể là gây thiệt hại cho
các tổ chức, cá nhân kinh doanh là khách hàng hoặc là đối thủ cạnh
tranh của các doanh nghiệp tham gia liên kết. Trong trường hợp gây thiệt
hại cho đối thủ cạnh tranh thì hành vi liên kết độc quyền giá có thể là
thỏa thuận ấn định giá nhằm ngăn cản hoặc loại bỏ đối thủ không tham
gia liên kết.
Khoản
6 và Khoản 7 Điều 8 Luật CT quy định thỏa thuận ấn định giá để ngăn cản
doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc kìm hãm không cho doanh
nghiệp khác phát triển kinh doanh hoặc loại bỏ doanh nghiệp không tham
gia thỏa thuận ra khỏi thị trường là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Điều
9 Luật CT sử dụng nguyên tắc cấm tuyệt đối đối với các thỏa thuận này.
Đối
chiếu các quy định trong Dự luật giá với lý thuyết cạnh tranh và các
quy định trong pháp luật cạnh tranh có liên quan đến hành vi liên kết ấn
định giá, theo chúng tôi, Dự luật giá đã tách thỏa thuận ấn định giá
thành hai hành vi khác nhau không dựa trên tính chất và biểu hiện của
hành vi mà dựa trên mức độ chi phối thị trường của các doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận. Theo đó, liên kết độc quyền ấn định giá là thỏa thuận
ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà chủ thể tham gia bao
gồm tất cả doanh nghiệp hoạt động trên thị trường liên quan (loại trừ
hoàn toàn cạnh tranh về giá trên thị trường). Do đó, mức độ nguy hại của
liên kết độc quyền ấn định giá cao hơn so với các thỏa thuận ấn định
giá khác vì đã loại bỏ hoàn toàn khả năng lựa chọn của khách hàng về giá
của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Có thể ý định của Ban soạn thảo
trong việc tách liên kết độc quyền ấn định giá thành một hành vi độc lập
so với thỏa thuận ấn định giá để tạo cơ sở cho việc áp dụng các biện
pháp quản lý giá như kiểm soát các yếu tố hình thành giá, kiểm soát giá
độc quyền. Những biện pháp này không áp dụng đối với các thỏa thuận ấn
định giá không tạo nên độc quyền giá. Tuy nhiên, cách giải quyết này
không thật sự thuyết phục cả về lý luận lẫn thực tiễn pháp luật: (i)
chúng ta không thể sử dụng hai tên gọi khác nhau cho cùng một loại hành
vi. Thỏa thuận giữa các doanh nghiệp về giá sản phẩm cần phải được gọi
tên thống nhất theo biểu hiện của hành vi. Số lượng doanh nghiệp tham
gia hoặc mức độ độc quyền hóa về giá chỉ cho thấy khả năng chi phối thị
trường của thỏa thuận mà không thể làm chuyển hóa tên gọi và bản chất
của hành vi. Với cách tiếp cận hiện tại, các quy định về hành vi vi phạm
pháp luật trong Dự luật giá sẽ bị lộn xộn và cho thấy ban soạn thảo
không phân biệt được và bị nhầm lẫn về tính chất của một hành vi hạn chế
cạnh tranh với khả năng chi phối thị trường của một thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh; (ii) có sự khác biệt giữa Dự luật giá với Luật CT. Yêu cầu
về tính thống nhất của pháp luật đòi hỏi Ban soạn thảo một văn bản phải
tham khảo và liên kết với các văn bản pháp luật khác đã được ban hành và
đang có hiệu lực nhằm phân định phạm vi điều chỉnh, đặt ra các nguyên
tắc để giải quyết những mâu thuẫn và khác biệt, tránh chồng chéo giữa
các quy định về cùng một vấn đề. Với những phân tích trên, thỏa thuận ấn
định giá và liên kết độc quyền ấn định giá hàng hóa, dịch vụ được đưa
ra trong Dự luật giá cũng đã được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật CT.
Theo đó, dù thỏa thuận có sự tham gia của toàn bộ hay một phần doanh
nghiệp trên thị trường liên quan thì Luật CT cũng gọi tên chung là thỏa
thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Chưa bàn luận đến cấu thành pháp lý của hành vi, chỉ xem xét về tên gọi
đã có sự khác nhau trong quy định giữa Luật CT và Dự luật giá. Không
phải là đạo luật thay thế hay bổ sung cho Luật CT, nếu Luật giá có đề
cập đến các hành vi hạn chế cạnh tranh làm căn cứ áp dụng các biện pháp
quản lý nhà nước về giá mà không kế thừa tên gọi và các quy định tương
ứng của Luật CT là không hợp lý. Điều đó cho thấy Ban soạn thảo Luật giá
chưa thực sự tôn trọng tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
2.2. Hành vi do một doanh nghiệp thực hiện
Theo
Điều 10 Dự luật giá, một số hành vi bị cấm vì gây hạn chế cạnh tranh
trên thị trường nhưng không có dấu hiệu của sự liên kết giữa nhiều doanh
nghiệp bao gồm:
-
Lạm dụng vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh thị trường ấn định mức giá
bán (hoặc giá mua) bất hợp lý gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng hoặc các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và
của Nhà nước;
-
Chào giá hoặc áp dụng giá bán hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng quá
thấp, bất hợp lý so với giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh hoặc độc chiếm thị trường, làm đảo lộn trật tự sản xuất và kinh
doanh gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản
xuất kinh doanh khác hoặc lợi ích của Nhà nước;
-
Áp dụng phân biệt về giá (bao gồm phân biệt cả về giá bán buôn hoặc giá
bán lẻ) khi cung cấp cùng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ cho các tổ
chức, cá nhân khác nhau.
Những
hành vi trên phát sinh trong quá trình định giá hàng hóa, dịch vụ nhưng
lại nhằm thực hiện các chính sách cạnh tranh của tổ chức, cá nhân kinh
doanh. Các chính sách cạnh tranh được thể hiện thông qua mục đích của
hành vi là bóc lột khách hàng hoặc chiếm đoạt thị trường của đối thủ
cạnh tranh. Vì các hành vi trên được xem xét từ góc độ cạnh tranh nên
chúng cũng được quy định trong pháp luật cạnh tranh. Điều 13 Luật CT cấm
các hành vi: bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh; áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ
bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách
hàng; áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch như nhau
nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Vấn
đề đặt ra cho việc nghiên cứu là đối chiếu các quy định hiện hành của
Luật CT với các ý tưởng lập pháp có trong Dự luật giá về những hành vi
trên để xác định mối tương quan giữa hai văn bản pháp luật này, loại bỏ
những quy định trùng nhau không cần thiết hoặc những ý tưởng lập pháp
chưa đúng, hoặc những ý tưởng lập pháp có thể tạo chồng chéo giữa các
văn bản pháp luật. Trong quá trình rà soát, chúng tôi nhận thấy:
Một
là, trong ba hành vi trên, Dự luật giá chỉ dự liệu một trường hợp áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân có vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh
trên thị trường liên quan là hành vi ấn định giá bất hợp lý gây thiệt
hại cho người tiêu dùng, cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác. Với
hai hành vi còn lại, Dự luật giá không đặt ra điều kiện về chủ thể. Do
đó, có thể hiểu rằng hai hành vi này bị cấm cho dù chủ thể thực hiện
hành vi có hoặc không có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị
trường. Cách tiếp cận này đưa đến những hệ quả khó lường về lý thuyết và
tính thống nhất của hệ thống pháp luật:
-
Về lý thuyết, các hành vi trên bị cấm vì gây hạn chế cạnh tranh trên
thị trường. Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể thực hiện hành vi trên đều
có thể làm hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Để có thể gây hạn chế
cạnh tranh, chủ thể thực hiện hành vi phải có khả năng chi phối thị
trường (có quyền lực thị trường); nếu không, các hành vi trên không thể
gây hậu quả hạn chế cạnh tranh mà ngược lại thị trường sẽ tự trừng phạt
người thực hiện hành vi. Nhà nước và pháp luật chưa cần can thiệp khi
thị trường tự điều tiết qua cơ chế trừng phạt tự nhiên.
-
Với ba hành vi tương tự, Điều 13 Luật CT chỉ cấm khi doanh nghiệp thực
hiện hành vi là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, có vị trí
độc quyền. Như vậy, có sự khác nhau giữa Luật CT và Dự luật giá về xử lý
đối với hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ và hành vi phân biệt đối xử về giá. Sự khác nhau này có thể hiểu
theo những giả định sau: (1) Dự luật giá đã mở rộng khả năng điều chỉnh
của pháp luật về mặt chủ thể so với Luật CT. Những hành vi trên do doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền thực hiện sẽ xử lý theo Luật
CT. Trường hợp chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp không có vị
trí thống lĩnh sẽ bị xử lý theo Luật giá. Tuy nhiên, nếu hiểu theo cách
này thì Dự luật giá đã can thiệp khá sâu vào thị trường và làm thay
những việc mà thị trường có thể tự điều tiết. (2) Đã có mâu thuẫn giữa
Luật CT và những quy định của Dự luật giá. Giả định này cho thấy Ban
soạn thảo Dự luật giá chưa tham khảo ở mức độ hợp lý về cơ chế điều
chỉnh của Luật CT đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến
giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Dù với giả định nào thì thực
trạng trên sẽ tạo ra một hệ quả không mong muốn là hai văn bản pháp luật
quy định về cùng một vấn đề với nội dung khác nhau. Dưới góc độ chính
sách, thực trạng này làm cho chính sách cạnh tranh liên quan đến giá sẽ
bị lẫn lộn và không nhất quán. Nhà nước dường như chưa thực sự tin tưởng
vào sự tự vận hành của thị trường. Dưới góc độ pháp lý, cùng một hành
vi với mục đích và cấu thành pháp lý giống nhau nhưng chịu sự điều chỉnh
bởi hai văn bản khác nhau. Sự mâu thuẫn và khác biệt về luật điều chỉnh
sẽ gây ra những phức tạp và tranh cãi về khoa học, quá trình sử dụng
pháp luật để tự bảo vệ mình của các doanh nghiệp.
Hai là,
tên gọi (kèm theo đó là cấu thành pháp lý) của các hành vi trên phức
tạp đến mức không cần thiết. Nhận định được chứng minh qua quy định về
hai hành vi: (i) lạm dụng vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh thị trường
ấn định mức giá bán (hoặc giá mua) bất hợp lý gây tổn hại đến quyền lợi
của người tiêu dùng hoặc các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác
và của Nhà nước. Với cách mô tả như trên, một trong những yếu tố bắt
buộc phải chứng minh khi xác định hành vi vi phạm là tổn hại thực tế xảy
ra đối với người tiêu dùng hoặc với các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh khác hoặc của Nhà nước. Điều này rất khó thực hiện, nhất là đối
với tổn hại đến quyền lợi của người tiêu dùng bởi tính đơn lẻ, nhỏ nhặt
trong quyền lợi của từng người tiêu dùng cụ thể khi mua hàng hóa, dịch
vụ từ doanh nghiệp. Với những sản phẩm tiêu dùng có giá trị không lớn,
việc ấn định giá bất hợp lý có thể chỉ là sự chênh lệch với giá trị
không cao (vài nghìn đồng) so với giá cạnh tranh thì thiệt hại mà từng
người tiêu dùng phải chịu trên một sản phẩm là không lớn. Tuy nhiên, nếu
xác định trong tổng thể toàn bộ thị trường thì doanh nghiệp có thể thu
được khoản lợi bất chính rất lớn. Mặt khác, nhiệm vụ của việc điều chỉnh
các hành vi hạn chế cạnh tranh là ngăn chặn doanh nghiệp thực hiện hành
vi, ngăn chặn khả năng doanh nghiệp xâm hại đến các quyền lợi hợp pháp
cần được bảo vệ. Do đó, nếu đòi hỏi thiệt hại phải xảy ra để làm căn cứ
xác định hành vi bị cấm thì pháp luật chỉ còn là công cụ để xử lý những
sự việc đã hoàn tất và khắc phục hậu quả đã xảy ra. Khi đó, việc xử phạt
người vi phạm chỉ còn có ý nghĩa răn đe cho tương lai mà chưa thực sự
ngăn chặn hậu quả ngay từ khi hành vi bắt đầu được thực hiện trên thực
tế. Chúng tôi cho rằng, với cách tiếp cận này thì hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật sẽ không cao đối với việc bảo vệ thị trường cạnh tranh,
bởi khi thị trường đã bị tổn thương thì việc phục hồi môi trường cạnh
tranh không đơn giản và không thể tiến hành một cách nhanh chóng; (ii)
Chào giá hoặc áp dụng giá bán hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng quá
thấp bất hợp lý so với giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
hoặc độc chiếm thị trường, làm đảo lộn trật tự sản xuất và kinh doanh
gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất
kinh doanh khác hoặc lợi ích của Nhà nước. Trong quy định này, một số
dấu hiệu về hành vi mang tính định tính như làm đảo lộn trật tự sản xuất
kinh doanh và câu chữ lộn xộn với các ý tưởng lặp lại. Đối với hành vi
này, dấu hiệu quan trọng nhất của hành vi là bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Các nội dung
khác chỉ là hệ quả tất yếu của việc loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Do đó,
nếu giữ nguyên điều luật sẽ dẫn đến kết quả là khi điều tra về hành vi,
cơ quan điều tra không chỉ phải chứng minh mục đích loại bỏ đối thủ của
hành vi mà còn cần chứng minh thêm các hậu quả gián tiếp kể trên. Điều
đó không chỉ làm cho cấu thành pháp lý của hành vi thêm phức tạp mà còn
ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật khi các dấu hiệu trên không
thể xác định bằng các yếu tố định lượng. Cũng với hành vi này, Luật CT
quy định đơn giản hơn. Khoản 1 Điều 13 Luật CT cấm hành vi bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh. Khoản 1 điều 23 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 quy định
căn cứ xác định hành vi chỉ là so sánh giữa giá bán thực tế của hàng
hóa dịch vụ với tổng chi phí vật tư trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp, chi phí quản lý chung và chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Như
vậy, mục đích và hậu quả không là dấu hiệu pháp lý cấu thành của hành vi
mà được xác định từ sự bất thường của giá hàng hóa, dịch vụ do doanh
nghiệp định ra. Với sự so sánh trên, cách mô tả hành vi này của Dự luật
giá chỉ có ý nghĩa nghiên cứu và mang tính học thuật hơn là một quy định
pháp lý để thực thi.
Ba là, quy
định về hành vi phân biệt giá có sự khác biệt lớn so với Luật CT và
chưa đầy đủ so với lý thuyết cạnh tranh về phân biệt giá. Khoản 4 Điều
13 Luật CT cấm hành vi áp đặt các điều kiện khác nhau (trong đó có điều
kiện về giá) trong các giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong
cạnh tranh. Luật CT cấm hành vi phân biệt đối xử của doanh nghiệp với
các khách hàng là doanh nghiệp (không áp dụng với hành vi phân biệt đối
xử với người tiêu dùng). Theo Khoản 5 Điều 10 Dự luật giá, hành vi phân
biệt giá bị cấm bao gồm phân biệt giá với các khách hàng là tổ chức, cá
nhân kinh doanh khác hoặc với các khách hàng là người tiêu dùng. Dự luật
giá đã mở rộng khả năng điều chỉnh của pháp luật hơn so với Luật CT.
Việc mở rộng là cần thiết trong bối cảnh nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng
đang là vấn đề cấp bách hiện nay. Trong thực tế, các doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh hoặc có vị trí độc quyền không chỉ khai thác sự lệ thuộc
của khách hàng để áp đặt các điều kiện mua bán bất lợi cho người tiêu
dùng mà còn có thể thực hiện mục đích tối đa hóa doanh thu, tối đa hóa
lợi nhuận bằng hành vi phân biệt giá, áp dụng các mức giá khác nhau theo
nhóm khách hàng, theo khả năng chi trả của từng nhóm khách hàng… Dưới
góc độ cạnh tranh, hành vi này bị coi là bất chính bởi chúng tăng khả
năng bóc lột người tiêu dùng của các doanh nghiệp đang có quyền lực thị
trường, xâm hại đến quyền được đối xử bình đẳng của các nhóm khách hàng.
Tuy
nhiên, khi xem xét quy định trên từ góc độ của lý thuyết cạnh tranh,
chúng tôi nhận thấy còn nhiều hạn chế trong cách mô tả của Dự luật giá
về cấu thành pháp lý của hành vi. Trong lý thuyết cạnh tranh, phân biệt
giá là hành vi của người bán hàng hóa áp dụng những mức giá khác nhau
tùy theo loại khách hàng mà không dựa vào sự chênh lệch về chi phí2. Hành vi phân biệt giá được xác định dựa trên những căn cứ sau:
-
Phân biệt giá được xác định từ việc so sánh giá mua bán của sản phẩm
trong các giao dịch tương tự nhau với những khách hàng khác nhau.
-
Các giao dịch bị phân biệt giá phải là các giao dịch tương tự nhau.
Thông thường, các giao dịch được coi là tương tự nhau khi đáp ứng đủ các
điều kiện:
+
Đối tượng của các giao dịch là những loại hàng hóa, dịch vụ tương tự
nhau. Tính tương tự được xem xét từ các thuộc tính của sản phẩm, thành
phần vật lý hay hóa học, các đặc điểm hoạt động hay chức năng của sản
phẩm….
+
Các giao dịch được dùng để so sánh phải tương đương về giá trị. Điều
này phụ thuộc vào trị giá của sản phẩm và số lượng, khối lượng được mua
bán trong giao dịch. Trong thực tế, các doanh nghiệp có thể thực hiện
những chiến lược dành ưu đãi cho các giao dịch có giá trị lớn3, có tính thường xuyên hoặc thưởng tăng trưởng4...
+
Thời điểm xác lập các giao dịch là những thời điểm mà điều kiện thị
trường giống nhau. Điều này không có nghĩa là chúng phải được hình thành
tại cùng một thời điểm. Thời điểm xác lập có thể khác nhau nhưng trong
khoảng thời gian đó, điều kiện thị trường chưa thay đổi, hoặc nếu có
thay đổi thì mức độ thay đổi chưa đủ để làm cho điều kiện thương mại
phải khác nhau giữa các giao dịch5.
+
Các giao dịch được dùng để so sánh phải nằm ở những công đoạn tương
đương của quá trình phân phối, tiêu thụ (tương xứng về cấp độ thương
mại).
-
Có sự phân khúc thị trường để ngăn chặn khả năng thông đồng giữa các
nhóm khách hàng nói trên hoặc ngăn chặn hành vi đầu cơ làm vô hiệu việc
phân biệt giá.
-
Lý thuyết phân biệt giá còn đặt ra yêu cầu về tính chiến lược của hành
vi phân biệt giá. Chỉ cấu thành hành vi phân biệt giá nếu việc áp dụng
các mức giá khác nhau có tính hệ thống hoặc phản ánh chiến lược bán hàng
lâu dài của doanh nghiệp.
Đối
chiếu với các nội dung cơ bản trong lý thuyết về phân biệt giá, có thể
dễ dàng nhận thấy rằng cấu thành pháp lý của hành vi phân biệt giá được
Dự luật giá đưa ra là sơ sài và đơn giản. Theo đó, hành vi của doanh
nghiệp bị coi là vi phạm pháp luật khi thỏa mãn hai điều kiện: áp dụng
giá khác nhau cho các khách hàng khác nhau; các khách hàng trên đã mua
cùng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ từ doanh nghiệp thực hiện hành vi.
Như vậy, tính tương tự của các giao dịch chỉ được xem xét từ góc độ đối
tượng mua bán và hành vi phân biệt giá chỉ áp dụng đối với hành vi cung
cấp hàng hóa, dịch vụ mà không áp dụng đối với việc mua sản phẩm từ
nhiều khách hàng (phân biệt giá mua). Nếu điều khoản này được thông qua
thì điều luật vừa lỏng lẻo, vừa khắc nghiệt đối với các doanh nghiệp.
Pháp luật sẽ trở nên lỏng lẻo khi thiếu vắng các quy định điều tiết hành
vi của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường mua sản
phẩm. Ảnh hưởng của quy định trên đến quyền định giá hàng hóa, dịch vụ
cho thấy sự khắc nghiệt của các ý định lập pháp có trong Dự luật giá.
Theo đó, (i) doanh nghiệp không thể linh hoạt định đoạt giá hàng hóa,
dịch vụ theo giá trị của giao dịch, theo thời điểm giao kết hợp đồng,
theo tính liên tục hay vãng lai của giao dịch, theo khả năng đàm phán
của khách hàng… Điều này sẽ làm cho diễn biến giá của một loại hàng hóa,
dịch vụ cụ thể trở nên khô cứng. Quyền định giá của doanh nghiệp sẽ chỉ
là đàm phán ấn định một mức giá duy nhất cho mọi giao dịch có cùng đối
tượng mua bán; (ii) doanh nghiệp sẽ dễ dàng vi phạm điều cấm của pháp
luật và dễ dàng bị quy kết là phân biệt giá nếu áp dụng mức giá khác
nhau cho các khách hàng. Điều luật có thể bị các doanh nghiệp khác lợi
dụng để làm phiền doanh nghiệp khi có sự khác biệt về giá (không phải là
phân biệt giá) trong những giao dịch chỉ giống nhau về đối tượng mà
không hoàn toàn tương tự ở các khía cạnh khác; (iii) doanh nghiệp sẽ dễ
dàng bị kết luận là phân biệt giá khi có sự khác nhau về giá giữa hai
giao dịch mua bán cùng một loại hàng hóa, dịch vụ cho dù sự khác biệt
này chỉ là đơn nhất và nhất thời (không mang tính hệ thống).
3. Một số đề xuất
Với
những phân tích trên, theo chúng tôi, Ban soạn thảo Dự luật giá cần có
sự rà soát và nghiên cứu lại các quy định về những hành vi bị cấm trong
lĩnh vực giá theo tinh thần:
Một là,
tạo lập mối tương quan pháp lý giữa Luật giá với Luật CT về các hành vi
hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá. Theo đó, Dự luật không nên đưa ra
khái niệm liên kết độc quyền về giá; không nên mở rộng phạm vi quản lý
giá đến phần xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá như
thỏa thuận ấn định giá, định giá nhằm loại bỏ đối thủ, phân biệt giá… Dự
luật giá được xây dựng nhằm thiết lập cơ chế quản lý giá nên các hành
vi bị cấm nên tập trung vào các hành vi trực tiếp xâm hại đến các cơ chế
quản lý về giá như hành vi vi phạm các biện pháp bình ổn giá, thẩm định
giá, hiệp thương giá… Các hành vi hạn chế cạnh tranh về giá sẽ do Luật
CT xử lý bằng cơ chế mà đạo luật này quy định. Có như vậy, chúng ta
không chỉ đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật mà còn đảm bảo
được sự phối hợp, đồng nhất trong các cơ chế quản lý nhà nước đối với
thị trường và các bộ phận cấu thành nên thị trường.
Hai là,
khi thiết kế các quy định về hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá, Ban
soạn thảo cần xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước và pháp luật vào
thị trường trên tinh thần Nhà nước chỉ sử dụng các biện pháp quản lý
hành chính đối với thị trường khi và chỉ khi các quy luật thị trường bị
vô hiệu hóa hoặc không thể tự điều tiết. Trong môi trường cạnh tranh,
dưới sức ép của cạnh tranh dù là lành mạnh hoặc không lành mạnh, các
doanh nghiệp tự phải điều tiết hành vi của mình và có thể phải gánh chịu
những thiệt hại nhất định (ngay cả khi sự cạnh tranh là lành mạnh thì
vẫn có khả năng một hoặc một số doanh nghiệp chịu thiệt hại và phải rút
khỏi thị trường trước sức ép cạnh tranh từ các đối thủ khác). Nhà nước
phải phân định các trường hợp và xác định thời điểm can thiệp vào các
quan hệ cạnh tranh để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh và phát
huy tối ưu hiệu quả của cạnh tranh trên thị trường. Với quy luật vận
hành tự có, thị trường vẫn có thể tự điều tiết ngay cả khi có hành vi
cạnh tranh với mục đích và cách thức không lành mạnh. Không phải mọi
trường hợp xuất hiện sự cạnh tranh thiếu lành mạnh đều có thể làm vô
hiệu quy luật thị trường. Sự khôn ngoan của người thiết kế khung pháp lý
về quản lý thị trường là xây dựng được cơ chế vừa đảm bảo cho sự tự vận
hành của thị trường vừa đảm bảo hỗ trợ các quy luật vận hành đó khi
thực sự cần thiết. Trong nội dung về xử lý các hành vi hạn chế cạnh
tranh về giá, Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ lưỡng cách thức vận hành
của hành vi để xem xét khả năng và điều kiện gây hậu quả cho thị trường
cạnh tranh để thiết kế cấu thành pháp lý phù hợp. Có như vậy, các quy
định sẽ có độ linh hoạt và có giá trị ứng dụng thích ứng với thị trường
vốn phát triển và thay đổi không ngừng.
Ba
là, trong trường hợp Dự luật giá cần quy định về các hành vi hạn chế
cạnh tranh trong lĩnh vực giá để đảm bảo cho cơ chế quản lý giá được đầy
đủ thì các quy định về những hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực giá phải
tiếp thu những quy định tương ứng trong Luật CT và phải dẫn chiếu đến
cơ chế xử lý của Luật CT. Theo đó, cần mạnh dạn chấm dứt tư tưởng cát cứ
pháp lý trong việc xây dựng các chế định pháp luật về quản lý thị
trường mà cần có sự phối hợp trong việc quản lý các vấn đề liên quan đến
lĩnh vực quản lý nhà nước về giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Các
hành vi hạn chế cạnh tranh về giá đã được quy định trong Luật CT cần
được xử lý theo đúng Luật CT do các cơ quan thực thi pháp luật cạnh
tranh giải quyết. Với những trường hợp chưa được quy định trong Luật CT
như trường hợp phân biệt đối xử về giá đối với người tiêu dùng thì Luật
giá có thể quy định nhưng bổ sung thẩm quyền cho cơ quan thực thi pháp
luật cạnh tranh hoặc pháp luật bảo vệ người tiêu dùng nếu chúng ta chưa
có điều kiện sửa đổi, bổ sung hai đạo luật đó.
(1)
Cơ quan phát triển quốc tế Canada (Dự án hỗ trợ thức thi chính sách
PIAP), Luật Cạnh tranh Canada, một số hướng dẫn thi hành, Nxb. Giao
thông vận tải, 2006, tr. 286-302.
(2)
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), (2004), Khuôn khổ cho
việc xây dựng và thực thi luật và chính sách cạnh tranh, Bản dịch tiếng
Việt của Hoàng Xuân Bắc, tài liệu Ban soạn thảo Luật Cạnh tranh, tr 171.
(3) Còn gọi tính kinh tế nhờ quy mô dẫn đến việc giảm giá thành đơn vị của sản phẩm được mua bán.
(4)
Thưởng tăng trưởng là việc doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch chiết
khấu cho những khách hàng có sự gia tăng về khối lượng, giá trị mua so
với kỳ giao dịch trước.
(5)
Xem thêm Nguyễn Như Phát – Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các
quy định của Luật CT về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2006, tr.
180-182.
Nguồn: NCLP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét