Trở thành Thành viên
thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sau 10 năm miệt mài đàm
phán và thuyết phục cũng như liên tục chấn chỉnh hệ thống pháp luật quốc
gia là một thành công của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế
giới. Nhưng đó chỉ là điểm khởi đầu, để thực sự hưởng lợi từ các quan
hệ kinh tế, thương mại quốc tế Việt Nam còn phải tiếp tục và luôn luôn
thực hiện những cam kết của mình trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là một trong những cam kết quan trọng không
thể xem nhẹ.
Trong quá trình chuẩn bị gia nhập chính thức vào WTO,
Việt Nam đã có những điều chỉnh lập pháp quan trọng. Ngoài ra, để gia
nhập WTO, Việt Nam còn phải tiến hành hàng loạt các thay đổi về chính
sách và pháp luật để tuân thủ các nguyên tắc và quy định của tổ chức
này. Năm năm sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam
đã và vẫn đang tiếp tục củng cố hệ thống pháp luật để thực thi ngày càng
tốt hơn.
Hiểu một cách đúng đắn về một hệ thống sở hữu trí tuệ
mạnh trong khuôn khổ những cam kết với tư cách thành viên của Hiệp định
TRIPS (1) và thấy được những thách thức khi thực hiện các cam kết quốc
tế trong lĩnh vực này (2) giúp Việt Nam dễ dàng có những bước chuẩn bị
tốt trước những đòi hỏi bảo hộ SHTT ngày càng cao hơn trong xu thế hội
nhập kinh tế thế giới (3).
1 – Hệ thống SHTT và ý nghĩa của việc trở thành thành viên Hiệp định TRIPS
1.1 Sự cần thiết phải có một hệ thống SHTT
Hệ thống SHTT được hiểu là tập hợp các quyền SHTT và
các chính sách bảo hộ quyền SHTT. Hệ thống SHTT mang tính quốc gia vì nó
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội riêng biệt của từng quốc gia.
Chính các điều kiện này bao gồm các chính sách, cơ sở hạ tầng và đặc
biệt nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đối với một hệ thống SHTT
mạnh. Bên cạnh đó, một chính sách tốt phải đưa ra được các tiêu chuẩn
xác lập quyền của chủ sở hữu quyền. Nói cách khác, chính sách này phải
xác định phạm vi được bảo hộ của các đối tượng của quyền SHTT. Sự giới
hạn quyền SHTT hợp lý cho phép hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế
quốc dân bảo đảm công bằng xã hội. Muốn đạt được điều đó trong các chính
sách quốc gia về SHTT không thể thiếu những chế tài đối với các hành vi
xâm phạm quyền SHTT.
Trên bình diện quốc gia, để phát triển kinh tế và
hội nhập quốc tế thành công một hệ thống quyền SHTT là yếu tố cần thiết
vì nó có ảnh hưởng quan trọng đến các hoạt động thương mại của quốc gia
đó. Ngoài ra với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, hệ thống này cũng phải
phù hợp với những quy tắc phổ biến của quốc tế như Hiệp định TRIPS.
1.2 Hiệp định TRIPS và những nguyên tắc bảo hộ tối thiểu
Quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được thắt chặt giữa
các quốc gia thì càng xuất hiện các vấn đề liên quan đến hàng giả và vi
phạm bản quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ. Đó trở thành một vấn đề
rất quan trọng trong giao dịch thương mại xuất phát từ giá trị to lớn
của “know-how” trên cơ sở các sản phẩm được thương mại hoá trên thị
trường.
Việc kém hiệu quả trong bảo hộ sở hữu trí tuệ ở cấp
độ quốc tế đã không chỉ làm tăng căng thẳng trong các quan hệ kinh tế mà
còn gây trở ngại cho việc chuyển giao và đổi mới công nghệ. Cho đến
trước năm 1994, các thỏa thuận hiện hành trong lãnh vực SHTT dù có quy
định hay không các biện pháp thực thi bảo hộ cũng không quy định chế tài
trong trường hợp không tuân thủ các thoả thuận. Mặc dù vậy việc đưa các
quy định và các chế tài bảo hộ quyền SHTT sẽ tạo ra rào cản đối với
thương mại hợp pháp vẫn còn là điều đáng lo ngại. Để giải quyết những
vấn đề này, cộng đồng quốc tế tiến hành xây dựng một thỏa thuận đa
phương về thương mại liên quan đến các khía cạnh thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ.
TRIPS[1], Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, có những quy định liên quan đến
phạm vi các loại quyền SHTT rộng hơn, bao quát hơn so với các công ước
đã tồn tại trước đó[2], chỉ tập trung vào một số hoặc một vài đối tượng
SHTT ví dụ công ước Berne về quyền tác giả và quyền liên quan, công ước
Paris về quyền sở hữu công nghiệp v.v… TRIPS đặt ra những yêu cầu bảo hộ
ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia đang phát triển hay
kém phát triển thì những yêu cầu bảo hộ SHTT này vẫn còn cao, Việt
Nam cũng không là ngoại lệ. Ngoài ra, các nước Thành viên hoàn toàn có
quyền thiết lập những quy định ở mức cao hơn[3] miễn không trái với quy
định của TRIPS. Đây cũng chính là điểm mà các nước phát triển đã lợi
dụng để dùng sức ép đối với các nước đang phát triển để ký những Hiệp
định song phương theo đó việc bảo hộ giành cho nhau luôn ở mức cao hơn
quy định tối thiểu của TRIPS.
Trước xu thế toàn cầu hoá, SHTT ngày càng được chú
trọng vì có vai trò quan trọng trong kinh doanh thương mại. Muốn hội
nhập kinh tế thế giới thành công Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế
chung đó. Trở thành Thành viên của WTO, Việt Nam phải thực hiện các quy
định do TRIPS đưa ra, nhưng cũng thực sự có cơ hội phát triển trong môi
trường quốc tế với luật chơi chung, luật WTO.
2. Thách thức đối với Việt Nam trong việc thực thi nghĩa vụ bảo hộ quyền SHTT
2.1 Vấn đề thực hiện cam kết với tư cách Thành viên Hiệp định TRIPS
Về mặt nguyên tắc, Hiệp định TRIPS bảo hộ mọi hình
thức sở hữu trí tuệ và tìm cách hài hòa và tăng cường các tiêu chuẩn bảo
vệ, và bảo đảm thực hiện hiệu quả ở cấp quốc gia cũng như quốc tế.
Đối với việc thực hiện, sửa đổi pháp luật quốc gia,
các Thành viên có thể áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe
công cộng và dinh dưỡng, và thúc đẩy lợi ích công cộng trong các lĩnh
vực có tầm quan trọng sống còn đối với sự phát triển kinh tế và xã hội,
nhưng các biện pháp này vẫn phải phù hợp với Hiệp định TRIPS. Ngoài ra,
các quốc gia Thành viên được quyền có những biện pháp cần thiết để ngăn
chặn việc lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu quyền hoặc các
hành vi hạn chế thương mại bất hợp lý hoặc ảnh hưởng xấu đến việc chuyển
giao công nghệ quốc tế, trong trong khuôn khổ của Hiệp định.
Chính thức trở thành Thành viên của WTO, Việt Nam cam
kết thực hiện đầy đủ và ngay lập tức, không qua thời gian chuyển đổi,
các quy định của TRIPS. Để làm được điều này Việt Nam phải nỗ lực không
ngừng trong việc rà soát, điều chỉnh, ban hành các văn bản pháp luật
ngày càng phù hợp hơn với Hiệp định TRIPS. Bộ luật Sở hữu trí tuệ được
Quốc hội thông qua ngày 22/11/2005 sau 11 tháng chuẩn bị là một ví dụ.
Hàng loạt các văn bản dưới luật[4] được ban hành khẳng định quyết tâm
cải cách hệ thống luật pháp của Việt Nam đồng thời đảm bảo việc thực thi
bảo hộ quyền SHTT ngày càng hiệu quả hơn.
2.2 Vấn đề thực hiện cam kết của Thành viên các Hiệp định TRIPS Cộng
Hiệp định TRIPS Cộng vẫn thường được hiểu là Hiệp
định song phương hay còn gọi là “thoả thuận tự do thương mại”. Loại giao
ước này là những thỏa thuận trực tiếp và đơn lẻ giữa hai hay nhiều nước
về hợp tác thương mại hay đầu tư, nghiên cứu khoa học, hợp tác và hỗ
trợ phát triển. Các hiệp định song phương có một số điểm chung ví dụ như
nó thường chứa đựng những nghĩa vụ mà các bên phải tuân thủ đặc biệt là
về quyền sở hữu trí tuệ. Các hiệp định trao đổi tự do song phương
thường có ít ràng buộc hơn so với các GATT/WTO, đó chính là điểm hấp dẫn
các nước tham gia ký kết loại Hiệp định này[5].
Tuy nhiên những Hiệp định thương mại song phương đôi
khi không phải xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế của các nước đang
phát triển. Ngược lại, đó là điều kiện bị áp đặt đối với những quốc gia
muốn gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Bởi vì để trở thành Thành
viên của WTO các quốc gia ứng cử viên phải tiến hành thương lượng vừa
trong khuôn khổ song phương vưà đa phương. Sau năm 1995, các quốc gia
muốn tham gia tổ chức này phải thương lượng với các quốc gia hùng mạnh
hơn về kinh tế thông qua các hiệp định song phương. Theo phương thức đó,
các điều khoản cam kết đặc biệt được đưa ra và trong lĩnh vực SHTT, các
quy định thông thường luôn cao hơn các quy định trong Hiệp định TRIPS.
Trong khuôn khổ các cuộc thương lượng để gia nhập
WTO, Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (BTA) năm 1999.
Thực hiện cam kết của Hiệp định, Việt Nam trở thành thành viên của công
ước Berne ngày 16 tháng 10 năm 2004, công ước Genève ngày 16 tháng 7 năm
2005, Công ước Bruxelles ngày 12 tháng 1 năm 2006 và Hệ thống Madrid
ngày 11 tháng 7 năm 2006. Ngoài ra trong khuôn khổ hiệp định song phương
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ký với Thuỵ Sĩ, Việt Nam đã phải tham
gia công ước Rome và Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng cuối năm
2006.
Một cách tổng quát, các thoả thuận thương mại ưu đãi
mà Hoa Kỳ ký kết với các quốc gia khác đều chứa đựng cam kết buộc đối
tác phải tham gia những công ước đa phương. Hiệp định ký kết với Việt
Nam cũng không ngoại lệ. Theo Điều 18 (3), Việt Nam phải tuân thủ hoàn
toàn Hiệp định TRIPS ngay khi gia nhập WTO, thậm chí cả trong trường hợp
việc gia nhập được thực hiện trước khi hết thời hạn cho phép từng bước
được quy định trong BTA. Hơn nữa, căn cứ vào lịch trình quy định tại
BTA, Việt Nam phải thực thi hầu hết các quy định của TRIPS[6] vào tháng 6
năm 2004, trước thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Về mặt nội
dung, một số quy định bảo hộ của BTA cao hơn TRIPS, ví dụ : thời hạn bảo
hộ quyền tác giả dài hơn, áp dụng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa đối với
nhãn chứng nhận; Việt Nam có nghĩa vụ thiết lập một hệ thống đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá; thời hạn bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá dài hơn; nghĩa vụ
bảo hộ các chương trình mang tín hiệu được mã hóa. Tuy nhiên, TRIPS[7]
không điều chỉnh nghĩa vụ bảo hộ các chương trình mang tín hiệu vệ tinh
được mã hoá được quy định tại BTA[8]. Vì, hình thức quyền sở hữu trí tuệ
này không nằm trong phạm vi định nghĩa về quyền sở hữu trí tuệ của
TRIPS[9].
Như vậy, mặc dù TRIPS là quy chuẩn bảo hộ SHTT chung
của rất nhiều quốc gia nhưng việc một số quốc gia buộc phải có những cam
kết bảo hộ cao hơn quy định của TRIPS là một hiện thực. Tuy nhiên,
TRIPS vẫn chưa đáp ứng yêu cầu bảo hộ quyền SHTT của các quốc gia phát
triển đang ngày càng cao.
3. Khuynh hướng bảo hộ quyền SHTT cao hơn TRIPS của các nước phát triển
3.1 Hiệp ước Thương mại chống hàng giả (Anti-Counterfeiting Trade Agreement - ACTA)
Năm 2006, một ý tưởng thiết lập một Hiệp ước đa
phương chống hàng giả đầu tiên xuất phát từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Sau đó
Canada và Cộng đồng châu Âu, Thụy Sĩ cũng tham gia thảo luận sơ bộ từ
năm 2007. Những cuộc thương lượng chính thức bắt đầu vào tháng 6 năm
2008 với sự tham gia của Australie, Mexique, Maroc, New-Zeland và Hàn
Quốc và Singapore.
Hiện tại có hai luồng ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của Hiệp ước thương mại chống hành vi làm giả, sao chép lậu.
Luồng ý kiến thứ nhất nhìn nhận sự cần thiết của
ACTA. Bởi Hiệp ước này thiết lập một khuôn khổ pháp lý mới với cơ chế
điều hành riêng, Ủy ban ACTA độc lập với các cơ quan quốc tế đã tồn tại
trước đó như WIPO hay Liên Hiệp Quốc… Hiệp ước này nhằm nâng cao các
tiêu chuẩn quốc tế để có hành động chống lại các hành vi xâm phạm có quy
mô lớn tới quyền SHTT.
Hiệp ước ACTA không chỉ điều chỉnh các hành vi xâm
phạm quyền tác giả, mà còn mở rộng đến các hành vi làm hàng giả như sản
phẩm tiêu dùng cao cấp, đồ chơi trẻ em và thuốc chữa bệnh, các tác phẩm
văn hóa. Các hành vi sao chép lậu và làm hàng giả được xếp chung vào
cùng một loại hành vi bởi vì hành vi sao chép lậu bị coi là “hàng giả
của quyền tác giả” mặc dù các lợi ích bị xâm phạm không giống nhau. Hàng
giả có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong khi đấu tranh chống
sao chép lậu nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ quyền lợi của các chủ sở
hữu quyền.
ACTA buộc các quốc gia thành viên phải có những giới
hạn rất nghiêm ngặt về quyền SHTT liên quan đến Internet và thương mại
hàng hoá có liên quan đến quyền này. Cũng như TRIPS, văn bản này cho
phép các quốc gia đưa thành viên đưa ra những quy định gắt gao hơn. Cần
lưu ý là có hẳn 1 kế hoạch hành động để khích lệ các nước đang phát
triển cùng tham gia hiệp ước.
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng Anti-Counterfeiting
Trade Agreement (ACTA), được thương lượng một cách kín đáo từ năm 2007
đến 2010 trong một nhóm 39 quốc gia trong đó có các quốc gia thành viên
của Cộng đồng châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Nhiều cuộc thương lượng ở cấp
quốc gia nhằm áp đặt một logic trấn áp do các nhà Công nghiệp giải trí
đưa ra. ACTA chứa đựng những chế tài hình sự mới buộc các nhà cung cấp
Internet phải kiểm soát và kiểm duyệt các thông tin trên mạng. Hiệp ước
này được coi là một đạo luật đe dọa quyền tự do bày tỏ ý kiến trên mạng
và nguồn bất ổn pháp lý đối với các doanh nghiệp kinh doanh Internet.
Đối với quyền nhãn hiệu, quyền sáng chế, Hiệp ước này cũng gây trở ngại
cho việc tiếp cận các thuốc phiên bản (generic)[10] ở các nước nghèo.
ACTA gây tranh cãi vì nó có ảnh hưởng tới các quyền
tự do dân sự và trách nhiệm mà những nhà cung cấp dịch vụ Internet phải
gánh vác, các hậu quả của việc sản xuất thuốc phiên bản hay việc bảo hộ
không hiệu quả chỉ dẫn địa lý.
ACTA chứa đựng những chế tài hình sự mới buộc các nhà
cung cấp Internet phải kiểm soát, kiểm duyệt các giao tiếp trên mạng.
Hiệp ước này trở thành mối đe doạ lớn đối với quyền tự do bày tỏ ý kiến
trên mạng và gây bất ổn pháp lý đối với các doanh nghiệp cung cấp
Internet. Việc thực hiện mục đích bảo hộ quyền nhãn hiệu và sáng chế
cũng gây trở ngại đối với việc tiếp cận thuốc phiên bản ở các nước
nghèo.
Hiệp ước vấp phải sự phản đối gay gắt vì ACTA sẽ hạn
chế quyền tự do bày tỏ ý kiến trên mạng. Bên cạnh đó, một số quyền riêng
tư có nguy cơ bị xâm phạm vì các thông tin về người sử dụng Internet có
thể bị tiết lộ vì nhà cung cấp Internet buộc phải “hợp tác”[11] khi có
yêu cầu mà không cần có lệnh của Toà[12]. Mối đe dọa đến quyền tự do của
những người sử dụng Internet được đặc biệt quan tâm nhưng khía cạnh
pháp lý, nguyên tắc cơ bản về quyền suy đoán vô tội dường như cũng bị đe
doạ nếu không nói đến trách nhiệm truy tìm chứng cứ của các cơ quan hữu
quan.
3.2 Chuẩn bị của Việt Nam trước thách thức của ACTA?
Khi trang web Megaupload[13] bị đóng cửa dưới sức ép
của nguyên tắc hợp tác quốc tế chống sao chép lậu thì người lạc quan có
thể khẳng định rằng một đạo luật chống sao chép lậu thống nhất có thể
dùng chung cho cả thế giới. Ta càng thấy rõ ảnh hưởng của Hiệp ước khi
văn bản này được Cộng đồng châu Âu và Hoa Kỳ tiến hành ký kết với nhau
vào cuối tháng 1 năm 2012.
Thực ra việc áp dụng và gây sức ép để phê chuẩn và áp
dụng ACTA ở các nước đang phát triển không phải là không thể xảy ra.
Điều này có thể đòi hỏi một thời gian tương đối dài, cũng có thể xảy ra
trong ngắn hạn với tốc độ phát triển kinh tế và xu thế toàn cầu hoá.
Việt Nam không thể phát triển kinh tế đất nước mà đứng ngoài dòng xoáy
đó. Vậy
, ta cần có những chuẩn bị gì ?Với mục đích đấu tranh
chống hàng lậu, hàng giả, Hiệp ước đưa ra những biện pháp để ngăn chặn
việc lưu thông thuốc phiên bản, cụ thể là các thuốc có nguồn gốc từ Ấn
Độ, được Tổ chức y tế thế giới thừa nhận trong một vài quốc gia. Tuy
nhiên những thuốc này vẫn còn hiệu lực bảo hộ độc quyền ở một số quốc
gia nơi các thuốc này chỉ “quá cảnh”[14]. Để tăng cường đấu tranh chống
hàng giả, ACTA đưa ra một hệ thống các biện pháp ngăn chặn thuốc phiên
bản vốn được xử lý như hàng giả[15]. Là một quốc gia đang phát triển,
Việt Nam sẽ còn phải cần sử dụng công cụ bắt buộc chuyển giao quyền sử
dụng sáng chế đối với một số ngành công nghệ mà Việt Nam chưa có được,
đặc biệt là trong lĩnh vực dược phẩm để ổn định xã hội và vì mục đích
săn sóc tốt hơn sức khoẻ cộng đồng. Trong khuôn khổ đó, ACTA sẽ có những
ảnh hưởng nhất định nếu Việt Nam tham gia Hiệp ước.
KẾT LUẬN
Ở góc độ vĩ mô và dài hạn, quốc gia có một hệ thống
SHTT mạnh và hiệu quả có thể thành công trong việc phát triển công nghệ,
tạo môi trường kinh doanh lành mạnh từ đó bảo đảm cho nền kinh tế phát
triển vững chắc hơn. Mặc dù, trên thực tế nếu hệ thống SHTT yếu kém thì
cơ hội phát triển công nghệ với chi phí thấp lại càng cao hơn. Tuy nhiên
cách lựa chọn phát triển này chỉ mang tính tạm thời. Để phát triển bền
vững kinh tế quốc gia, một hệ thống SHTT mạnh vẫn phải là mục tiêu cần
đạt được, và điều này không có ngoại lệ. Do vậy, Việt Nam vẫn phải tiếp
tục phấn đấu xây dựng một hệ thống SHTT ngày càng mạnh hơn.
Bị xem là một trong số các quốc gia thực thi bảo hộ
quyền SHTT kém, Việt Nam sẽ còn vất vả để thực thi các cam kết sẵn có,
trong đó có TRIPS và TRIPS Cộng như đã đề cập bên trên. Có thể trong
tương lai rất gần Việt Nam không phải tham gia vào Hiệp ước ACTA, nhưng
ta cần nắm vững khuynh hướng bảo hộ của thế giới vẫn phải được hiểu biết
và có những chuẩn bị nhất định trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới.
Bởi, để phát triển kinh tế dài lâu mỗi quốc gia đều phải có một chiến
lược dài hạn và thống nhất, đó được coi là chìa khoá thành công nếu muốn
hội nhập kinh tế thế giới. Hệ thống bảo hộ SHTT hiệu quả là một bộ phận
của quá trình đó. Quá trình này diễn ra một cách cực kỳ tế nhị bởi vì
những vấn đề trật tự xã hội hoặc nhân đạo, ví dụ các vấn đề liên quan
đến sức khoẻ cộng đồng vẫn phải được ưu tiên hàng đầu. Ưu tiên này vẫn
gây ra những xung đột quyền lợi về SHTT.
[1] TRIPS là kết quả của nhiều các cuộc thoả thuận
thương mại đa phương kéo dài nhiều năm và chỉ thực sự kết thúc ngày 15
tháng 12 năm 1993. Văn kiện cuối cùng chứa đựng những thoả thuận thương
mại song phương của Vòng đám phán Uruguay được ký kết ở Marrakech, Maroc
ngày 15 ttháng 4 năm 1994. Bằng việc ký kết Văn kiện cuối cùng này, các
nước đã nhất trí trình Hiệp định Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại
Thế giới (gọi tắt là “Hiệp định về Tổ chức Thương mại Thế giới” hay
“Hiệp định WTO”) để cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia xem xét phê
chuẩn. Hiệp định TRIPS, là một phần của thỏa thuận theo Hiệp định WTO[1], có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 1995.
[2] Các công ước này chủ yếu được ký kết trước đó
trong khuôn khổ Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (Tổ chức Sở hữu trí
tuệ thế giới). Ngoài ra tính khái quát cao hơn của TRIPS chính là do
TRIPS không nêu lại quy định ở các công ước trước đó mà quy định dẫn
chiếu đến các công ước này.
[3] Ví dụ TRIPS quy định thời hạn bảo hộ nhãn hiệu tối thiểu là 7 năm nhưng theo luật SHTT Việt Nam thời hạn này là 10 năm.
[4] Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ;
Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định xử phạt vi phạm
hành chính về sở hữu công nghiệp.
[5] Điều XXIV hiệp ước GATT cho phép các quốc gia
thiết lập liên minh thuế quan và khu tự do thương mại. Ngoại lệ “Tối huệ
quốc” của GATT và WTO không phải là công cụ pháp lý duy nhất cho phép
tiến hành các cam kết ngoại lệ.
[6] Chương II – BTA
[7] Điều 4 – TRIPS
[8] Chương II, Điều 5 – BTA
[9] Điều 1(2)
[10] Thuốc phiên bản thông thường là thuốc được sản
xuất sau khi bằng sáng chế hết hạn bảo hộ, hoặc trong những trường hợp
tương đối đặc biệt khi áp dụng Lixăng-bắt buộc. Thuốc phiên bản có công
thức giống với thuốc (đã) được bảo hộ sáng chế nhưng dưới tên khác, hình
thức đóng gói đủ khác biệt với thuốc được bảo hộ sáng chế.
[11] Điều 27-1 ACTA “Each Party shall endeavour
to promote cooperative efforts within the business community to
effectively address trademark and copyright or related rights
infringement while preserving legitimate competition and, consistent
with that Party’s law, preserving fundamental principles such as freedom
of expression, fair process, and privacy.”
[12] Điều 27-2 ACTA “A Party may provide, in
accordance with its laws and regulations, its competent authorities with
the authority to order an online service provider to disclose
expeditiously to a right holder information sufficient to identify a
subscriber whose account was allegedly used for infringement, where that
right holder has filed a legally sufficient claim of trademark or
copyright or related rights infringement, and where such information is
being sought for the purpose of protecting or enforcing those rights.
These procedures shall be implemented in a manner that avoids the
creation of barriers to legitimate activity, including electronic
commerce, and, consistent with that Party’s law, preserves fundamental
principles such as freedom of expression, fair process, and privacy.”
[13] Megaupload (MU) là 1 trang web xuất hiện năm
2005 và đã bị đóng cửa ngày 19 tháng 1 năm 2012. Đây là một trang wed
dịch vụ cho phép lưu trữ các tập tin bằng một cái click chuột đơn giản.
Trang web có gốc ở Hong-Kong và có servers ở Hoa Kỳ, Hà Lan và Canada.
MU cho phép đưa lên mạng mọi loại tập tin với giới hạn dung lượng là 1G
miễn phí và không giới hạn dung lượng với người sử dụng có trả phí.
[14] Thuốc sản xuất theo sáng chế được bảo hộ có thể không được trực tiếp sản xuất tại quốc gia đó.
[15] Liên quan đến vấn đề này có thể kể ra việc Hải
quan Amsterdam ngăn chặn thuốc phiên bản chữa trị bệnh Sida tháng 2 năm
2009.
Nguồn: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét