Đảm
bảo công bằng trong việc đánh thuế dựa trên khả năng trả thuế của đối
tượng nộp thuế, không mang tính tận thu và có xét đến điều kiện, hoàn
cảnh sống của từng người là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật về
thuế. Ở đây, đòi hỏi công bằng phải là sự công bằng chung của xã hội,
phù hợp với định hướng phát triển của nước ta và các nước trên thế giới,
nên trong thuế thu nhập cần phải đưa ra những quy định về miễn, giảm
thuế.
1. Đối với các khoản thu nhập miễn thuế
Trước
đây, trong các Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
năm 1991, 1994, 1997, 1999, 2001, 2004 khi quy định về thu nhập tính
thuế đều liệt kê những khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện chịu thuế
thu nhập và những khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế. Cách tiếp
cận về quy định thu thuế như vậy sẽ có bất cập vì đã loại một nhóm thu
nhập ra khỏi phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập. Mặc dù, thu nhập
không chịu thuế và thu nhập miễn thuế đều không phải nộp thuế, nhưng đối
với thu nhập miễn thuế, cá nhân phải kê khai theo luật định, để Nhà
nước nắm được thông tin phục vụ công tác quản lý, tạo ra trách nhiệm
phải nộp thuế đối với mỗi cá nhân có thu nhập và thấy được tính nhân văn
của Nhà nước trong vấn đề quy định thu nhập chịu thuế. Các khoản thu
nhập miễn thuế được xác định từ lý do chính trị, xã hội hay quản lý của
Nhà nước. Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 quy định về các khoản thu
nhập cá nhân được miễn thuế tại Điều 4, có một số vấn đề cần được xem
xét lại. Cụ thể là:
Thứ nhất,
pháp luật về lao động không khuyến khích người sử dụng lao động yêu cầu
người lao động làm thêm giờ. Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ
sung vào các năm 2002, 2006, 2007) quy định người lao động làm thêm
không quá 4 giờ trong một ngày và 200 giờ trong một năm. Thời gian làm
thêm giờ là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Do đó, việc quy định miễn thuế đối với phần tiền lương làm việc ban
đêm, làm thêm giờ - được trả cao hơn so với tiền lương làm việc ban
ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật - sẽ tạo sự không công
bằng. Để đảm bảo công bằng giữa các đối tượng lao động và không làm phức
tạp trong quá trình tính thuế, theo chúng tôi, không nên quy định miễn
thuế đối với phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao
hơn so với tiền lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định
của pháp luật.
Thứ hai,
khi cá nhân có tài sản thì cá nhân có thể lựa chọn nhiều cách thức đầu
tư để bảo toàn và phát triển nguồn vốn của mình. Cá nhân đó có thể lựa
chọn kênh đầu tư là bất động sản, chứng khoán, gửi tiết kiệm… Những cá
nhân có tiền lãi gửi từ các tổ chức tín dụng, lãi từ bảo hiểm nhân thọ
thì không phải đối tượng có khó khăn về kinh tế. Theo quy định của Luật
Thuế thu nhập cá nhân năm 2007, thu nhập có được từ những khoản đầu tư
như bất động sản, chứng khoán… đều phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Đa số
các nước đều thu thuế thu nhập cá nhân trên tiền lãi tiết kiệm như
Trung Quốc là 20%, In-đô-nê-xi-a là 20%, Phi-líp-pin là 20%, Thái Lan là
15%. Để tạo sự công bằng theo nguyên tắc khả năng trả thuế và nguyên
tắc lợi ích giữa các cá nhân có tài sản, nên quy định thu nhập của các
cá nhân từ tiền lãi tại các tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ không được miễn thuế thu nhập cá nhân.
2. Đối với quy định về giảm trừ gia cảnh
Việc quy định về giảm trừ gia cảnh theo Luật Thuế thu nhập cá nhân còn một số bất cập sau:
Thứ nhất, Luật Thuế thu nhập cá nhân còn gắn với nhiều chính sách xã hội, nên vấn đề xác
định những ai là người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế được giảm trừ để
đảm bảo nguyên tắc công bằng giữa những đối tượng có người phụ thuộc và
đối tượng không có người phụ thuộc theo quy định của pháp luật là vấn
đề cần thiết. Nếu hai cá nhân có thu nhập chịu thuế như nhau, nhưng có
đối tượng phụ thuộc khác nhau thì mức độ đóng góp vào ngân sách nhà nước
sẽ khác nhau. Theo quan điểm của chúng tôi, phải xác định đối tượng phụ
thuộc dựa trên những mối quan hệ gắn bó với đối tượng nộp thuế có trách
nhiệm nuôi dưỡng, để luật thuế thu nhập cá nhân tương thích với các
luật khác. Đó là, mối quan hôn nhân, nuôi dưỡng đang tồn tại, quan hệ
huyết thống trong phạm vi ba đời. Tuy nhiên, những đối tượng đó chỉ nên
xác định là đối tượng phụ thuộc với điều kiện đối tượng là con chưa
thành niên hoặc những cá nhân đó không có khả năng lao động, không có
thu nhập mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng. Vì nếu trong luật
thuế quy định nhiều đối tượng phụ thuộc thì sẽ dẫn đến sự không công
bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang, dễ dẫn đến việc kê khai gian
dối về đối tượng phụ thuộc và không khuyến khích được trách nhiệm lao
động của cá nhân sống trong xã hội. Theo tinh thần của Luật Thuế thu
nhập cá nhân năm 2007, chúng tôi thấy có một số điểm không hợp lý về
việc quy định đối tượng phụ thuộc như sau:
-
Khoản 3 Điều 19 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 quy định con thành
niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề
nếu không có thu nhập hoặc thu nhập không vượt quá mức quy định thì coi
là người phụ thuộc để giảm trừ gia cảnh cho cha mẹ. Quy định này dẫn đến
sự không công bằng giữa những đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân vì
việc học tập là vấn đề phải làm suốt đời người, Nhà nước khuyến khích
học tập và đã có chính sách cho vay vốn đối với những người đi học đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề. Nên người học có thể
vay vốn của chính sách này để trang bị tri thức cho mình và sau này đi
làm sẽ trả dần cho Nhà nước. Việc học là quá trình đầu tư cho tương lai,
khi nói về thị trường lao động thì người sử dụng lao động sẽ phải trả
lương gồm cả phần bù đắp chi phí đào tạo, ai được đào tạo nhiều, có
trình độ cao thì sẽ có cơ hội nhận được lương cao hơn. Nên để công bằng
cho những người có con thành niên đi học hoặc vừa học vừa làm hoặc đi
làm trước học sau, theo chúng tôi, nên bỏ quy định ở khoản 3 Điều 19
Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007.
-
Để khuyến khích thực hiện kế hoạch hóa dân số và gia đình, mỗi cặp vợ
chồng chỉ nên sinh từ một đến hai con, nên theo chúng tôi, đối với con
thứ ba trở lên không tính là đối tượng phụ thuộc để giảm thuế cho cha
mẹ. Bởi vì nếu chúng ta quy định trường hợp này sẽ gây mất công bằng
giữa những người nộp thuế. Những người chấp hành chính sách dân số và kế
hoạch hóa gia đình tốt, thực hiện sinh từ 01 đến 02 con thì có thể phải
nộp thuế nhiều hơn đối với những người không chấp hành chính sách dân
số và kế hoạch hóa gia đình của Nhà nước khi những đối tượng này có cùng
mức thu nhập.
-
Đối với cha mẹ, ông bà đã hết tuổi lao động thì thông thường thu nhập
sẽ rất thấp hoặc có thể không có, nhưng những người này có thể đã tích
lũy được số tài sản rất lớn, đủ để nuôi sống họ suốt đời. Nên nếu đưa
vào Luật Thuế thu nhập cá nhân những người này là đối tượng phụ thuộc
thì sẽ không đảm bảo nguyên tắc công bằng và không đúng ý nghĩa của cụm
từ “đối tượng phụ thuộc”. Vì vậy, theo chúng tôi, những người này phải
có trách nhiệm kê khai là không có tài sản gì để đảm bảo nguồn sống ở
dưới mức thu nhập GDP bình quân đầu người thì mới được xem xét là đối
tượng phụ thuộc để tính giảm trừ gia cảnh cho những đối tượng trực tiếp
nuôi dưỡng.
Thứ
hai, việc áp dụng giảm trừ gia cảnh chỉ áp dụng đối với những cá nhân
cư trú có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công mà không áp
dụng đối với những người có thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn,
chuyển nhượng bất động sản, từ trúng thưởng, từ nhượng quyền thương mại,
từ thừa kế, quà tặng trong Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 là không
đảm bảo công bằng về mặt đối xử với những cá nhân trong xã hội. Vì mỗi
cá nhân đều phải chi tiêu cho nhu cầu sống của bản thân và những người
phụ thuộc, việc lựa chọn nghề nghiệp để mưu sinh là tùy vào bản thân
người đó. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều hướng tới
sự phát triển con người và gia đình của họ. Trong thực tế, đa số nhà đầu
tư chứng khoán, bất động sản ở Việt Nam là những nhà đầu tư nhỏ lẻ. Nên
để tạo ra sự công bằng cho các cá nhân nộp thuế cần đưa ra quy định:
tất cả các cá nhân cư trú có thu nhập thì đều được giảm trừ gia cảnh khi
tính thu nhập chịu thuế.
Thứ
ba, về nguyên tắc thì Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 không phải luật
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nên việc quy định về giảm
trừ gia cảnh đối với cá nhân tạo ra thu nhập và người phụ thuộc xét về
bản chất là đánh thuế vào người có thu nhập ở một mức độ nhất định. Việc
xác định mức giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế thu nhập cá nhân năm
2007 còn gây nhiều tranh cãi vì trong luật đưa ra mức giảm trừ gia cảnh
đối với đối tượng nộp thuế là 04 triệu đồng, một con số cố định như vậy
là không hợp lý vì chưa tính tới yếu tố lạm phát ở nước ta nên luật sẽ
phải thường xuyên thay đổi. Như, năm 2007 chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tăng là 12,63%, năm 2008 chỉ số CPI 22,97%, năm 2009 chỉ số CPI 6,52%,
năm 2010 CPI là 11,75%, đến tháng 9/2011 chỉ số CPI tăng so với năm 2010
là 16,63%. Như vậy, từ năm 2007 đến tháng 9/2011, tổng CPI của Việt Nam
tăng 70,5%, nên điều này cũng ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của
người dân. Theo chúng tôi, nên xác định mức thu hợp lý trên nguyên tắc
mở rộng diện thu, hạ thấp mức thu thì vẫn đảm bảo được nguồn thu cho
ngân sách nhà nước và tạo được sự công bằng trên diện rộng cho những
người có thu nhập. Để đảm bảo nguyên tắc công bằng thì thu thuế nên thu
từ đồng thu nhập đầu tiên, nhưng phải xét tới điều kiện, hoàn cảnh sống
của cá nhân, nên lấy mức lương tối thiểu làm cơ sở đưa ra mức giảm trừ
gia cảnh. Vì khi Chính phủ đưa ra mức lương tối thiểu thì Chính phủ đã
phải xem xét mức sống trung bình của người dân, trong đó có tính đến chỉ
số lạm phát. Tương tự như vậy, khi xác định mức giảm trừ gia cảnh, Luật
Thuế thu nhập cá nhân 2007 đưa ra con số 1,6 triệu cho những người phụ
thuộc cũng là không có cơ sở và khó ổn định lâu dài. Những người phụ
thuộc cũng căn cứ vào mức lương tối thiểu để làm cơ sở tính số tiền giảm
trừ cho người nộp thuế.
Nguồn: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét