Sức
mạnh thị trường, trong luật cạnh tranh các nước, thường được hiểu là
khả năng duy trì giá cả trên mức giá cạnh tranh hoặc giảm chất lượng
hoặc sản lượng xuống dưới mức cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận1.
Nói cách khác, sức mạnh thị trường phát sinh khi một hay một số doanh
nghiệp không phải chịu sức ép cạnh tranh đáng kể nào. Thuật ngữ “sức
mạnh thị trường” tuy không được quy định trong pháp luật cạnh tranh của
Việt Nam, nhưng dấu ấn của nó có thể được tìm thấy trong các quy định
quan trọng nhất, đặc biệt là các quy định cấm của Luật Cạnh tranh 2004.
Bài viết này sẽ xem xét những quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh
2004 về sức mạnh thị trường (có so sánh với kinh nghiệm quốc tế), đồng
thời phân tích việc áp dụng luật trong thực tiễn và đưa ra một số nhận
xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về vấn đề này.
1. Đánh giá sức mạnh thị trường trong Luật Cạnh tranh 2004
Pháp
luật cạnh tranh của Việt Nam chủ yếu dựa vào thị phần của các doanh
nghiệp liên quan để đánh giá sức mạnh thị trường và thống nhất lấy mức
thị phần 30% làm thước đo để suy đoán sức mạnh thị trường của (các)
doanh nghiệp đó. Các thỏa thuận, giao dịch hay hành vi phản cạnh tranh
được cho là chỉ có thể gây tác hại đáng kể đến cạnh tranh trên thị
trường nếu các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, giao dịch hay hành vi
đó có sức mạnh đủ lớn trên thị trường (tức là có thị phần trên 30%), do
vậy, trong tám loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, chỉ trừ ba
loại thỏa thuận2 bị cấm trong mọi trường hợp, bất kể sức mạnh
thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, năm loại thỏa
thuận còn lại chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa
thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên3.
Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị
phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể4. Nhóm doanh nghiệp được coi
là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế
cạnh tranh và có tổng thị phần từ 50% trở lên (đối với hai doanh
nghiệp), hoặc 65% (đối với ba doanh nghiệp), hoặc 75% (đối với bốn doanh
nghiệp) trên thị trường liên quan5. Pháp luật Việt Nam cũng
quy định về việc thông báo bắt buộc đối với các vụ tập trung kinh tế khi
thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế từ 30%
đến 50% trên thị trường liên quan. Các vụ tập trung kinh tế có thị phần
kết hợp trên 50% trên thị trường liên quan sẽ bị cấm trừ phi vụ việc đó
được hưởng miễn trừ theo Điều 19 của Luật Cạnh tranh hoặc doanh nghiệp
sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Việc lấy mức thị phần 30% làm ‘ngưỡng’ để áp dụng các quy định cấm
trong Luật Cạnh tranh của Việt Nam được giải thích như sau: “mức 30% là
mức đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng và Pháp lệnh Bưu chính viễn
thông hiện nay cũng đang sử dụng để xác định một doanh nghiệp có vị trí
chi phối thị trường… một doanh nghiệp có thị phần trên thị trường liên
quan đạt từ 30% trở lên sẽ bị coi là có vị trí thống lĩnh thị trường và
cần phải được kiểm soát”6. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày
15/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Cạnh tranh cũng không đưa thêm quy định nào để hướng dẫn cụ thể hơn việc
xác định sức mạnh thị trường ngoài việc quy định cách thức xác định
doanh thu, doanh số để xác định thị phần của doanh nghiệp7.
Như
vậy, khác với Luật Cạnh tranh của các nước, trong Luật Cạnh tranh của
Việt Nam thì thị phần đóng vai trò trung tâm trong việc đánh giá sức
mạnh thị trường. Trong pháp luật cạnh tranh của các nước như Hoa Kỳ hay
Liên minh châu Âu8, để xác định sức mạnh thị trường của một
(một số) doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh thường phải tiến hành những
nghiên cứu toàn diện và phức tạp dựa trên việc phân tích rất nhiều yếu
tố như cấu trúc thị trường9, thị phần, tỷ lệ tập trung, chỉ số HHI10, rào cản gia nhập thị trường (entry barriers)11, rào cản mở rộng thị trường12, sức mạnh của người mua13, khả năng loại bỏ cạnh tranh14…
Trong
thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh, các cơ quan cạnh tranh Việt Nam chủ
yếu căn cứ vào yếu tố thị phần và cấu trúc thị trường để suy đoán sức
mạnh thị trường của doanh nghiệp. Yếu tố rào cản thị trường cũng được
tập trung phân tích mặc dù việc phân tích này là nhằm xác định thị
trường địa lý liên quan chứ không phải để đánh giá sức mạnh thị trường.
Chẳng hạn, trong vụ Vinapco, dựa trên việc phân tích cấu trúc thị trường
(khi đó Vinapco là doanh nghiệp duy nhất cung ứng nhiên liệu bay cho
máy bay dân dụng tại Việt Nam) và rào cản gia nhập thị trường (Cục hàng
không Việt Nam xác nhận ngoài Vinapco chưa có doanh nghiệp nào khác được
cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ hàng không trong lĩnh vực xăng dầu hàng
không), Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh đã kết luận Vinapco là doanh
nghiệp độc quyền trên thị trường dịch vụ cung cấp xăng dầu hàng không
dân dụng tại các sân bay dân dụng và sân bay dùng chung dân dụng và quân
sự của Việt Nam. Trong vụ xử phạt 19 doanh nghiệp bảo hiểm, căn cứ vào
số lượng các doanh nghiệp tham gia ký kết thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
(19 trên tổng số 25 doanh nghiệp của toàn thị trường) và thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp ấy (được xác định là 99,79%), Cục Quản lý cạnh
tranh cho rằng “bằng việc ký kết Bản thỏa thuận, 19 doanh nghiệp bảo
hiểm bị điều tra đã triệt tiêu cạnh tranh về mức phí bảo hiểm trên phạm
vi lớn, gần như toàn bộ thị trường… vì vậy, khả năng gây hạn chế cạnh
tranh của hành vi thỏa thuận do các doanh nghiệp bảo hiểm bị điều tra
thực hiện là đáng kể”15. Đồng ý với nhận định này, Hội đồng
Xử lý vụ việc cạnh tranh đã căn cứ vào thị phần kết hợp của 19 doanh
nghiệp bị điều tra (trên 30%) để kết luận các doanh nghiệp này vi phạm
khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị
cấm và ra quyết định xử phạt. Đặc biệt, trong vụ việc này, các yếu tố
như sản phẩm nhập khẩu, sức mạnh của người mua đã bắt đầu được các cơ
quan cạnh tranh đề cập tới, tuy chúng không đóng vai trò quyết định
trong việc kết luận hành vi vi phạm của các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận.
2. Một số nhận xét và kiến nghị
Chưa nói đến việc mức thị phần 30% là quá thấp16,
việc pháp luật Việt Nam quy định một cách quá giản đơn về việc phân
tích sức mạnh thị trường và lấy thị phần hay tỷ lệ tập trung (cũng dựa
trên thị phần) làm công cụ duy nhất để suy đoán sức mạnh thị trường của
một (một số) doanh nghiệp có thể dẫn đến kết luận rất phiến diện về sức
mạnh thị trường của (các) doanh nghiệp đó, dẫn đến việc xử phạt một hay
một số doanh nghiệp hay cấm một số vụ việc tập trung kinh tế khi mà
những thỏa thuận, giao dịch hay hành vi đó không có khả năng gây tác hại
đến môi trường cạnh tranh. Một doanh nghiệp dù có mức thị phần trên 30%
cũng chưa chắc đã có đủ sức mạnh thị trường để có thể được coi là có vị
trí thống lĩnh thị trường, chẳng hạn, nếu rào cản gia nhập thị trường
liên quan rất thấp và việc tham gia thị trường đối với các doanh nghiệp
mới là tương đối dễ dàng thì một doanh nghiệp dù có thị phần trên 30%
cũng không có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị
trường ấy. Tương tự như vậy, quy định cấm tập trung kinh tế chỉ dựa trên
thị phần kết hợp của các doanh nghiệp liên quan trong Luật Cạnh tranh
2004 với lý do “doanh nghiệp đó chắc chắn có khả năng khống chế thị
trường”17 là không thuyết phục. Tác động tiềm tàng của một vụ
tập trung kinh tế đối với cạnh tranh trên thị trường cần phải dựa trên
những phân tích kinh tế toàn diện (trong đó có việc cân nhắc và so sánh
giữa hiệu quả kinh tế mà vụ tập trung kinh tế mang lại và tác hại của vụ
tập trung kinh tế đối với cạnh tranh) chứ không phải chỉ dựa trên việc
tính toán thị phần kết hợp.
Vẫn
biết cơ quan cạnh tranh của Việt Nam vẫn còn rất non trẻ và thiếu kinh
nghiệm trong việc áp dụng luật cạnh tranh, việc quy định lấy thị phần
làm thước đo sức mạnh thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ
quan này áp dụng luật, tuy thế, việc quá đề cao vai trò của thị phần có
thể dẫn đến những kết luận không chính xác. Một quyết định sai lầm trong
áp dụng luật cạnh tranh cũng gây tác hại cho nền kinh tế không kém gì
một thỏa thuận hay hành vi phản cạnh tranh bị cấm. Do vậy, chúng ta cần
sớm bổ sung thêm vào pháp luật cạnh tranh các quy định về các yếu tố
khác cần xem xét khi đánh giá sức mạnh thị trường (như chỉ số HHI, rào
cản gia nhập thị trường, rào cản mở rộng sản xuất, sức mạnh của người
mua, khả năng loại bỏ cạnh tranh…) để việc phân tích sức mạnh thị trường
trở nên toàn diện và chính xác hơn.
(1)
Ví dụ, xem Hướng dẫn về sáp nhập theo chiều ngang của Bộ Tư pháp và Ủy
ban Thương mại công bằng Hoa Kỳ 1992 và Hướng dẫn của Cục Thương mại
công bằng Anh về Đánh giá sức mạnh thị trường 2004 (OFT 415).
(2)
Bao gồm thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham
gia thị trường; thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp
không phải là các bên của thỏa thuận; và thỏa thuận thông đồng trong đấu
thầu.
(3) Xem Điều 8 và Điều 9 Luật Cạnh tranh.
(4) Khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh. (5) Khoản 2 Điều 11 Luật Cạnh tranh.
(6) Tờ trình của Chính phủ về Dự án Luật Cạnh tranh, tháng 4/2004, tr.8 - 9.
(7)
Mặc dù Điều 22 của Nghị định số 116 có quy định một số cơ sở khác để
xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh
nghiệp liên quan, quy định này không áp dụng trong trường hợp doanh
nghiệp đó có thị phần trên 30%.
(8)
Ví dụ, xem Hướng dẫn về sáp nhập theo chiều ngang của Bộ Tư pháp và Ủy
ban Thương mại công bằng Hoa Kỳ 1992; Quy định của Hội đồng châu Âu về
kiểm soát tập trung giữa các doanh nghiệp (EC) 139/2004.
(9) Tức là tổng số các doanh nghiệp đang cạnh tranh trên thị trường liên quan.
(10)
Viết tắt của Herfindhal-Hirschman Index, chỉ số này được tính bằng tổng
của bình phương thị phần của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường
liên quan và cho biết mức độ tập trung trên thị trường đó.
(11)
Rào cản gia nhập thị trường là tất cả các yếu tố cản trở một doanh
nghiệp mới gia nhập thị trường khi giá cả của một sản phẩm trên thị
trường đó tăng lên một cách đáng kể, ví dụ như các yêu cầu về giấy phép,
khả năng tiếp cận các kênh phân phối…
(12)
Rào cản mở rộng thị trường là tất cả các yếu tố cản trở một doanh
nghiệp hiện hành trên một thị trường có thể tăng sản lượng một cách
nhanh chóng và hiệu quả.
(13)
Khi bên mua có đủ sức mạnh thị trường làm đối trọng với sức mạnh của
bên bán thì bên bán không còn khả năng tăng giá hàng hóa hay dịch vụ của
mình trên mức giá cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận nữa, bởi lẽ bên
mua có thể chuyển sang nhà cung cấp có mức giá thấp hơn.
(14) Khả năng loại bỏ cạnh tranh cũng được coi là một biểu hiện của sức mạnh thị trường (ngoài khả năng tăng giá).
(15)
Xem Quyết định số 14/QĐ-HĐXL của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh ngày
29/7/2010 về việc xử lý vụ việc cạnh tranh KNCT-HCCT-0009.
(16)
Trong lịch sử thực thi luật cạnh tranh tại Hoa Kỳ và Châu Âu cho tới
nay, chưa bao giờ một công ty có thị phần thấp như vậy lại được coi là
có vị trí thống lĩnh thị trường.
(17) Tờ trình của Chính phủ về Dự án Luật Cạnh tranh, tháng 4/2004, tr.9.
Nguồn: NCLP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét