Hiển thị các bài đăng có nhãn ls phan khac nghiem. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ls phan khac nghiem. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 3 tháng 10, 2012

Khái quát về Hối phiếu (Bill of exchange)


Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về khái niệm, đặc tính của hối phiếu và một số cách phân loại hối phiếu.
Khái niệm :
Theo Luật điều chỉnh về hối phiếu - ULB 1930 thì : Hối phiếu là tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này ngay khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày nhất định trong tương lai, phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó (có thể là người phát hành hối phiếu hoặc người thứ ba), hoặc trả cho người sở hữu hối phiếu tại thời điểm đó.
Các đặc tính quan trọng :
- Tính bắt buộc của hối phiếu: Hối phiếu là "tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện". Người trả tiền hối phiếu phải trả theo đúng nội dung ghi trên tờ phiếu và không thể viện bất cứ lý do riêng nào của mình để từ chối trả tiền đối với người ký phát hối phiếu hay người thụ hưởng, trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với các đạo luật chi phối nó.
- Tính trừu tượng của hối phiếu: Trên hối phiếu không nêu nguyên nhân phát sinh việc lập hối phiếu, mà chỉ ghi số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu cũng không bị ràng buộc bởi bất cứ nguyên nhân gì sinh ra hối phiếu. Nói cách khác, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng.
- Tính lưu thông của hối phiếu: Hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn của nó. Hối phiếu có tính chất này vì hối phiếu là lệnh đòi tiền của người này với người khác, trên hối phiếu có một giá trị tiền nhất định và hối phiếu có tính bắt buộc & tính trừu tượng.
Phân loại hối phiếu : Chúng ta có thể căn cứ vào các tiêu thức khác nhau để phân loại hối phiếu
- Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành ba loại:
+ Hối phiếu trả tiền ngay: Người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người cầm hối phiếu xuất trình phải lập tức trả tiền ngay.
+ Hối phiếu trả tiền sau một số ngày nhất định: Người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này ký chấp nhận trả tiền và sau đó từ 5 đến 7 ngày tiến hành trả tiền hối phiếu đó.
+ Hối phiếu có kỳ hạn: Sau một thời hạn nhất định ( thường lớn hơn 7 ngày ) kể từ ngày ký phát hối phiếu hoặc ngày chấp nhận hối phiếu, người trả tiền phải thanh toán tiền trên hối phiếu.
- Căn cứ vào chứng từ kèm theo hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành hai loại:
+ Hối phiếu trơn: Là hối phiếu mà việc thanh toán tiền trên hối phiếu này không kèm theo chứng từ thương mại. Thường được sử dụng để thu cước phí vận tải, đòi nợ cũ...
+ Hối phiếu kèm chứng từ: Là loại hối phiếu được gửi kèm theo chứng từ thương mại đến người có nghĩa vụ trả tiền.
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành hai loại:
+ Hối phiếu đích danh: Là loại hối phiếu ghi rõ tên người thụ hưởng, loại hối phiếu này không thể chuyển nhượng bằng nguyên tắc ký hậu
+ Hối phiếu theo lệnh: Là loại hối phiếu yêu cầu người thanh toán trả tiền theo lệnh của người thụ hưởng hối phiếu. Hối phiếu theo lệnh được chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu theo luật định.
- Căn cứ vào chủ thế ký phát hối phiếu chia làm hai loại:
+ Hối phiếu thương mại: Là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát đòi tiền người nhập khẩu, liên quan đến nghiệp vụ thanh toán hàng hoá xuất khẩu hoặc cung ứng dịch vụ.
+ Hối phiếu Ngân hàng: Là hối phiếu do Ngân hàng phát hành lệnh cho Ngân hàng đại lý của mình thanh toán tiền nhất định cho người thụ hưởng được chỉ định trên hối phiếu ( loại hối phiếu này không thể chuyển nhượng).

Luật sư Phan Khắc Nghiêm

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

MỘT SỐ NỘI DUNG PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN BIỆN PHÁP BẢO LÃNH ĐỐI VỚI HƠP ĐỒNG TÍN DỤNG

Với bản chất là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bảo lãnh hay bất kỳ biện pháp bảo đảm nào khác trong quan hệ dân sự như đặt cọc, cầm cố, thế chấp, tín chấp, ký quỹ,… được coi là một phần không tách rời với hợp đồng (nếu các chủ thể có lựa chọn biện pháp bảo đảm cho việc ký kết hoặc thực hiện hợp đồng), nhưng vẫn có giá trị độc lập tương đối. Ðiều này đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, trao đổi và đưa ra quan điểm của mình1.
Bên cạnh đó, Ðiều 317 Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) về chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm quy định “trong trường hợp nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác”. Việc phân định rõ vị trí pháp lý của các biện pháp bảo đảm với hợp đồng chính, hợp đồng phụ sẽ giúp cho các bên liên quan hiểu rõ nghĩa vụ pháp lý của mình, đặc biệt trong quan hệ bảo lãnh, một quan hệ vừa mang tính đối nhân – có sự tham gia của người thứ ba, vừa có thể mang tính đối vật – nếu quan hệ bảo lãnh có sự thế chấp, cầm cố tài sản của người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh.

Xung quanh chế định bảo lãnh hiện nay, những vấn đề pháp lý như khái niệm, đặc điểm của biện pháp này và một số vướng mắc khi áp dụng trên thực tiễn được các nhà nghiên cứu và áp dụng pháp luật rất quan tâm. Trong hoạt động ngân hàng, biện pháp bảo lãnh, hay nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một trong những công cụ được sử dụng khá thường xuyên, được các ngân hàng hay tổ chức tín dụng áp dụng như một dịch vụ kinh doanh hiệu quả bằng các nghiệp vụ bảo lãnh như “bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tạm ứng,…”. Bên cạnh đó, biện pháp bảo lãnh còn được áp dụng khá phổ biến trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với tổ chức, cá nhân.
1. Quy định pháp luật hiện hành về bảo lãnh

Khái niệm: Ðiều 361 BLDS 2005 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”.


Hình thức bảo lãnh: Bắt buộc phải được lập thành văn bản (có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính). Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực2.

2. Ðặc điểm

Thứ nhất, bảo lãnh là quan hệ giữa ba bên: Bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.

Trong số bảy biện pháp bảo đảm, có hai biện pháp có sự tham gia trực tiếp của người thứ ba, đó là bảo lãnh và tín chấp. Tuy nhiên, tín chấp có phạm vi chủ thể rất hẹp, đó là bên tín chấp là tổ chức chính trị, xã hội tại cơ sở, bên nhận tín chấp là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, bên được tín chấp là cá nhân, hộ gia đình nghèo. Tín chấp hoàn toàn được hiểu là biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân, không có chế tài về tài sản đối với bên tín chấp3. Còn trong quan hệ bảo lãnh, chủ thể tham gia có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Chế tài xử lý tài sản của bên bảo lãnh được pháp luật quy định rất cụ thể “trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”4.

Thứ hai, yêu cầu về chủ thể bảo lãnh: Mặc dù pháp luật không quy định yêu cầu của chủ thể bảo lãnh, nhưng trên thực tế, các chủ thể này thường phải đảm bảo một trong các tiêu chí sau: i) Có uy tín hoặc ii) Có tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình hoặc iii) Vừa có uy tín, vừa chứng minh được năng lực tài chính để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ.

Thứ ba, giống như các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác, bảo lãnh vừa có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng tín dụng, vừa có tính độc lập tương đối.

Căn cứ theo Ðiều 317 BLDS 2005 tôi vừa viện dẫn ở trên và Ðiều 410 BLDS 2005 về hợp đồng dân sự vô hiệu, điều này khẳng định biện pháp bảo đảm là một biện pháp gắn bó mật thiết với hợp đồng, nhưng không phải là một phần của hợp đồng hoặc là nội dung của hợp đồng, dù có thể được ghi trong hợp đồng chính. Bởi các lý do sau: i) Biện pháp bảo đảm kèm theo nghĩa vụ không đương nhiên được chuyển giao nếu không có thỏa thuận khác. Như vậy, cũng có thể nói, biện pháp bảo đảm không phải là một phần của nghĩa vụ, mà chỉ là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, điều này cũng có nghĩa nó không thuộc hợp đồng mà chỉ là biện pháp bảo đảm ký kết hoặc thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện nghĩa vụ; ii) Ðiều này một lần nữa được khẳng định tại Ðiều 410 BLDS 2005, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Quy định này đã gây nên rất nhiều tranh cãi cả trên lĩnh vực nghiên cứu và thực tiễn áp dụng.

Về phương diện pháp lý, có quan điểm cho rằng, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, tức là hợp đồng đó không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận5, thì các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự không còn ý nghĩa, do vậy cũng phải bị vô hiệu.
Tôi không đồng thuận với quan điểm trên, vì: (1) Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự không phải là hợp đồng, nên không đương nhiên bị vô hiệu theo hợp đồng chính; (2) Giao dịch bảo đảm có tính độc lập tương đối với hợp đồng, hợp đồng chính có thể bị vi phạm một trong các điều kiện được quy định tại Ðiều 122 BLDS 2005 và bị tuyên vô hiệu, nhưng các điều kiện hình thành giao dịch bảo đảm không vi phạm quy định pháp luật thì không thể có cơ sở để tuyên giao dịch bảo đảm vô hiệu. Ví dụ, khi tham gia giao kết hợp đồng mua nhà có đặt cọc, có chứng cứ chứng minh họ bị lừa dối, bán nhà không thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên, khi phát hiện ra việc lừa dối, thì hợp đồng đặt cọc không đương nhiên bị vô hiệu theo hợp đồng chính mà bên bán vẫn phải chịu phạt cọc theo quy định do lỗi của mình6; (3) Khoản 2, Ðiều 137 BLDS 2005 không triệt tiêu hoàn toàn nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng vô hiệu. Trên thực tế, không phải mọi trường hợp đều có thể quay trở lại tình trạng ban đầu, do vậy, pháp luật quy định “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền,… Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Như vậy, nghĩa vụ thanh toán hay nghĩa vụ bồi thường vẫn được đặt ra ở đây, và biện pháp bảo đảm thực hiện cho các nghĩa vụ này đương nhiên phải được áp dụng nếu bên có nghĩa vụ không hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Trên phương diện thực tiễn, có một số quan điểm xung quanh việc hợp đồng chính bị vô hiệu có kéo theo sự vô hiệu của các biện pháp bảo đảm hay không? Ví dụ, trường hợp các bên có thỏa thuận biện pháp bảo đảm vô hiệu khi hợp đồng chính bị vô hiệu.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, pháp luật dân sự phải tôn trọng tối đa quyền tự thỏa thuận và định đoạt của đương sự7, nên nếu có thỏa thuận về sự vô hiệu của biện pháp bảo đảm liên quan đến sự vô hiệu của hợp đồng chính thì tòa án hay các bên liên quan buộc phải tôn trọng thỏa thuận đó.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng, cần phải nghiêm túc tuân thủ quy định tại Ðiều 410 BLDS 2005. Ngoài ra, việc tuyên giao dịch vô hiệu là thuộc thẩm quyền của tòa án8, các bên tự tuyên giao dịch vô hiệu là không đúng thẩm quyền. Nếu tòa án xem xét thấy giao dịch bảo đảm đó có đủ điều kiện để tuyên vô hiệu, tòa án sẽ tiến hành các thủ tục tuyên giao dịch vô hiệu theo đúng quy định, nếu giao dịch bảo đảm đó không vi phạm các quy định pháp luật thì tòa án không thể tuyên giao dịch vô hiệu dù các bên có thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh hoặc hợp đồng tín dụng. Trong các điều kiện tuyên giao dịch vô hiệu, không có quy định nào là “tòa án tuyên giao dịch vô hiệu do các bên thỏa thuận giao dịch đó bị vô hiệu” nên toà án không có cơ sở để áp dụng.

Với các lập luận trên, chúng ta có thể nhận thấy sự xung đột về pháp luật. Vì nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là tôn trọng quyền tự định đoạt và thỏa thuận của các bên đương sự, nhưng nguyên tắc cơ bản trong xét xử của các cấp tòa án là “độc lập, khách quan và chỉ tuân theo hiến pháp và pháp luật”. Do vậy, trên thực tiễn, thỏa thuận “biện pháp bảo lãnh bị vô hiệu nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu” sẽ khó có cơ sở để được tòa án tuyên vô hiệu, và như vậy thì biện pháp bảo lãnh vẫn được áp dụng khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu. Nhưng nếu thỏa thuận trên được sửa thành “biện pháp bảo lãnh sẽ bị hủy bỏ (hoặc không phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm ký kết) nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu” thì khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu, biện pháp bảo lãnh sẽ bị hủy bỏ, mặc dù, về bản chất việc “hủy bỏ hợp đồng hay không phát sinh hiệu lực từ thời điểm ký kết” không khác gì với hậu quả pháp lý của “hợp đồng vô hiệu”. Do các quy định pháp luật hiện nay vẫn còn có sự xung đột, nên để đảm bảo quyền lợi cho mình và tránh những vướng mắc có thể xảy ra trong quá trình thực hiện, các bên nên có sự cân nhắc cẩn trọng khi lựa chọn và sử dụng thuật ngữ pháp lý.
3. Một số ưu điểm, vướng mắc và kiến nghị khi áp dụng biện pháp bảo lãnh đối với hợp đồng tín dụng

- Ưu điểm

Thứ nhất, chủ thể: Pháp luật hiện hành không hạn chế chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh, cũng không yêu cầu về tư cách chủ thể hoặc tài sản của bên bảo lãnh. Ðây là yếu tố khá thuận lợi giúp các bên tự do lựa chọn hình thức này. Có thể nói, trong các hợp đồng tín dụng hiện nay, bảo lãnh là một trong những biện pháp được áp dụng khá phổ biến với những điều kiện, thủ tục thuận tiện và hành lang pháp lý đối với biện pháp này được quy định tương đối đầy đủ. Trên thực tế, không phải lúc nào bên đi vay cũng có đủ tài sản để cầm cố hay thế chấp đảm bảo trả nợ khi đến hạn. Do vậy, quy định mở về sự tham gia của bên thứ ba sẽ giúp cho nhiều tổ chức, cá nhân có khả năng được vay vốn, tháo gỡ khó khăn, còn bên bảo lãnh cũng không bị ràng buộc quá nhiều trách nhiệm pháp lý theo luật khi giao kết giao dịch bảo đảm (trừ trường hợp bên bảo lãnh phải cầm cố, thế chấp tài sản của mình và/hoặc phải đăng ký giao dịch bảo đảm để đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên). Ngoài ra, trong một số trường hợp, đây còn được coi là biện pháp “ba bên cùng có lợi”: Tổ chức tín dụng cho vay để thu lãi, người đi vay có thể được vay vốn để trang trải hoặc tiếp tục sản xuất kinh doanh, người bảo lãnh sẽ được nhận khoản thù lao cho việc bảo lãnh của mình.
Thứ hai, chế tài về tài sản đối với bên bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ đến hạn. Ðiều này tạo sự yên tâm cho tổ chức tín dụng khi chấp nhận cho một tổ chức, cá nhân nào đó vay tiền khi có người bảo lãnh.

Thứ ba, sự ràng buộc trách nhiệm của bên bảo lãnh được pháp luật quy định rất chặt chẽ và thiên về hướng có lợi cho người nhận bảo lãnh. Cụ thể, Ðiều 366 BLDS 2005 quy định: “Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn”. Nhưng Ðiều 41 Nghị định 160/2006 về căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, khoản 13 Ðiều 1 Nghị định 11/2012 về xử lý tài sản của bên bảo lãnh hướng dẫn đối với một số trường hợp cụ thể như sau:
“1. Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh; 2. Bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ đó, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; 3. Bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ; 4. Các căn cứ khác, nếu pháp luật có quy định”, và “Việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo quy định tại Ðiều 369 BLDS được thực hiện như sau: 1. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì tài sản cầm cố, thế chấp được xử lý theo quy định tại Chương IV của Nghị định này; 2. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh xử lý theo yêu cầu của bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu bên bảo lãnh không giao tài sản thì bên nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật; 3. Tại thời điểm xử lý tài sản của bên bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không có tài sản để xử lý hoặc khoản tiền thu được từ việc xử lý tài sản không đủ thanh toán nghĩa vụ được bảo lãnh thì trong phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải giao tài sản có được sau thời điểm xử lý cho mình để tiếp tục xử lý”.

Một số vướng mắc và kiến nghị

Một là, vướng mắc của quan hệ bảo lãnh, đó là sự phức tạp và đôi khi chưa phân định rõ ranh giới trách nhiệm của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh trong các quy định pháp luật. Một số quy định pháp luật hướng dẫn thiên về định tính nhiều hơn định lượng. Trong một số vụ tranh chấp liên quan đến quan hệ bảo lãnh, người được bảo lãnh không thực hiện hết trách nhiệm của mình và đẩy hết rủi ro cho bên bảo lãnh. Quy định tại Ðiều 41 Nghị định 160/2006, tại khoản 2 và 3, căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay cả khi nghĩa vụ chưa đến hạn (điều này sẽ khiến cho bên bảo lãnh rơi vào thế bị động) hoặc bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Vậy, căn cứ để xác định thời điểm trước khi đến hạn hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ sẽ có ý nghĩa định tính. Vì việc xác định “thời điểm trước khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ” và “không có khả năng thực hiện nghĩa vụ” theo khoản 2, 3, Ðiều 41 Nghị định 160/2006 được thể hiện dựa trên những tiêu chí nào là điều không đơn giản. Nếu bên bảo lãnh không nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật, vì “nể” mà đứng ra bảo lãnh sẽ rất có thể sẽ phải chịu rủi ro. Việc quy trách nhiệm cho bên bảo lãnh vô hình chung sẽ làm giảm trách nhiệm của bên được bảo lãnh. Ví dụ, Công ty A bảo lãnh cho Công ty B vay vốn (có tài sản thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh). Ðến hạn, Công ty A không trả được nợ, Công ty B bị ngân hàng khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, tại thời điểm không trả được nợ, Công ty A vẫn hoàn toàn có đầy đủ năng lực tài chính để thanh toán khoản vay, nhưng đã cố tình không trả để đẩy trách nhiệm cho người bảo lãnh. Do vậy, với các quy định pháp luật hiện hành, có nhiều yếu tố “tiềm ẩn rủi ro” cho bên bảo lãnh nên trước khi đứng ra nhận bảo lãnh, bên liên quan nên nghiên cứu đầy đủ và quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mình để đưa vào hợp đồng bảo lãnh.

Ðể đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan, chúng tôi kiến nghị pháp luật nên quy định trách nhiệm liên đới giữa các bên. Cụ thể như sau: “Bên được bảo lãnh phải có trách nhiệm bằng tài sản của mình thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ trong thời hạn quy định, trong trường hợp có đầy đủ chứng cứ chứng minh bên được bảo lãnh cố tình không thực hiện nghĩa vụ khi có đầy đủ điều kiện thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh và/hoặc bên bảo lãnh giao tài sản thuộc sở hữu của mình ra để thanh toán”. Tức quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản sẽ áp dụng đối với cả hai bên, để đảm bảo thu hồi nợ chứ không phải chỉ đối với bên bảo lãnh như quy định hiện nay.
Hai là, xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo lãnh là thương mại hay dân sự. Vì tương ứng với mỗi ngành luật, các chế tài về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại sẽ có một số khác biệt. Có quan điểm hiện nay cho rằng, hợp đồng tín dụng là hợp đồng dân sự, do trong Luật Thương mại không quy định về loại hợp đồng này, hoạt động cho vay tiền không phải nhằm mục đích sinh lời mà chỉ là lấy lãi suất ở một mức cố định, nên không được xem là hoạt động kinh doanh sinh lợi. Quan điểm thứ hai lại coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng thương mại, vì: (i) Chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng hầu hết đều là thương nhân (hoặc thương nhân với cá nhân). Tổ chức tín dụng trên thực tế cũng là thương nhân, có đăng ký kinh doanh và có hoạt động thương mại (nhằm mục đích sinh lợi); (ii) Mục đích của hoạt động cho vay cũng là sinh lợi, lãi suất chính là yếu tố sinh lợi từ khoản tiền cho vay. Tôi đồng thuận với quan điểm thứ hai, hợp đồng tín dụng là hợp đồng thương mại và chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại. Vậy biện pháp bảo lãnh có chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại hay không? Trong trường hợp người bảo lãnh nhằm mục đích hưởng thù lao, thì hoạt động này sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại và hợp đồng bảo lãnh sẽ được coi như một hợp đồng dịch vụ bảo lãnh nếu đứng độc lập, còn đối với hợp đồng tín dụng, thì hợp đồng bảo lãnh chỉ được coi là “biện pháp bảo đảm” chứ không được coi là hợp đồng phụ, một phần hay phụ lục của hợp đồng. Còn đối với trường hợp bảo lãnh không hưởng thù lao, theo quan điểm của tôi cũng nên căn cứ vào Luật Thương mại để áp dụng, bởi bảo lãnh là biện pháp có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng tín dụng.

Do vậy, chúng tôi kiến nghị nên có hướng dẫn cụ thể luật áp dụng đối với hợp đồng tín dụng là dân sự hay thương mại để đảm bảo nguyên tắc áp dụng luật được thống nhất trong quá trình xét xử.

Ba là, vướng mắc liên quan đến biện pháp bảo lãnh và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (hay còn gọi là việc thế chấp, cầm cố tài sản của bên thứ ba). Quan hệ bảo lãnh có liên quan đến việc cầm cố, thế chấp tài sản, nếu pháp luật có quy định phải đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng hay chứng thực, thì vấn đề đặt ra ở đây là có phải làm các thủ tục với cả thỏa thuận bảo lãnh hay chỉ phải làm các thủ tục với thỏa thuận cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba? Bởi trên thực tế, có một số trường hợp thỏa thuận bảo lãnh có kèm theo các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng cũng có trường hợp hai văn bản này được lập riêng. Căn cứ theo Ðiều 3 Nghị định 83/2010, thì bảo lãnh không thuộc trường hợp phải đăng ký giao dịch bảo đảm. Ðiều này cũng không quy định trường hợp bảo lãnh có kèm theo biện pháp cầm cố thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh thì phải đăng ký. Nhưng trên thực tế, nhiều giao dịch bảo lãnh có kèm theo tài sản thế chấp nghĩa vụ bảo lãnh đã bị tòa án tuyên vô hiệu do không đăng ký giao dịch bảo đảm. Ðể đảm bảo sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng luật, tôi kiến nghị nên có hướng dẫn cụ thể hơn về trường hợp thế chấp, cầm cố tài sản của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh theo hướng yêu cầu các bên phải đăng ký giao dịch bảo đảm (hoặc công chứng, chứng thực) cả thỏa thuận bảo lãnh và biện pháp cầm cố, thế chấp đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh nếu pháp luật yêu cầu tài sản đó phải tuân thủ các thủ tục này.

Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm được áp dụng rộng rãi và thể hiện nhiều ưu điểm trong quan hệ tín dụng hiện nay. Tuy nhiên, xung quanh chế định này vẫn còn một số vướng mắc và tiềm ẩn tranh chấp. Do vậy, việc nghiên cứu, dự liệu và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo lãnh là một trong những yêu cầu cần thiết để hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý về các biện pháp bảo đảm nói chung, bảo lãnh nói riêng đối với các hợp đồng tín dụng hiện nay.

Chú thích:

1 Xem thêm TS. Nguyễn Văn Tuyết: “Ðặc điểm pháp lý và mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng thế chấp tài sản với hợp đồng tín dụng trong hoạt động tín dụng cho vay của tổ chức tín dụng”, Tạp chí Ngân hàng số 17/2010.

2 Trích Ðiều 362 BLDS 2005.

3 Tham khảo các Ðiều từ 372, 373 BLDS 2005; Từ Ðiều 49 đến Ðiều 55 Nghị định 163/2006.

4 Ðiều 369 BLDS 2005.

5 Trích Ðiều 137 BLDS 2005.
6 Xem thêm Nghị quyết 01/2003/NQ-HÐTP ngày 16/4/2003 của HÐTPTANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.

7 Xem Ðiều 4 BLDS 2005.

8 Xem thêm Ðiều 136 BLDS 2005 và Khoản 1.4 Ðiều 1 Nghị quyết
02/2004/NQ-HÐTPTANDTC ngày 10/8/2004.


--------------------------------------------------------------------------------

SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 10 NĂM 2012

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

QUAN ĐIỂM CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM CÓ ĐƯỢC GHI VÀO TRONG BẢN ÁN KHÔNG?

Tại khoản 2 Điều 21 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người  có nhược điểm về thể chất, tâm thần.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát mà cụ thể là của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm được thể hiện tại bài phát biểu sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong. Nội dung bài phát biểu của Kiểm sát viên phải tập trung vào việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án (Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự).
Như vậy, pháp luật đã xác định rất rõ ràng nội dung phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm. Nếu như Kiểm sát viên tham gia phiên toà cho rằng Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử vi phạm tố tụng, chẳng hạn còn thiếu người tham gia tố tụng, cần xác minh thu thập thêm chứng cứ,v.v…thì có quyền đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà để khắc phục những thiếu sót đó. Ví dụ: Ngày 01 tháng 01 năm 2008, ông A cho ông B vay số tiền là 100.000.000đ với lãi suất là 1%/tháng để kinh doanh với thời hạn vay là một năm. Đến thời hạn trả nợ, ông B vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên vào năm 2010, ông A khởi kiện ông B đòi số tiền nợ gốc và lãi trên. Sau khi hoà giải không thành, Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, tại phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên toà cho rằng Hội đồng xét xử cần phải đưa vợ của ông B là bà C vào tham gia tố tụng mới đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự và đúng quy định pháp luật. Do đó, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà để khắc phục thiếu sót này.
Vấn đề đặt ra là ý kiến phát biểu trên của Kiểm sát viên có được ghi nhận vào trong bản án hay không? Đối với vấn đề này trên hiện nay có hai luồng ý kiến khác nhau và có cách làm chưa thống nhất.

Quan điểm thư nhất cho rằng do hiện nay Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao mà cụ thể là Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc ghi nhận ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên trong bản án, do vậy trong bản án không phải ghi ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên.
Quan điểm thứ hai cho rằng trong bản án phải ghi ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên toà trong phần xét thấy thì mới phù hợp và đúng với quy định của pháp luật. Quan điểm này cho rằng, nếu không ghi ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên thì sẽ không xác định được Thẩm phán, Hội đồng xét xử, cũng hay những người tham gia tố tụng có tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng hay không? Và quan điểm nào của Kiểm sát viên được chấp nhận, quan điểm nào không được chấp nhận?
Trong hai quan điểm trên thì quan điểm thứ hai có lẽ phù hợp và có cơ sở hơn. Bởi lẽ, khi Kiểm sát viên tham gia phiên toà mà ý kiến phát biểu không được ghi vào trong bản án thì sẽ được thể hiện ở đâu? Mặt khác, nếu trong bản án không thể hiện Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát thì quyết định trong bản án chưa đảm bảo được tính khách quan. Chẳng hạn từ ví dụ nêu trên, nếu tại phiên tòa mà Kiểm sát viên đề nghị quan phiên toà để đưa bà C vào tham gia tố tụng, nhưng Hội đồng xét xử không hoãn phiên toà mà tiếp tục xét xử và tuyên án nhưng trong bản án lại không ghi ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Vậy cơ sở nào thể hiện Kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án? Đặt giả thuyết nếu cấp phúc thẩm huỷ án sơ thẩm với vi phạm mà Kiểm sát viên đã đề nghị Toà cấp sơ thẩm khắc phục nhưng không được đồng ý, thì lỗi này thuộc về ai?
Ngoài ra, nếu trong bản án không thể hiện ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên sẽ là một thiếu sót của bản án, bởi lẽ theo quy định thì trong phần xét thấy của bản án  Hội đồng xét xử phải xem xét toàn diện, đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, chẳng hạn các đương sự trong vụ kiện và kể cả ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy, vấn đề đặt ra tại sao ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên  toà lại không được đưa vào trong bản án?
Hơn nữa, theo quan điểm thứ nhất cho rằng hiện nay do chưa có hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao nên không đưa ý kiến của Kiểm sát viên vào trong bản án. Việc lý giải này thật sự chưa ổn và chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Tại Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã xác định rõ nội dung phát biểu của Kiểm sát viên và giai đoạn phát biểu là sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong. Như vậy, không thể cho rằng pháp luật chưa quy định nên không thể đưa các ý kiến phát biểu của kiểm sát viên vào trong bản án như nhận định của quan điểm thứ  nhất.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên toà sơ thẩm phải được đưa vào trong bản án và Hội đồng xét xử phải nhận định cụ thể ý kiến nào của Kiểm sát viên được chấp nhận, ý kiến nào không được chấp nhận thì mới phù hợp.

Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Thứ Tư, 18 tháng 5, 2011

Giám định thương tích, khám nghiệm tử thi trong các vụ án tai nạn giao thông

Giám định sức khoẻ trong các vụ án nói chung và án do tai nạn giao thông (TNGT) nói riêng đang là vấn đề thời sự được mọi người quan tâm, dư luận chú ý không chỉ phải do nó là hình thức tổn thương mới mà do tỷ lệ phần trăm (%) thường khác nhau sau mỗi lần giám định. Vậy, đâu là nguyên nhân đưa đến sự sai lệch đó, khiến cho vụ án kéo dài?
Khi thời gian và quyết định trưng cầu mâu thuẫn nhau…
Khi xảy ra một vụ án TNGT, thì thường các cơ quan tố tụng do chạy theo thời hiệu điều tra theo luật định, nên đã ra quyết định trưng cầu giám định pháp y rất sớm. Thường là ngay sau khi nạn nhân xuất viện, thương tích chưa ổn định, thậm chí sau một thời gian, nạn nhân còn phải tiếp tục nhập viện để tiếp tục quá trình điều trị như rút đinh xương, ghép xương, vá da… nhưng vẫn phải đi khám giám định.
            Ví dụ như, một nạn nhân bị vỡ khớp gối, phải có thời gian điều trị xuyên đinh và cố định khớp gối bằng bó bột. Khi bệnh nhân vừa cắt chỉ, tháo bột chưa lâu thì đã phải đi giám định. Lúc này, chắc chắn khớp gối vẫn còn bị cứng do mổ và bó bột nên bác sĩ giám định viên không thể nào đánh giá được tình trạng của thương tật là tạm thời hay vĩnh viễn. Mà nếu muốn, phải sau ba bốn tháng tập luyện, khớp gối vẫn cứng thì mới kết luận là thương tật vĩnh viễn hoặc ngược lại. Cũng tương tự như vậy, muốn xác định được một thương tích có trở thành cố tật khiến cho nạn nhân không thể trở về cuộc sống sinh hoạt bình thường như trước hay không thì cần phải có yếu tố thời gian. Chính vì vậy, nên kết quả của những lần giám định sớm này đôi khi không đáp ứng đúng, đủ yêu cầu nên buộc phải tiến hành giám định bổ sung, hoặc giám định lại. Và, cũng vì nguyên nhân này nên tỷ lệ % thương tật giữa các lần giám định “đi” và “lại” này rất khác nhau khiến cho vụ án kéo dài.
            Mặt khác, theo TS Vũ Dương, Viện trưởng Viện Pháp y Quốc gia, phần lớn những nội dung trưng cầu như xác định thương tật là tạm thời, hay vĩnh viễn, có gây ra cố tật hay không, phương tiện gì gây ra thương tật như vậy… lại không có trong quy định cho kết luận pháp y (?!). Bởi, từ năm 1995 đến nay, các cơ quan giám định pháp y khi xác định tỷ lệ % của thương tật vẫn căn cứ theo Thông tư liên tịch số 12 do liên Bộ Y tế và LĐ-TB&XH ban hành  để sử dụng cho thương binh, những người có công, mất sức lao động. Khi áp dụng cho các vụ án, không những Thông tư này quá bất cập không theo kịp sự phát triển của khoa học, không đầy đủ các mục cho tổn thương (như sẩy thai, tổn thương như mô não, khuyết sọ…) mà còn là nguyên nhân đưa đến việc xác định tỷ lệ % khác nhau. Đây cũng chính là kẽ hở để cho các bác sĩ giám định viên không có tâm vận dụng có lợi cho đối tượng thân quen.
Và các nguyên nhân khác
Sự chênh lệch tỷ lệ % giữa các lần giám định trong giám định sức khoẻ của các vụ án TNGT hiện nay đã làm nhiều người đi từ ngạc nhiên đến thắc mắc, thậm chí các cơ quan tố tụng cũng không hiểu nổi lý do vì sao. Có khi cũng con người ấy, cơ quan giám định ấy nhưng hai lần giám định khác nhau cũng đưa đến kết quả khác nhau, hay cùng một cơ quan nhưng hai giám định viên khác nhau khám đôi khi cũng cho kết quả khác nhau, hoặc giữa cơ quan giám định trung ương và cơ quan giám định địa phương tỷ lệ % cũng khác nhau. Vậy, đâu là nguyên nhân của những sự khác nhau khó hiểu này?
Trong bài tham luận tham gia buổi hội thảo chuyên đề “Nâng cao chất lượng công tác giải quyết án TNGT”, từ góc độ Viện Pháp y quốc gia cũng như kinh nghiệm bản thân, TS Vũ Dương đã chỉ ra một số nguyên nhân chính như: trình độ kém của giám định viên do không chuyên hoặc non tay nghề; thời gian giám định không phù hợp vì có nhiều thương tích theo thời gian mà phục hồi, nhưng cũng có thương tích theo thời gian lại nặng thêm ví dụ như sẹo lồi gây co cơ; mỗi nơi sử dụng trang bị giám định khác nhau, nơi chỉ dùng XQ thẳng nghiêng, nơi dùng máy chụp cắt lớp CT; thiếu quy trình giám định thống nhất giữa các cơ quan giám định, cơ quan này chỉ giám định sức khoẻ đơn thuần, cơ quan kia lại cộng luôn tỷ lệ tâm thần vào tỷ lệ sức khoẻ làm cho tỷ lệ % giám định cao vọt hẳn lên…
Đặc biệt, trong hoạt động giám định sức khoẻ của vụ án TNGT nói riêng và các vụ án khác nói chung, sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn như bác sĩ lâm sàng, bác sĩ giám định viên, cơ quan trưng cầu giám định thường không có, nên để xảy ra tình trạng bác sĩ lâm sàng ghi trong bệnh án một đằng, BS giám định hiểu một nẻo, hay bác sĩ lâm sàng không ghi chép tỷ mỷ vào hồ sơ bệnh án vô tình giúp tội phạm xoá dấu vết, hoặc bỏ sót tổn thương khiến cho bác sĩ giám định viên không xác định được cơ chế hình thành dấu vết… đã góp phần làm cho tỷ lệ % thêm khác biệt.
Ngoài ra, yêu cầu giám định lại của đương sự để đạt được một mục đích nào đó thay vì thực hiện quyền lợi chính đáng của mình, hay chỉ giám định trên hồ sơ… cũng khiến cho tỷ lệ % các kết quả giám định khác nhau, làm kéo dài thời gian kết thúc vụ án.
Tỷ lệ % trái ngược do người được giám định không hợp tác
            Đứng về góc độ tâm lý, tuy cùng là bác sĩ nhưng khi hầu hết các đối tượng bệnh nhân mà bác sĩ lâm sàng tiếp xúc đều muốn cộng tác thật thà với thầy thuốc để nhanh khỏi bệnh. Ngược lại, bác sĩ giám định viên pháp y luôn phải đối diện với đối tượng muốn tăng thương giả bệnh, đôi khi còn lợi dụng sự yếu kém chuyên môn, suy thoái đạo đức của bác sĩ pháp y để mượn chính tay bác sĩ trả thù đối phương. Để thực hiện được mưu đồ, họ có rất nhiều kiểu bất hợp tác như giả vờ, trốn tránh, mua chuộc người giám định… Sự thật chỉ có một, mà ý muốn lại đa chiều nên tỷ lệ % cũng vì thế mà trái ngược.
Án mạng do tai nạn giao thông (TNGT), việc xác định thủ phạm và nạn nhân tuy không phức tạp như án hình sự. Nhưng, nếu đứng về góc độ xác định nguyên nhân gây ra án mạng thì lại rất phức tạp, khó khăn. Bởi, đôi khi điều đó phụ thuộc chính vào quyết định mổ hay không mổ tử thi để giám định.
Không nên đặt ra để tranh luận
            Trong một vụ án TNGT, nếu chẳng may có xảy ra thiệt mạng, thì vấn đề gây tranh luận lớn nhất hiện nay là có nên mổ tử thi hay không để phục vụ công tác điều tra. Bởi, rất nhiều người cho rằng vụ tai nạn xảy ra ngay trước mắt mọi người, nạn nhân vỡ sọ, lòi ruột ai cũng thấy, có vụ còn có cả dấu vết bánh xe trên thi thể, bằng chứng đã quá rõ ràng như vậy, cần gì phải phải mổ. Nhưng, dưới góc độ của cơ quan pháp y, theo TS Vũ Dương, Viện trưởng Viện Pháp y quốc gia, thì chính những suy đoán tưởng như chắc chắn từ những dấu vết bên ngoài trên tử thi của vụ án TNGT, đã khiến xảy ra tình trạng oan, sai trong điều tra, tố tụng.
            Trước một vụ TNGT diễn ra rất bất ngờ, tuy có rất nhiều nhân chứng nhưng mỗi người lại quan sát từ những góc độ khác nhau và nhận thức cũng không giống nhau nên thông tin mà họ cung cấp cho cơ quan điều tra đôi khi cũng rất trái ngược. Trong khi đó, nhiệm vụ của bác sĩ pháp y là phải trả lời chính xác câu hỏi của cơ quan điều tra về nguyên nhân cái chết của nạn nhân. Và, để có thể trả lời được câu hỏi này, bác sĩ pháp y cũng phải nắm được hàng loạt các thông tin liên quan. Đó là, nạn nhân hay thủ phạm ai đúng ai sai, nguyên nhân thuộc về môi trường (ví dụ trời mưa đường trơn…) hay do phương tiện (xe mất thắng…), con người (không làm chủ tốc độ…). Nếu là con người thì do người điều khiển phương tiện hay nạn nhân, có ai bị bệnh nguy hiểm khi tham gia giao thông, bệnh nan y, sử dụng tân dược chống chỉ định điều khiển phương tiện giao thông… hay không? Đặc biệt, bác sĩ pháp y phải phân biệt được các vụ án mạng giả hiện trường TNGT, các vụ tử tự, bệnh lý đột ngột xảy ra nên TNGT chỉ là hậu quả… Những câu hỏi, phải dựa vào rất nhiều yếu tố mới có thể xác định được, chứ không thể chỉ từ dấu vết suy đoán bên ngoài.
            Theo ông Vũ Dương, khuyết điểm lớn nhất trong thời gian qua của hoạt động khám nghiệm tử thi trong các vụ án TNGT, đó là không làm các xét nghiệm  cận lâm sàng để xác định việc có hay không chất gây nghiện, nồng độ bia rượu trong máu cả nạn nhân và người gây tai nạn vì đôi khi đây chính là nguyên nhân chính. Hay bác sĩ pháp y đưa ra kết luận nạn nhân là một người ung thư giai đoạn cuối (điều này ảnh hưởng rất lớn đến mức án mà người gây tai nạn phải chịu trước toà) chỉ vì khi mổ tử thi thấy có nhiều hạch mà không có hình ảnh kết luận về vi thể để chứng minh gây tranh cãi, khiếu kiện, toà tuyên án không mang tính thuyết phục…
            Nói tóm lại, không riêng gì vụ án TNGT, mọi sự vật liên quan đến vụ án cần phải được chứng minh một cách khách quan, khoa học, chứ không thể bằng sự xét đoán. Nên, vấn đề mổ hay không mổ tử thi TNGT khi giám định không nhất thiết phải đặt ra để tranh luận, mà cứ tuân thủ theo nguyên tắc chuyên môn, luật định để thực hiện.
            Sự phức tạp trong xử lý vụ án TNGT liên quan đến rất nhiều ngành, nhiều người, đến cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị, đến ý thức tuân thủ pháp luật, trình độ chuyên môn…Với các lý do trên, thì sự đồng nhất tỷ lệ % giữa các lần giám định, hay các kết luận giám định giữa các cá nhân giám định viên, tập thể tham gia giám định là điều không thể. Ngược lại, nó sẽ tồn tại như sự tồn tại của TNGT và chỉ giảm khi pháp luật được hoàn thiện, ý thức tuân thủ pháp luật và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong chuỗi mắt xích đương sự – cơ quan tố tụng – bác sĩ điều trị – bác sĩ giám định viên… được cải thiện và nâng cao.             
Xung đột giám định do cách trưng cầu của cơ quan điều tra 
            Khi tiến hành công việc, các cơ quan điều tra, tố tụng và các giám định viên tư pháp bắt buộc phải dựa vào tính pháp lý của văn bản pháp luật. Theo luật đinh, cơ quan trưng cầu chỉ được trưng cầu cơ quan giám định hoặc đích danh giám định viên đã được bổ nhiệm, được cơ quan giám định cử đến.
Trên thực tế, một số cơ quan trưng cầu lại trưng cầu nơi không có chức năng giám định, hay những người không phải giám định viên, bản kết luận giám định “đầu ngô mình sở” (tiêu đề là trung tâm giám định pháp y tỉnh, dưới đóng dấu bệnh viện huyện) không mang tính pháp lý… Chính sự dễ dãi này của cơ quan tố tụng đã góp phần làm cho các vụ án nói chung và án TNGT nói riêng kéo dài, tạo ra xung đột trong giám định.

Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

Dạy luật không chỉ là truyền đạt

Đào tạo luật hiện nay là một thị trường đa dạng và chất lượng không đồng đều. Giới chuyên gia luật đánh giá không cao về hệ thống đào tạo ngành luật: thiếu thực tiễn, thiếu kỹ năng, sinh viên ra trường phải “đào tạo lại”. Trước nhu cầu của người học, “buộc” nhà trường có trách nhiệm dạy cho người học có khả năng hiểu biết, xử lý tình huống và uốn nắn hành vi của con người
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên trao Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho PGS.TS Mai Hồng Quỳ và TS Vũ Văn Nhiêm
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên trao Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho PGS.TS Mai Hồng Quỳ và TS Vũ Văn Nhiêm
Cạnh tranh trong đào tạo luật
Để đạt được mục tiêu đó, nhà trường phải nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút người học - TS. Trần Hoàng Hải, trường Đại học Luật TP.HCM trình bày tại Hội nghị Khoa học, nhân kỷ niệm 15 năm ngày thành lập trường Đại học Luật TP.HCM. 
Kết quả khảo sát sinh viên tốt nghiệp tại Đại học Luật TP.HCM cho thấy chất lượng sinh viên ngày càng được nâng lên, tỷ lệ sinh viên có việc làm và việc làm tốt ngay sau khi tốt nghiệp ngày càng cao, có thể tới trên 90%. Còn trong lĩnh vực pháp luật, Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháp xây dựng chiến lược về phát triển nhanh và bền vững đội ngũ luật sư Việt Nam phục vụ công cuộc hội nhập quốc tế. Dự kiến đến năm 2010 chúng ta có 8.000 luật sư, năm 2020 có 18.000-20.000 luật sư. Con số này cũng dần phát triển theo thị trường. Nếu các cá nhân và doanh nghiệp nhận thức đầy đủ sử dụng dịch vụ luật sư, chắc chắn thị trường ngành nghề này sẽ hút mạnh hơn nữa.
ThS. Trần Kim Liễu – trường Đại học Luật TP.HCM cho rằng: Chất lượng đầu vào có ảnh hưởng nhất định đến quá trình đào tạo và chất lượng đầu ra. Nếu người học có điểm khởi đầu thấp, thì họ sẽ phải tăng nỗ lực của bản thân trong suốt chương trình học tập; hoặc phải kéo dài thời gian học tập cho đến khi được tốt nghiệp và nhà trường phải có nhiều giải pháp để đào tạo những sinh viên có đầu vào thấp để có được một sản phẩm chất lượng cao. Mở rộng đầu vào là một cách để dễ dàng có người học, nhưng lại tạo ra áp lực lớn về đầu ra cho nhà trường. Nếu nâng cao chất lượng đầu vào thì trường phải đối mặt với thực tế là tỷ lệ người học sẽ ít hơn, nhưng quá trình đào tạo sẽ giảm sức ép trong việc đạt được sản phẩm chất lượng cao.
Làm quen với thực tế
TS Hải cho rằng, giải pháp phù hợp nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh là Nhà trường phải đảm bảo mục tiêu đại chúng hóa của hệ thống nguồn nhân lực. Theo đó, các hình thức học tập cần được đa dạng để mọi người có điều kiện được học ở trình độ cao nhất có thể và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Để giải quyết mối quan hệ giữa chất lượng và số lượng, đôi khi cũng phải có sự hài hoà giữa hai yếu tố này do yêu cầu của thị trường lao động và cần phải gắn hiệu quả với chất lượng. Không nhất thiết chúng ta phải có một chất lượng đầu vào tốt nhất mà vấn đề là tính hiệu quả, tính thích hợp của chất lượng đầu ra. Điều quan trọng là tỷ lệ những sinh viên ra trường có việc làm ngay và việc làm tốt phải rất cao.
Cũng theo TS. Trần Hoàng Hải: việc đổi mới phương pháp dạy và học là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Bên cạnh việc áp dụng hiệu quả các phương pháp giảng dạy truyền thống, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình giảng dạy thì định hướng xây dựng phương pháp dạy – học đặc thù cho ngành luật là rất cần thiết.
Phương pháp Socratic (phương pháp hùng biện) và phương pháp dạy học theo vấn đề (case study trong hệ thống đào tạo của Mỹ hoặc PBL - trong hệ thống đào tạo của Châu Âu) là 2 phương pháp cần được tập trung phát triển trong thời gian tới. Việc giáo dục pháp luật là nhằm đào tạo ra những người không chỉ biết luật, hiểu luật mà còn biết giải quyết các công việc đa dạng và phức tạp trong thực tế. Dạy luật không phải chỉ là truyền đạt những kiến thức thuộc lòng về nội dung của các đạo luật mà nhắm đến việc đào tạo ra những luật sư có khả năng thắng kiện, cần dạy cho các sinh viên mọi kĩ năng cần thiết để thắng kiện hơn là dạy luật; dạy cho sinh viên kiến thức và kỹ năng phù hợp với tình hình phức tạp và luôn thay đổi của xã hội.
Được biết, phương pháp Socratic trong trình bày các vấn đề pháp lý và việc sử dụng hệ thống tình huống có vị trí rất quan trọng, đòi hỏi lớp học năng động với sự trao đổi các ý kiến, các câu hỏi và câu trả lời giữa các sinh viên và sinh viên phải tham gia tích cực. Với cách học này, sinh viên vừa tự trau dồi được kiến thức pháp lý, kĩ năng làm việc lại vừa tạo cho bản thân khả năng lập luận, khả năng thuyết phục, tạo tiền đề cho công việc sau này của chính họ. Nhà trường cần dành sự đầu tư cần thiết cho việc thiết lập các phiên tòa giả định, bên cạnh đó, sinh viên cần được tham gia kiến tập tại các phiên tòa thực tế để làm quen với công việc ngay từ khi còn là sinh viên.

Nguồn: Báo Pháp luật Việt Nam

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2011

Chứng khoán phái sinh là gì?

Nhắc đến chứng khoán, mọi người thường chỉ nghĩ đến cổ phiếu, trái phiếu như những công cụ đầu tư hiệu quả, trong khi thị trường chứng khoán còn rất bao la, mà cổ phiếu, trái phiếu chỉ là một vài trong số những “món đồ chơi” ở đây. Còn vô số những khái niệm và công cụ đầu tư khác phải kể đến, mà chứng khoán phái sinh chính là yếu tố quan trọng đầu tiên không thể bỏ qua.

Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps).

Từ sự khởi đầu đơn giản với hợp đồng tương lai và hợp đồng kỳ hạn... 

Hợp đồng tương lai (Futures) là việc thoả thuận giữa các bên về những nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đã xác định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá thị trường tại thời điểm đó. Ví dụ: Vào đầu năm 2002, công ty A ký hợp đồng tương lai với công ty B mua 100 tấn gạo với giá 2 USD/kg với thời điểm mua vào cuối năm 2003. Như vậy vào thời điểm mua, công ty B phải bán cho công ty A 100 tấn gạo với giá 2 USD/kg và công ty A phải mua 100 tấn gạo của công ty B với giá đó, cho dù giá gạo trên thị trường vào cuối năm 2003 là bao nhiêu chăng nữa.

Lúc đầu, đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng tương lai với mục đích nhằm giảm bớt sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong những tháng sau đó. Ví dụ, công ty sản xuất sô- cô- la Hershay đã bao tiêu nguồn cung cấp ca- cao trên thị trường với các hợp đồng tương lai để giới hạn rủi ro nếu giá ca- cao tăng lên. Hợp đồng tương lai thường được các nhà đầu tư xem là một phương thức tốt để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Đến thập niên 80, các hợp đồng tương lai bắt đầu nở rộ và phố biến trong các giao dịch thương mại và bao gồm nhiều loại khác nhau, như Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán (index futures), Hợp đồng tương lai lãi suất (interest futures), Hợp đồng tương lai ngoại hối (currency futures), Hợp đồng tương lai nông sản (agricultural futures), Hợp đồng tương lai kim loại và khoáng sản (metal and mineral futures)...

Hợp đồng kỳ hạn (Forward) là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào: từ nông sản, tiền tệ cho tới các chứng khoán. Điểm khác biệt của hợp đồng kỳ hạn với hợp đồng tương lai là giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau dựa theo những ước lượng mang tính cá nhân và giá này vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng.

… đến những công cụ hiệu quả như quyền chọn và hợp đồng hóan đổi

Quyền chọn cổ phiếu (options) là quyền của các nhà đầu tư (nhưng không phải là nghĩa vụ) được mua hay bán một số lượng cổ phiếu xác định trước theo một giá đã xác định trước và thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu đó trên thị trường.

Có hai loại quyền chọn là quyền chọn bánquyền chọn mua.

Đối với option mua, người mua option sẽ trả cho người bán quyền chọn một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn (option premium) và người mua quyền chọn sẽ có quyền được mua (nhưng không bắt buộc phải mua) một lượng tài sản nhất định (chứng khoán, ngoại tệ, hàng hoá…) theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại thời điểm đã xác định trong tương lai. Người bán quyền chọn nhận được tiền từ người mua quyền chọn nên họ có trách nhiệm phải bán một lượng chứng khoán nhất định theo một giá cả đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai (hoặc được thực hiện trước ngày đó) khi người mua quyền chọn muốn thực hiện cái quyền được mua.

Ví dụ: giá cổ phiếu của IBM trong thời điểm hiện tại là 80 USD/cổ phiếu, sau khi phân tích, bạn dự báo rằng giá sẽ tăng lên trong thời gian tới. Vậy nếu bạn muốn đầu tư 1.000 cổ phiếu của IBM bạn phải chi là 80.000 USD. Nhưng nếu một thời gian, cổ phiếu IBM giảm xuống chỉ còn 40 USD/cổ phiếu thì bạn sẽ mất trắng 40.000 USD. Trong trường hợp này, để hạn chế rủi ro và vẫn thực hiện theo dự báo, bạn nên đầu tư vào quyền chọn, cụ thể là bạn đi mua quyền chọn cổ phiếu IBM, giá thoả thuận trước (strike price) là 80 USD/cổ phiếu, thời gian là 2 tháng, số lượng 1.000 cổ phiếu với mức phí quyền chọn là 2 USD/cổ phiếu. Trong thời gian này, nếu giá cổ phiếu IBM tăng trên 80 USD/cổ phiếu theo đúng dự báo, bạn có thể thực hiện quyền được mua chứng khoán của mình với giá thoả thuận trước là 80 USD/cổ phiếu và đem ra thị trường bán với giá 100 USD/cổ phiếu chẳng hạn, bạn sẽ có lợi nhuận là 20.000 USD, trừ đi chi phí 2 USD/cổ phiếu phí mua quyền chọn, bạn sẽ có lợi nhuận 18.000 USD. Nhưng nếu giá cổ phiếu IBM không tăng lên theo dự đoán của bạn, nó giảm liên tục, cho tới ngày đến hạn trên hợp đồng giá vẫn giảm thì bạn có quyền không thực hiện việc chọn mua của mình và bạn chỉ lỗ tiền phí mua quyền chọn mà thôi, tức là mất 2000 USD. Từ đó, chúng ta thấy rằng, người mua quyền chọn chỉ chịu lỗ ở mức giới hạn, trong khi lợi nhuận thì rất lớn. Người bán quyền chọn cũng có lợi nhuận thu được từ phí mua quyền chọn.

Đối với quyền chọn bán thì sao? Khi một nhà đầu tư lo lắng về giá chứng khoán sụt giảm, họ cóbxp40398.jpg thể sử dụng quyền chọn bán để tự bảo vệ. Với 100 cổ phiếu của IBM trị giá 80 USD/cổ phiếu trong tay, bạn có thể mua quyền chọn với một chút lệ phí nhất định để đảm bảo rằng trong ba tháng tới, bất kỳ lúc nào cũng có thể bán được 100 cổ phiếu đó với giá 80 USD/cổ phiếu. Do đó, nếu số cổ phần này bị mất giá thì bạn cũng không lo lắng vì mình đã có người cung cấp quyền chọn bán bảo đảm mức giá cho mình. Người cung cấp quyền chọn được hưởng lợi từ phí quyền chọn.

Quyền chọn được phát minh dựa trên yếu tố các nhà đầu tư ưa thích cảm giác an toàn khi họ chắc chắn họ sẽ được mua và bán với giá ấn định, họ thu lợi nhuận không cao nhưng bù lại sẽ rất ổn định. Đối tượng của quyền chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý hay nông sản. quyền chọn có thể được mua bán trên thị trường tập trung như Thị trường quyền lựa chọn cổ phiếu Chicago - CBOE, thị trường hợp đồng tương lai quốc tế London - LIFFE hay các thị trường phi tập trung OTC.

Hợp đồng hoán đổi cũng là một công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực lãi suất và tiền tệ. Nhiều công ty, ngân hàng muốn có hợp đồng hoán đổi để ấn định tỷ lệ lãi suất nhằm giảm thiểu sự bất ổn trong kinh doanh. Ngoài ra, hợp đồng hoán đổi cũng rất hiệu quả trong việc huy động vốn. Đầu thập niên 90, Citi Bank, ngân hàng lớn nhất tại Mỹ đã mở rộng một số hoạt động đầu tư sang Nhật bản nên cần một lượng tiền yên Nhật rất lớn trong một thời gian ngắn, trong khi vốn của Citibank lại không có đủ đồng yên. Các chuyên gia nghiệp vụ ngân hàng của Citibank lập tức nghĩ ngay đến Chifon Bank của Nhật bản. Citibank đã thoả thuận một hợp đồng hoán đổi với Chifon Bank, theo đó Citi Bank chuyển cho Chifon Bank một lượng USD nhất định, đổi lại Chifon Bank sẽ cung cấp đồng yên cho hoạt động đầu tư của Citibank tại Nhật bản. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng 24 tiếng, Citibank đã có đủ vốn cần thiết cho dự án đầu tư tại đây. Như vậy, hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.

Có thể nói, các công cụ phái sinh đang ngày một phổ biến và được áp dụng nhiều hơn bao giờ hết đối với tất cả các hàng hoá chính trên thị trường chứng khoán, từ cổ phiếu, trái phiếu cho đến tiền tệ và hàng hoá như sắt, năng lượng, sản phẩm nông nghiêp…. Sự phố biến của các công cụ phái sinh trên thị trường xuất phát từ tính linh hoạt và mềm dẻo của nó so với các công cụ khác. Lợi nhuận của những công cụ này được hình thành từ chính giá của những sản phẩm mà nó điều chỉnh. Điều này giúp cho các ngân hàng, các nhà giao dịch hay nhà đầu tư có thể “đánh cược” vào sự biến động về giá cả mà bỏ qua những tranh cãi về giá trị thực tế của tài sản.

Từ suy nghĩ như vậy, những ích lợi của các công cụ phái sinh luôn được các nhà đầu tư khai thác triệt để nhằm tránh những khoản thua lỗ do sự biến động của giá cả. Một cách giản đơn, với việc mua các công cụ phái sinh, các nhà đầu tư đang đánh cược rằng thị trường sẽ biến động theo chiều hướng ngược lại mong muốn sinh lời của mình, từ đó, với “một mũi tên trúng hai đích”, các nhà đầu từ vừa có được lợi nhuận nếu giá cổ phiếu lên cao, vừa đảm bảo sẽ không thua lỗ trong trường hợp cổ phiếu mất giá.

Các công cụ chứng khoán phái sinh được sử dụng nhiều trong các Quỹ phòng hộ (hedge-fund). Theo nhiều người, Quỹ phòng hộ là một phát minh lớn trên thị trường chứng khoán dùng để bù đắp lại rủi ro đầu tư. Tại quỹ này, các nhà đầu tư ưa thích sự an toàn sẽ tham gia và sử dụng các công cụ chứng khoán phái sinh để bảo vệ khoản tiền đầu tư của mình chống lại những tăng trưởng không dự tính trước cũng như sự sụt giá bất ngờ hay lên giá đột ngột của hàng hoá. Và thế là các Quỹ phòng hộ liên tục xuất hiện và được điều hành bởi một công ty đầu tư huy động vốn của cổ đông rồi đầu tư vào các chứng khoán phái sinh nhằm thu lợi nhuận ổn định và đều đặn.
hedge3.jpg

George Soros
, nhà đầu cơ tài chính lớn nhất thế giới, là hình mẫu thành công khi áp dụng các công cụ phái sinh trên thị trường. Ngay trong những thời điểm khó khăn nhất vào cuối thập niên 1990 khi giá cả biến động liên tục, thì các Quỹ phòng hộ của Soros vẫn luôn đạt con số lợi nhuận trên 10% nhờ biết cách mua đi và bán lại các công cụ phái sinh. Với các danh mục đầu tư dàn trải trên nhiều thị trường khắp các châu lục, Soros luôn đảm bảo các công cụ phái sinh của mình đem lại hết lợi nhuận này đến lợi nhuận khác. Nổi bật trong số những Quỹ Phòng hộ là Quantum Fund và Quota Fund thông qua công ty quản lý quỹ mang tên Soros Fund Management.

Trên thực tế, việc đầu tư vào các các công cụ phái sinh vẫn chưa được nhiều nhà đầu tư chú ý, bởi nếu các nhà đầu tư mạo hiểm mua thật nhiều cổ phiếu mà không băn khoăn về khả năng thua lỗ thì họ sẽ thu về hàng triệu USD lợi nhuận; trong khi đầu tư vào các công cụ phái sinh, tuy đảm bảo được sẽ không bị thua lỗ nhưng do các bên cung cấp công cụ phái sinh trên thị trường thường giới hạn một lượng cung cấp nhất định đồng thời yêu cầu mức phí khá cao, nên các nhà đầu tư chỉ thu về một phần lợi nhuận nhỏ hơn rất nhiều. Thông thường, thị trường sẽ không biến động nhiều như những suy đoán của các nhà đầu tư khi áp dụng công cụ phái sinh, nên đa phần các nhà đầu tư thường tiếc nuối vì đã bỏ qua lợi nhuận, hơn là mừng thầm vì đã đầu tư vào công cụ phái sinh.

Tuy vậy, tính tích cực và hình ảnh của những công cụ chứng khoán phái sinh ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Không ai có thể phủ nhận rằng các công cụ này đã giúp nhiều nhà đầu tư thoát khỏi các vụ thua lỗ hàng triệu USD trên thị trường chứng khoán, cũng như khiến mọi người an tâm hơn khi đến với thị trường đầy rủi ro này! Thậm chí, những thành công của nó còn gây ra những tiếng vang lớn đến nỗi được các đạo diễn tài ba của Hollywood tái hiện trong bộ phim Trading Places với sự tham gia của tài tử điện ảnh Eddie Murphy.
S.T
Nguồn: www.saga.vn

Thứ Hai, 3 tháng 1, 2011

KHỞI ĐỘNG TIẾN TRÌNH SỬA LUẬT ĐẤT ĐAI 2003: Năm 2013 khó chia lại ruộng

Theo Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên, qua thực tiễn triển khai thi hành Luật Đất đai 2003 đã phát sinh nhiều nội dung cần điều chỉnh.

Đó là: chính sách giao đất nông nghiệp; thời hạn sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hằng năm đã giao theo Nghị định 64/1993; chính sách điều tiết lợi ích từ đất đai giữa nhà nước, nhà đầu tư và người dân; chính sách xã hội, điều tiết thị trường đất đai và hỗ trợ tái định cư; thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng…

Thực tế người dân hiện nay đang rất quan tâm vấn đề đến năm 2013, tức 20 năm từ khi thực hiện giao đất theo Nghị định 64/1993, cũng là thời điểm đất nông nghiệp trồng cây hằng năm chạm đến hạn sử dụng 20 năm, nhà nước có thu hồi ruộng đất để chia lại hay không. Đây cũng là vấn đề được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Phạm Khôi Nguyên nêu ra tại Hội nghị tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2003 tổ chức tại Đà Nẵng ngày 10-12.

Vấn đề cực kỳ phức tạp!
Vấn đề giao đất theo Nghị định 64/1993 sau 20 năm thực hiện, theo Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên là một vấn đề cực kỳ phức tạp. Ông phân tích: Năm 1993, khi giao đất cho dân thì giao theo hộ, theo từng nhân khẩu và theo hạn mức sào. Trung bình hộ hai người được hai sào, hộ 10 người được 10 sào. Sau 20 năm, bây giờ gia đình 10 người có khi chỉ còn hai nhưng gia đình hai người lại thành 10 rồi, từ đó tạo ra sự bất hợp lý. “Hai người vẫn giữ 10 sào, trong khi đó chưa thu thuế đất. Bây giờ điều tiết lại bằng cách gì? Chia lại ruộng đất à? Khó lắm, làm sao chia lại được bây giờ? Mà nếu đã chia lại thì liên tục sẽ chia lại vì dân số liên tục thay đổi. Ra cơ chế gì đây?” - Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên liên tục đặt câu hỏi.


Tuy nhiên, những câu hỏi của bộ trưởng không được đại biểu nào góp ý kiến. Cho nên ông lại tiếp tục nói: “Khi Quốc hội bàn có đánh thuế đất nông nghiệp hay không, tôi có nêu quan điểm nhưng chưa được chấp nhận. Đó là: Hạn mức đất nông nghiệp giao thì không đánh thuế, còn vượt quá hạn mức thì phải đánh thuế theo lũy tiến. Không để tình trạng hai người giữ 10 sào và 10 người chỉ có hai sào như hiện nay. Đánh thuế tới mức độ anh không chịu nổi, phải trả lại đất đó cho nhà nước để điều tiết lại cho những gia đình khác. Tuy nhiên, phương án này hiện nay chưa làm được”. Theo bộ trưởng, giải độ vênh đất giao vừa nêu chỉ có thể bằng bài toán kinh tế nhưng cụ thể thế nào thì còn tiếp tục phải nghiên cứu.

Nên cho sở hữu tư nhân đất ở?
Một trong những vấn đề được nhiều đại biểu quan tâm là công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đặc biệt là quy định nhà đầu tư tự thỏa thuận với người sử dụng đất. Theo Giám đốc Sở TN&MT TP Đà Nẵng Nguyễn Điểu, quy định này đã dẫn đến tình trạng không công bằng, không đồng bộ giữa các dự án do nhà đầu tư tự thỏa thuận và dự án do nhà nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một khu vực.

Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Thừa Thiên-Huế Nguyễn Văn Ngọc cũng cho rằng trường hợp nhà đầu tư tự thỏa thuận với các chủ sử dụng đất đã tạo ra sự không thống nhất về đơn giá, chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, thậm chí không thỏa thuận được nên rất khó khăn cho việc thực hiện dự án. “Chỉ khuyến khích nhà đầu tư thỏa thuận với người sử dụng đất. Sau 30 ngày mà không thỏa thuận được thì nhà nước quyết định thu hồi đất” - ông Ngọc đề xuất.

20.000 tỉ đồng là tổng số tiền TP Đà Nẵng thu từ đất tính từ năm 1997 đến nay. Dự kiến số thu trong năm 2010 là 3.800 tỉ đồng. Từ năm 1997 đến nay, TP Đà Năng đã thực hiện việc thu hồi đất, giao đất và cho thuê đất để triển khai hơn 1.300 dự án với tổng diện tích hơn 17.000 ha, đã di dời giải tỏa trên 85.000 hộ dân.
Tuy nhiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Trần Đình Long không đồng tình với ý kiến trên. Ông Long cho rằng ngay đối với các dự án mà nhà nước quy hoạch xây dựng công trình công cộng thì nhà nước cũng chỉ được thu hồi và áp giá bồi thường với điều kiện đó là đất giao không thu tiền. Còn đất đã bán đấu giá cho người dân thì nhà nước phải mua lại theo thỏa thuận, chứ không có chuyện ra quyết định thu hồi rồi bồi thường là xong.

Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên thừa nhận ông Long nói chí lý nhưng sẽ không thể sửa được luật nếu “không chọc vào cái sở hữu và cái quyền”. Nếu để quyền sở hữu đất đai như hiện nay thì cực kỳ khó. Bởi lẽ đất đai thuộc sở hữu của toàn dân nhưng nhà nước là đại diện chủ sở hữu, thực chất là một đối tượng có hai ông chủ. Một là người đang sử dụng đất, hai là nhà nước. Theo giá thị trường mà dân đòi hỏi thì không biết bao nhiêu cho vừa. “Tốt nhất là cho sở hữu tư nhân đất ở vì thực chất đã sở hữu tư nhân rồi mà ta cứ nói là sở hữu toàn dân, thành ra bao nhiêu chính sách ra không rõ!” - ông Nguyên thẳng thắn.
Hội nghị tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2003 do Ban Chỉ đạo trung ương về tổng kết thi hành Luật Đất đai và sửa đổi Luật Đất đai 2003 (do Thủ tướng thành lập) và UBND TP Đà Nẵng chủ trì tổ chức. Hội nghị có sự tham gia của đại diện lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và lãnh đạo Sở TN&MT các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị và TP Đà Nẵng. Đây là hội nghị đầu tiên, khởi động cho một loạt các hoạt động trong tiến trình sửa đổi Luật Đất đai 2003.
Rườm rà, phức tạp, chồng chéo
Hệ thống thủ tục hành chính về đất đai vẫn còn rườm rà, phức tạp gây nhiều khó khăn, phiền hà cho công dân, tổ chức khi thực hiện các giao dịch hành chính. Nguyên nhân chủ yếu là hệ thống thủ tục hành chính về đất đai, nhà ở và tài sản gắn liền với đất, xây dựng và thuế do các bộ, ngành ở trung ương quy định còn nhiều chồng chéo giữa các ngành, các cấp nhưng chậm được khắc phục. Xu hướng quy định về thủ tục hành chính thường nghiêng về phía có lợi cho cơ quan quản lý nhà nước hơn là có lợi cho người dân.
Ông CHẾ VIẾT SƠN, Phó Giám đốc Sở Nội vụ TP Đà Nẵng

Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2010

LAO ĐỘNG NGHỈ VIỆC – BÀI TOÁN CẦN CÓ LỜI GIẢI

Thời gian qua, tại một số Chi nhánh Ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước có tình trạng cán bộ xin chấm dứt hợp đồng lao động (nghỉ việc) để tới các ngân hàng khác. Có chi nhánh mới thành lập, nâng cấp nhưng có tới 4-5 cán bộ xin nghỉ việc, chiếm trên 10% tổng số cán bộ. Điều đáng quan tâm là chỉ những cán bộ có năng lực, đảm nhận vị trí quan trọng hoặc trực tiếp kinh doanh mới xin nghỉ việc, trong khi những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu cầu dù có động viên, khuyến khích cũng không giảm đựợc, càng làm trầm trọng thêm tình trạng “thiếu người làm” trong khi “thừa nhân lực” gây không ít khó khăn trong quản lý điều hành bố trí, sử dụng lao động. Vậy đâu là nguyên nhân? Giải pháp nào để giữ lao động chất lượng cao?
I. Những nguyên nhân dẫn đến lao động nghỉ việc
Theo đánh giá của hầu hết các chi nhánh nguyên nhân cán bộ nghỉ việc là do sự lôi kéo của các NHTM cổ phần, với mức lương hấp dẫn và được đề bạt, thăng chức. Tóm lại, toàn các nguyên nhân khách quan mà ở vị trí các chi nhánh đặc biệt với những chi nhánh đang kinh doanh thua lỗ phải hưởng mức lương điều hoà đều khó hoặc không có khả năng đáp ứng, trong đó nguyên nhân về tiền lương, thu nhập đứng hàng đầu. Chỉ một vài ý kiến thẳng thắn nói ra được lý do khác liên quan đến vấn đề nội bộ: cung cách quản lý điều hành, chế độ đãi ngộ… nhưng còn dè dặt, nể nang.
Vậy thực chất đâu là nguyên nhân cơ bản: Hầu hết các cán bộ thời gian qua nghỉ việc đều không nói thật hoặc được che đậy bởi lý do sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình. Bản thân các đơn vị cũng như toàn hệ thống chưa có thống kê về vấn đề này để tìm ra đâu là nguyên nhân thực sự. Nhìn bề ngoài và trong bối cảnh thu nhập của Việt Nam còn thấp nên hầu hết mọi ý kiến đều cho rằng nguyên nhân chính là do tiền lương, thu nhập nhưng thực tế đi sâu phân tích thì không phải như vậy.
Theo thống kê và kinh nghiệm của ATTE Luxembourg (Financial Technology Transfer Agency, Luxembourg) thì các nguyên nhân chủ yếu sau đây dẫn tới tình trạng lao động bỏ việc (xếp theo thứ tự từ cao đến thấp):

1. Do lãnh đạo;
2. Do sức ép công việc;
3. Do nhu cầu tự thể hiện;
4. Do tiền lương;

Như vậy, nguyên nhân đầu tiên mà người lao động nghỉ việc là do lãnh đạo, sau đó mới đến các nguyên nhân khác và tiền lương, thu nhập chỉ đứng vị trị thứ 4. Trong nền kinh tế thị trường, lao động là hàng hoá vì vậy nó cũng chịu tác động và chi phối của quy luật giá trị, giá cả, quan hệ cung cầu. Ai và ở đâu trả giá cao hơn thì thu hút được lao động và ngược lại. Tuy nhiên, do lao động không phải là hàng hoá bình thường mà là hàng hoá đặc biệt (trong quá trình sử dụng không những không bị tiêu phí mà còn tạo ra lượng giá trị lớn hơn) vì vậy không phải chỉ cần trả giá cao hơn là đã thu hút được mà còn phụ thuộc vào mức độ đáp ứng các nhu cầu cho người lao động theo 5 cấp bậc từ thấp đến cao, như sau:
Tự thể hiện
Tôn trọng
Xã hội
An toàn
Sinh lý: Ăn, ở…
Những lao động đòi hỏi nhu cầu thấp (nhu cầu ăn ở, an toàn…), chỉ cần tăng lương, phúc lợi và cải thiện điều kiện làm việc là có thể giữ chân họ, đây là giải pháp dễ và đơn giản nhất. Nhiều chi nhánh đang trong tình trạng kinh doanh thua lỗ cho rằng đây là giải pháp khó khăn nhưng thực tế vẫn có thể thực hiện được bằng cách thay đổi kết cấu lại bảng lương kinh doanh theo hướng tăng lương cho lao động chất lượng cao, đảm nhận vị trí quan trọng, phức tạp, hoàn thành khối lượng công việc nhiều, năng suất chất lượng cao đồng thời giảm tiền lương của các bộ phận khác đặc biệt, phải kiên quyết giảm lương đối với lao động không đáp ứng được yêu cầu. Đối với lao động đòi hỏi nhu cầu cao hơn, trong chừng mực nhất định và điều kiện cụ thể nếu doanh nghiệp không thể đáp ứng được thì không thể giữ chân họ, trong trường hợp này việc họ ra đi một phần cũng là do lỗi của doanh nghiệp.
II. Một số giải pháp giữ lao động chất lượng cao
1. Sự cần thiết và quan điểm giữ lao động
Khi một cán bộ có trình độ, kinh nghiệm ra đi bản thân doanh nghiệp nhất định sẽ bị tổn thất, trong đó có những khoản không thể tính bằng tiền. Những chi phí tính được bằng tiền gồm chi phí tuyển dụng, đào tạo cho bản thân người lao động; chi phí tuyển dụng đào tạo người thay thế; trợ cấp chấm dứt hợp đồng lao động… Những chi phí không thể tính bằng tiền như kinh nghiệm; mối quan hệ với khách hàng… Hiện nay chúng ta chưa thể thống kê được những tổn thất khi một cán bộ nghỉ việc nhưng theo thống kê và kinh nghiệm của ATTE Luxembourg (đưa ra trong buổi thuyết trình chiến lược quản lý nguồn nhân lực do Hiệp hội ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp tổ chức trong tháng 11/2006 tại Hà Nội thì các phí tổn cho một lao động nghỉ việc tương đương bằng 12 tháng lương phải trả cho người đó. Với cách tính toán theo kinh nghiệm và phân tích trên rõ ràng cần thiết phải có giải pháp giữ chân lao động khi còn cần thiết cho đơn vị nhất là đối với lao động chất lượng cao.
Quan điểm giữ lao động phải nhất quán, rõ ràng: trước hết cần phải xác định và hiểu cho rõ hơn về mức độ cam kết. Phụ thuộc vào vị trí, tính chất công việc người đó đảm nhiệm. Đối với công việc có tuổi nghề ngắn như thể thao thành tích cao, vận động viên bóng đá, bóng chuyền, người mẫu… việc cam kết gắn bó lâu dài đôi khi lại trở thành khó khăn cho doanh nghiệp trong sắp xếp, bố trí, sử dụng sau khi họ giải nghệ… Thứ hai, quan điểm giữ người là vì sự hợp tác, chỉ có sự quý trọng và còn cần đến nhau mới giữ và giữ người ở lại chứ không giữ người cố tình ra đi. Xác định đúng đắn quan điểm giữ lao động đảm bảo cho người sử dụng lao động và người lao động có cái nhìn thiện chí, giải quyết các tồn tại một cách dứt điểm, nhanh chóng, chính xác, đây cũng cần phải xác định và xây dựng thành nét văn hoá giao tiếp của Ngân hàng.
2. Các giải pháp giữ chân người lao động
2.1. Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cán bộ. Trước khi người lao động đưa đơn hoặc thông báo chấm dứt hợp đồng lao động, người có trách nhiệm cần gặp gỡ tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng để cùng tháo gỡ. Phân tích những cái được, cái mất để người lao động lựa chọn. Thực tế cho thấy, nhiều vấn đề tưởng chừng nghiêm trọng nhưng lại có thể giải quyết một cách dễ dàng thông qua trao đổi thẳng thắn, trung thực. Đây là nguyên tắc, là biện pháp đơn giản nhất, vì vậy nó luôn được coi trọng và đặt lên hàng đầu trong trình tự giải quyết các tranh chấp.
2.2. Đánh giá, sử dụng cán bộ. Luôn phải đảm bảo yêu cầu vô tư, khách quan trong nhận xét, đánh giá sử dụng cán bộ. Đặc biệt cần động viên kịp thời, ngay cả việc phê bình, khiển trách nếu thực hiện đúng nơi, đúng lúc cũng có tác dụng làm cho người lao động cảm thấy mình được tôn trọng, được học hỏi và trưởng thành hơn.
2.3. Luôn phải tạo ra bầu không khí làm việc vui vẻ, tích cực nhằm hạn chế sức ép của công việc. Chất lượng sản phẩm ngày càng phải được nâng cao và giá thành ngày càng phải hạ, tạo nên sức ép ngày càng lớn đối với người lao động. Vì vậy tạo bầu không khí làm việc vui vẻ sẽ giảm bớt sức ép công việc là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người quản lý điều hành. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài đây là một trong những nhiệm vụ chính trong bản mô tả công việc của các cấp lãnh đạo, quản lý.
2.4. Thường xuyên nghiên cứu thị trường, giá cả lao động để có chiến lược, chính sách đúng đắn: Người quản lý phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, giá cả lao động đặc biệt đối với các đối thủ cạnh tranh để có chiến lược, bước đi thích hợp. Đi đôi với tăng lương cần bóc tách các khoản chi có tính chất lương (công tác phí, phương tiện, điện thoại…) để đảm bảo yêu cầu tăng lương nhưng phải tăng thu nhập cho người lao động. Nói như trên không có nghĩa là ta tìm cách trốn thuế mà thực chất là phải nghiên cứu chính sách thuế để thực hiện đúng.
2.5. Đi đôi với cải thiện điều kiện làm việc cần đa dạng hoá các dịch vụ, phúc lợi, chăm lo không chỉ cho người lao động mà tới cả các thành viên trong gia đình họ cả về vật chất lẫn tinh thần để họ có thể toàn tâm, toàn ý cho công việc.
2.6. Nâng cao năng lực quản lý điều hành cho lãnh đạo đơn vị để đảm bảo xứng tầm và có tâm trong điều hành, giải quyết công việc. Đây là giải pháp nói ra thì rất chung chung nhưng cực kỳ quan trọng.
……
Lao động là một trong những yếu tố quan trọng của sản xuất, trong nền kinh tế trí thức, lao động chất lượng cao càng quan trọng, góp phần vào thắng lợi của doanh nghiệp. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sẽ tạo động lực trong việc cạnh tranh lao động, đặc biệt là lao động chất lượng cao. Theo lộ trình hội nhập, đến năm 2009 mọi rào cản về ngân hàng sẽ được dỡ bỏ, khi đó mới là thách thức thực sự đối với các NHTM Nhà nước trong cạnh tranh, giữ người, thu hút lao động chất lượng cao đối với các “đại gia Ngân hàng nước ngoài” có tiềm lực thực sự. Tình trạng lao động chất lượng cao ra đi ngoài các nguyên nhân bất khả kháng đều trực tiếp liên quan đến trách nhiệm của người đứng đầu. Doanh nghiệp nào nắm bắt được thời cơ, có chiến lược thích hợp, biến các thách thức thành cơ hội, người lãnh đạo có tâm và xứng tầm chắc chắn sẽ thu phục được lòng người và giành thắng lợi./.
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

Thứ Sáu, 22 tháng 10, 2010

NHỮNG BỨC XÚC PHÁT SINH TRANH CHẤP LAO ĐỘNG

Tranh chấp LĐ và đình công của NLĐ rất dễ xảy ra, nhất là vào dịp sát Tết Nguyên đán. 9 tháng đầu năm 2008, cả nước đã xảy ra 650 cuộc đình công.
Còn ở Hà Nội, đến 30.11.2008 có 46 cuộc tranh chấp LĐ, ngừng việc tập thể và đình công của gần 20.000 LĐ. Điều đó cho thấy quan hệ LĐ giữa chủ DN và NLĐ ngày càng phức tạp, cần có giải pháp xây dựng quan hệ LĐ hài hoà, ổn định và tiến bộ tại DN theo Chỉ thị 22-CT/TW của Ban Bí thư.
Giá cả tăng cao, mức thu nhập của CNLĐ – nhất là các KCN tập trung- chưa đảm bảo đời sống; sinh hoạt văn hoá tinh thần không được cải thiện; nhận thức pháp luật của NLĐ ở mức thấp; tiếng nói của CĐCS chưa đủ mạnh… Đó là những bức xúc dẫn tới phát sinh tranh chấp LĐ tập thể tại DN.
“Vùng trũng” về thu nhập và văn hoá
Theo thống kê của Ban Quản lý các KCN-CX Hà Nội, thu nhập bình quân của NLĐ khu vực DN FDI ngành dệt may là 1.342.800đ/tháng, cơ khí 1.441.4000đ/tháng, điện và điện tử là 1.435.000đ/tháng. Đa số CN là người ngoại tỉnh, phải thuê nhà trong điều kiện vệ sinh, ăn uống, điện, nước không đảm bảo. Trong KCN và các xã lân cận cũng không có rạp chiếu phim, sân vận động, nhà văn hoá, bưu điện, bệnh viện…nên NLĐ thiếu hẳn sự giao lưu văn hoá cần thiết. Những bất cập đó, theo Chủ tịch CĐ các KCN-CX HN Nguyễn Thị Hoá, đã tạo nên “một vùng trũng” về thu nhập và đời sống văn hoá-xã hội.
Mặc dù TP đã chỉ đạo triển khai dự án thí điểm xây dựng nhà ở cho CN đang làm việc ở KCN Thăng Long thuê với giá 120.000đ/người/tháng, nhưng cũng khó đáp ứng được nhu cầu về nhà ở của 24.000 LĐ. Vậy mà vẫn nhiều CN không muốn thuê chung cư, vì tổng số tiền thuê nhà khoảng 200.000đ/tháng vẫn cao so với thu nhập của họ. Dù mức thu nhập mà DN trả không thấp hơn mức lương tối thiểu theo quy định, song vẫn quá thấp so với giá cả sinh hoạt hiện nay. Cách trả và phương pháp tính thu nhập của các DN khác nhau đã gây nên tâm lý so bì về thu nhập giữa NLĐ trong KCN. Các lý do đáng nói nữa là sự khác biệt về văn hoá, bất đồng về ngôn ngữ giữa chủ sử dụng LĐ nước ngoài với LĐVN; thái độ không đúng mực, cậy thế của một số nhân viên quản lý người Việt trong DN với NLĐ và mức ăn ca thấp trong khi giá tăng liên tục không đảm bảo dinh dưỡng để tái tạo sức LĐ của CN. Còn NLĐ lại thiếu kiến thức về pháp luật LĐ, nội quy, quy chế DN, văn hoá DN, văn hoá ứng xử…nên đã có những hành vi chưa đúng pháp luật hoặc bị kẻ xấu kích động, lợi dụng.
Từ đầu năm 2008 đến nay, tại KCN-CX HN xảy ra 38 cuộc biểu hiện ngừng việc tập thể, trong đó 16 cuộc ngừng việc tập thể trong thời gian từ 2-4 ngày. Số còn lại được CĐ các KCN-CX HN xuống giải quyết kịp thời nên đã không xảy ra.
8/10 DN nợ BHXH hơn 3,244 tỉ đồng
Việc kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách pháp luật đối với NLĐ được các cấp CĐ thủ đô tham gia cùng các ngành chức năng tổ chức thường xuyên, quan tâm tới chế độ “hậu kiểm” những DN vi phạm. Do đó góp phần ngăn ngừa và giải quyết phần lớn những bức xúc của NLĐ. Tại hội thảo lấy ý kiến sửa đổi, bổ sung Bộ LLĐ sau 13 năm thực hiện (LĐLĐ TP HN tổ chức ngày 10.12), Phó Chủ tịch LĐLĐ TP HN Đặng Minh Thuần cho biết: Từ tháng 10-11.2008, Ban CSKT-XH LĐLĐ TP đã tham gia đoàn kiểm tra liên ngành tại 10 DN gồm 3 DNNN, 6 Cty CP, 1 Cty 100% vốn Nhật Bản. Qua kiểm tra cho thấy, DN thường vi phạm về thời gian làm việc, nghỉ ngơi, xây dựng thang lương, bảng lương, nợ BHXH, không thanh toán trợ cấp thôi việc và trả sổ BHXH, không ký TƯLĐTT hoặc ký thì chủ yếu sao chép luật ít có điều khoản cao hơn luật, không đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về LĐ…Kiểm tra Cty TNHH Nissei Electric HN, đoàn kiểm tra phát hiện trong 10 tháng đầu năm 2008, Cty tổ chức cho 1.471 LĐ làm thêm từ trên 300 giờ đến trên 700 giờ không đúng quy định. Về nợ BHXH, có tới 8/10 DN nợ với tổng số tiền hơn 3,244 tỉ đồng. Cá biệt, Xí nghiệp in Báo Nhi đồng thuộc TƯ Đoàn TNCS HCM vẫn đang áp dụng mức lương tối thiểu 450.000đ và ngừng đóng BHXH cho NLĐ hiện vẫn đang làm việc tại XN từ tháng 11.2006 đến nay (hết 10.2006 còn nợ BHXH gần 235 triệu đồng). Số DN thanh toán trợ cấp thôi việc cho NLĐ chỉ chiếm 20% (2/10DN). Ký TƯLĐTT cũng chỉ có 5/10 DN thực hiện và mới có 3 DN đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về LĐ.
Cuối năm là thời gian nhạy cảm với NLĐ về vấn đề lương, thưởng. Nhất là các KCN-CX HN, tình hình kinh tế toàn cầu đang ảnh hưởng lớn khiến các nhà đầu tư phải thu hẹp SX, vì vậy họ đề nghị giảm LĐ. Điều này đòi hỏi các cấp CĐ thủ đô, đặc biệt CĐ KCN-CX HN phải tăng cường cử CB xuống cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của NLĐ và yêu cầu các DN thực hiện đúng luật LĐ nhằm tránh những vụ ngừng việc xảy ra không đúng pháp luật gây thiệt hại cho cả DN và NLĐ.
48/65 DN trong KCN-CX HN chưa thực hiện xây dựng đăng ký và công khai quy chế trả lương, hệ thống thang bảng lương, tiêu chuẩn, điều kiện áp dụng với từng chức danh theo quy định tại Nghị định 114/2002/NĐ-CP và Điều 57 Bộ LLĐ. Do vậy, dẫn đến tình trạng trả lương tuỳ tiện của giới chủ, được giới chủ sử dụng như một phương tiện để “khống chế” NLĐ, làm cho họ không được biết khi nào thì tăng lương và tăng bao nhiêu. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên tranh chấp giữa NLĐ và người sử dụng LĐ.
(Theo BÁO LAO ĐỘNG)

Thứ Ba, 12 tháng 10, 2010

THÔNG TƯ SỐ 16/2010/TT-BTP NGÀY 8 THÁNG 10 NĂM 2010 CỦA BỘ TƯ PHÁP HƯỚNG DẪN VIỆC GHI VÀO SỔ HỘ TỊCH VIỆC LY HÔN ĐÃ TIẾN HÀNH Ở NƯỚC NGOÀI

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03 tháng 6 năm 2008 của Quốc hội;
Căn cứ Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; 
Để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam và người nước ngoài đã đăng ký kết hôn với công dân Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sau đó ly hôn tại nước ngoài; Bộ Tư pháp tạm thời hướng dẫn việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầu không công nhận tại Việt Nam như sau:
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này hướng dẫn chi tiết việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầu không công nhận tại Việt Nam.
Điều 2. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Thông tư này là:
1. Công dân Việt Nam.
2. Người nước ngoài đăng ký kết hôn với công dân Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, sau đó ly hôn ở nước ngoài.
Điều 3. Nguyên tắc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài
1. Những Bản án/Quyết định ly hôn, Bản thỏa thuận ly hôn hoặc những giấy tờ khác công nhận việc ly hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầu không công nhận tại Việt Nam, thì được ghi vào sổ hộ tịch theo hướng dẫn tại Thông tư này.
2. Bản án/Quyết định ly hôn, Bản thỏa thuận ly hôn hoặc những giấy tờ khác công nhận việc ly hôn do cơ quan có thẩm quyền của những nước đã ký với Việt Nam Hiệp định tương trợ tư pháp về vấn đề này cấp được coi là căn cứ cho việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài.

3. Đối với các nước chưa ký với Việt Nam Hiệp định tương trợ tư pháp về vấn đề này, sau khi tham khảo ý kiến của Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài theo nguyên tắc có đi có lại.
Điều 4. Những trường hợp phải làm thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài
1. Công dân Việt Nam đã ly hôn ở nước ngoài về thường trú tại Việt Nam.
2. Các trường hợp đã đăng ký việc kết hôn hoặc ghi chú việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, sau đó ly hôn ở nước ngoài.
3. Các trường hợp có yêu cầu kết hôn ở Việt Nam mà trước đó đã ly hôn ở nước ngoài;
4. Các trường hợp khác, nếu đương sự có yêu cầu.
Đối với những trường hợp đã qua nhiều lần ly hôn, thì chỉ phải làm thủ tục ghi chú việc ly hôn gần nhất.
Điều 5. Thẩm quyền ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài
1. Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Sở Tư pháp) mà trong phạm vi tỉnh, thành phố đó đương sự đã đăng ký kết hôn hoặc ghi chú việc kết hôn trước đây, thực hiện ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài.
Việc xác định nơi đăng ký kết hôn hoặc ghi chú việc kết hôn trước đây được căn cứ vào Tờ khai của đương sự khi làm thủ tục ghi chú việc ly hôn.
2. Trong trường hợp công dân Việt Nam ở nước ngoài về thường trú tại Việt Nam, có yêu cầu ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn mà việc kết hôn trước đây đã được đăng ký tại Cơ quan Đại diện Việt Nam ở nước ngoài, thì việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn được thực hiện tại Sở Tư pháp, nơi công dân Việt Nam thường trú.
3. Trong trường hợp công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài có yêu cầu ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn mà việc kết hôn trước đó đã được đăng ký tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, thì việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn được thực hiện tại Sở Tư pháp, nơi công dân Việt Nam cư trú trước khi xuất cảnh, nếu việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn không nhằm mục đích kết hôn.
Trong trường hợp việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn nhằm mục đích kết hôn, thì thẩm quyền ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn là Sở Tư pháp, nơi đương sự nộp hồ sơ đăng ký kết hôn.
Chương II
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT HỒ SƠ YÊU CẦU GHI VÀO SỔ HỘ TỊCH VIỆC LY HÔN ĐÃ TIẾN HÀNH Ở NƯỚC NGOÀI
Điều 6. Hồ sơ yêu cầu ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài
1. Hồ sơ yêu cầu ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài bao gồm:
a) Tờ khai ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này);
b) Bản sao Bản án/Quyết định ly hôn của Toà án nước ngoài đã có hiệu lực thi hành; bản sao Bản thoả thuận ly hôn do Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài công nhận đã có hiệu lực thi hành hoặc bản sao các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp công nhận việc ly hôn;
c) Bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế để chứng minh nhân thân của người có đơn yêu cầu;
d) Bản sao hộ khẩu để chứng minh thẩm quyền ghi chú việc ly hôn theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
2. Hồ sơ nêu trên được lập thành 02 bộ, gửi qua đường bưu điện hoặc nộp trực tiếp đến Sở Tư pháp có thẩm quyền nêu tại Điều 5 Thông tư này. Đối với những giấy tờ bằng tiếng nước ngoài phải được hợp pháp hoá lãnh sự, dịch ra tiếng Việt và được chứng thực theo quy định của pháp luật.
Người đề nghị ghi chú có thể uỷ quyền cho người khác thực hiện việc ghi chú. Việc uỷ quyền phải bằng văn bản và phải được chứng thực hợp lệ. Nếu người được uỷ quyền là ông, bà, cha, mẹ, vợ/chồng, con, anh, chị, em ruột của người uỷ quyền thì không cần phải có văn bản uỷ quyền.
Điều 7. Trình tự, thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài
1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi Công văn, kèm theo 01 bộ hồ sơ cho Bộ Tư pháp (Vụ Hành chính tư pháp) để cho ý kiến về điều kiện ghi chú.
2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp, Bộ Tư pháp xem xét việc cho ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài. Nếu xét thấy bản án, quyết định ly hôn, bản thỏa thuận ly hôn không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 356 của Bộ luật Tố tụng dân sự và không có đơn yêu cầu không công nhận, thì Bộ Tư pháp gửi Công văn cho Sở Tư pháp có thẩm quyền để thực hiện việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn theo hướng dẫn tại Thông tư này; nếu không đủ điều kiện, Bộ Tư pháp trả lại hồ sơ cho Sở Tư pháp và giải thích rõ lý do bằng văn bản.
3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Công văn của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp thực hiện việc ghi vào sổ hộ tịch và cấp cho đương sự Giấy xác nhận về việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài (theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này). Trường hợp không đủ điều kiện để ghi chú thì phải trả lời bằng văn bản và trả lại hồ sơ cho đương sự.
Điều 8. Cách ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài
1. Việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài được thực hiện như sau:
Việc ly hôn được ghi vào cột ghi chú của Sổ đăng ký kết hôn trước đây. Khi ghi vào sổ phải ghi rõ hình thức văn bản ly hôn; số; ngày, tháng, năm công nhận việc ly hôn đã có hiệu lực pháp luật; tên Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài công nhận việc ly hôn và số, ngày, tháng, năm Công văn của Bộ Tư pháp.
Trường hợp trước đây đương sự đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã, thì sau khi ghi chú, Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký kết hôn để ghi chú tiếp vào Sổ đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Trong trường hợp trước đây đương sự đã đăng ký kết hôn tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, thì thông báo được gửi cho Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, nơi đã đăng ký kết hôn; nếu Sổ đăng ký kết hôn đã chuyển lưu 01 quyển tại Bộ Ngoại giao, thì Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thông báo tiếp cho Bộ Ngoại giao để ghi chú vào Sổ đăng ký kết hôn lưu tại Bộ Ngoại giao.
2. Trong trường hợp người có yêu cầu ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn mà việc kết hôn trước đây thực hiện tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài mà chưa làm thủ tục ghi chú việc kết hôn, thì Sở Tư pháp ghi đồng thời hai việc kết hôn và ly hôn vào Sổ đăng ký kết hôn sử dụng tại Sở Tư pháp.
Trong trường hợp đương sự đã đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ở trong nước, nhưng Sổ đăng ký kết hôn không còn lưu trữ được, thì việc ghi vào sổ việc ly hôn cũng được thực hiện theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều này.
Chương III
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 9. Hiệu lực của Thông tư
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 12 năm 2010.
Điều 10. Tổ chức thực hiện
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc phát sinh những việc mới, các Sở Tư pháp, các cơ quan có liên quan cần kịp thời báo cáo về Bộ Tư pháp để được hướng dẫn./.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đinh Trung Tụng