Hiển thị các bài đăng có nhãn bảo vệ nhà đầu tư. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bảo vệ nhà đầu tư. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

Sàn chứng khoán thiếu minh bạch


Theo khảo sát vừa công bố của Công ty Tài Việt (Vietstock) về việc tuân thủ quy định công bố thông tin của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, chỉ có 19/704 doanh nghiệp niêm yết trên cả 2 sàn tuân thủ đúng quy định. Đặc biệt, không có doanh nghiệp  nào thuộc sàn Hà Nội có mặt trong danh sách này.

Thông tin sơ sài
Những công ty không đảm bảo quy định về công bố thông tin là những công ty vướng vào việc chậm nộp báo cáo tài chính (BCTC) quý, năm, chậm nộp nghị quyết đại hội đồng cổ đông, thông tin website không đầy đủ, bị các sở giao dịch phạt, cảnh cáo vì vi phạm việc công bố thông tin.
 Sàn chứng khoán
Nhiều doanh nghiệp không minh bạch về thông tin khiến nhà đầu tư phải chịu thiệt - Ảnh: D.Đ.M
Theo đánh giá của Vietstock, sự minh bạch, chuyên nghiệp và tôn trọng cổ đông của doanh nghiệp (DN) niêm yết chưa được coi trọng. Có nhiều website đưa những thông tin sơ sài, thiếu cập nhật, gây khó khăn cho nhà đầu tư (NĐT) khi muốn tìm hiểu hoạt động của DN. Ngày 19.11, thử truy cập vào website của Công ty CP đầu tư - kinh doanh nhà, trong mục “Quan hệ cổ đông” vẫn không thể tìm thấy BCTC quý 3/2012 dù công ty này đã nộp cho Sở Giao dịch chứng khoán (CK) TP.HCM và báo cáo được lập vào ngày 9.11.
 
Công ty CP Tài Việt (Vietstock) được thành lập năm 2001, là chủ quản cổng thông tin www.vietstock.vn chuyên về tin tức, sự kiện kinh tế, tài chính, đặc biệt là TTCK và các kênh đầu tư. Cơ sở dữ liệu được cập nhật từ ngày TTCK đi vào hoạt động đến nay.
Hay chọn ngẫu nhiên một DN đang niêm yết trên sàn Hà Nội như Công ty CP Vinavico, một số thông tin cơ bản như Bản cáo bạch, Hồ sơ công ty, BCTC quý 3/2012 đều không có… Bản thân nhiều DN chỉ cập nhật được các BCTC ngoài ra lại không có thêm bất kỳ thông tin nào. Ngoài việc công bố thông tin theo kiểu làm cho có, số lượng DN bị xử phạt do trễ nộp BCTC hàng quý, chậm công bố thông tin về giao dịch nội bộ… khá nhiều và diễn ra thường xuyên.
Ủy ban CK Nhà nước vừa xử phạt Công ty CP nhựa Thiếu niên Tiền Phong 20 triệu đồng do chậm BCTC soát xét 6 tháng đầu năm 2010, BCTC quý 4/2011 và BCTC quý 1/2012; chậm báo cáo các nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2010, 2011, 2012... Xử phạt Công ty đầu tư hạ tầng và đô thị dầu khí cùng Công ty CP đầu tư F.I.T do không công bố thông tin mua và bán lượng lớn cổ phiếu tại các công ty niêm yết…
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Mai - Giám đốc truyền thông Vietstock, số lượng DN niêm yết tuân thủ các quy định về công bố thông tin và hoạt động trên thị trường CK là quá ít ỏi (năm 2011 là 21/575 DN niêm yết, năm 2012 là 19/704 DN). Điều đó đã ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ lẻ khi vấn đề về minh bạch và đồng đẳng trong tiếp cận thông tin của các NĐT không được đảm bảo. Đồng thời, việc không tổ chức tốt hoạt động công bố thông tin gây tác dụng ngược đối với DN khi không nhận được sự tín nhiệm từ cộng đồng đầu tư, ảnh hưởng đến vị thế của DN trên thị trường CK, gây suy giảm niềm tin của NĐT vào thị trường CK.
Ông Trương Duy Khiêm - Giám đốc Công ty CK ACBS chi nhánh Ngô Lê Cát, TP.HCM, đánh giá kết quả này cho thấy sự minh bạch, tuân thủ quy định của các DN niêm yết quá kém. Đây cũng là nguyên nhân khiến các NĐT dễ dàng chạy theo tin đồn, thông tin nội gián hay quen biết và khiến thị trường luôn biến động khó lường.
Cản trở thu hút đầu tư
Trong mắt các NĐT nước ngoài, các yếu tố như không minh bạch, khó tìm hiểu về tình hình hoạt động của DN khi muốn đầu tư… luôn là yếu kém đầu tiên khi nói về thị trường CK Việt Nam. Theo ông Chris Freund, Tổng giám đốc Công ty quản lý quỹ Mekong Capital, hoạt động quan hệ với NĐT của các DN niêm yết Việt Nam hiện vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Rất nhiều DN để các giám đốc tài chính hoặc các giám đốc/trưởng phòng các bộ phận khác kiêm nhiệm. Kết quả là truyền đạt thông tin của các công ty tới các NĐT tổ chức thường tụt hậu so với các thông lệ quốc tế. Đây là vấn đề cần phải được cải thiện nhanh chóng hơn nữa nếu muốn thu hút nguồn vốn đầu tư vào thị trường CK.
Còn ông Trương Duy Khiêm cho rằng, tình trạng này cần phải được chấn chỉnh một cách quyết liệt để tạo niềm tin cho các NĐT trong và ngoài nước. Thậm chí cơ quan quản lý nhà nước phải siết chặt ngay từ khâu thẩm định hồ sơ niêm yết của các DN để loại bỏ ngay những đơn vị yếu kém về quản trị, chưa minh bạch về thông tin…
Tương tự, ông Nguyễn Hoàng Hải - Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam nhận xét, việc công bố thông tin của các DN niêm yết vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cổ đông. NĐT vẫn bị tổn thất nặng nề do những vụ việc mà thông tin đã bị “ém nhẹm”, nhất là khi có những thông tin mang tính tiêu cực của DN. Ngoài nguyên nhân từ chủ quan của DN còn có sự buông lỏng của cơ quan quản lý nhà nước. Bởi các quy định đều đã ban hành nhưng quan trọng là phải tăng cường cơ chế giám sát. Nhất là cần xử phạt nặng những trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc cố tình không công bố các thông tin có tác động trực tiếp đến hoạt động của công ty.
Theo quy định của Bộ Tài chính tại Thông tư số 52/2012, ngoài việc phải công bố thông tin trên các phương tiện thông tin của Ủy ban CK Nhà nước và Sở Giao dịch CK, công ty đại chúng phải lập trang thông tin điện tử trong vòng 6 tháng kể từ ngày trở thành công ty đại chúng. Trang thông tin này phải có chuyên mục riêng về quan hệ cổ đông (NĐT), trong đó phải công bố điều lệ công ty, quy chế quản trị nội bộ, bản cáo bạch và các thông tin phải công bố định kỳ, bất thường và theo yêu cầu.


Theo Thanhnien

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

CTCK phải lập bộ phận “cân đo” rủi ro


    Theo dự thảo Quy chế hướng dẫn thiết lập hệ thống và thực hiện quản trị rủi ro trong CTCK vừa được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) công bố lấy ý kiến các thành viên thị trường, lần đầu tiên, nhà quản lý buộc CTCK phải lập bộ phận chuyên trách quản trị rủi ro.
    Đo rủi ro hàng ngày bằng quy tắc 4 - 4
    Theo dự thảo Quy chế, CTCK phải hình thành Hệ thống quản trị rủi ro (QTRR) theo 4 cấp: HĐQT; ban kiểm soát và hệ thống kiểm soát nội bộ; tiểu ban QTRR và bộ phận QTRR, để quản lý tối thiểu 4 loại rủi ro trọng yếu: rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động.
    Trong đó, HĐQT chịu trách nhiệm cao nhất đối với việc QTRR. Ban kiểm soát và hệ thống kiểm soát nội bộ phải đánh giá độc lập về tính tuân thủ, hiệu quả và đầy đủ của hệ thống QTRR.
    Đặc biệt, CTCK phải thiết lập tiểu ban QTRR trực thuộc HĐQT. Trưởng tiểu ban này phải là thành viên HĐQT, hoặc chủ sở hữu của CTCK. Thành viên của tiểu ban phải ít nhất gồm một thành viên HĐQT, tổng giám đốc, trưởng bộ phận QTRR, giám đốc tài chính hoặc kế toán trưởng, trưởng bộ phận kiểm soát nội bộ. Tiểu ban QTRR có trách nhiệm đệ trình chính sách QTRR hàng năm để HĐQT ban hành; xây dựng các tiêu chuẩn QTRR định tính và định lượng nhằm tạo thuận lợi cho công tác QTRR thường xuyên; kiểm tra, đánh giá sự đầy đủ, hiệu quả và hiệu lực của bộ phận QTRR trực thuộc ban giám đốc. Tiểu ban QTRR báo cáo hàng quý cho HĐQT hoặc chủ sở hữu CTCK về công tác QTRR và phương hướng khắc phục (nếu có).
    Quy chế mới buộc các CTCK phải có bộ phận QTRR nhưng chưa có chế tài đi kèm
    Ban giám đốc phải thành lập bộ phận QTRR hoạt động độc lập với các bộ phận chuyên môn khác. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm trưởng bộ phận QTRR của tổng giám đốc phải có sự chấp thuận của HĐQT hoặc chủ sở hữu CTCK. Trưởng bộ phận QTRR có trách nhiệm giám sát, đánh giá hàng ngày trạng thái rủi ro của CTCK. Các trưởng bộ phận nghiệp vụ trong CTCK phải chịu trách nhiệm QTRR hàng ngày mà bộ phận mình gặp phải; phải đảm bảo bộ phận mình quản lý tuân thủ các quy định về hạn mức rủi ro. Bộ phận QTRR có trách nhiệm đề xuất các chính sách QTRR cho tổng giám đốc và tiểu ban QTRR; đề xuất hạn mức rủi ro cho từng phòng ban; đánh giá mức độ rủi ro và thiệt hại thực tế phát sinh được dự báo bởi bộ phận QTRR…
    Theo dự thảo, chính sách QTRR phải được rà soát và được HĐQT thông qua ít nhất mỗi năm một lần. Hệ thống QTRR được thiết lập phải đảm bảo CTCK có khả năng đo lường, giám sát và xử lý hiệu quả các rủi ro trọng yếu. CTCK phải đảm bảo công tác QTRR được thực hiện độc lập, khách quan, trung thực, thống nhất và phải được thể hiện rõ ràng bằng văn bản. Các bộ phận tác nghiệp và bộ phận QTRR phải được tổ chức tách biệt, độc lập với nhau; người phụ trách bộ phận tác nghiệp không đồng thời phụ trách bộ phận QTRR và ngược lại…

    Muộn còn hơn không
    Theo nhìn nhận của các thành viên, sau hơn 12 năm hoạt động của TTCK, lần đầu tiên UBCK mới “buộc hờ” CTCK phải thiết lập hệ thống và thực hiện QTRR là quá muộn. Nhưng dẫu sao muộn còn hơn không. Sở dĩ nói “buộc hờ”, bởi dự thảo Quy chế không đưa ra chế tài đối với các CTCK không hoặc chậm trễ thiết lập hệ thống và thực hiện QTRR, hoặc không tuân thủ các quy định về QTRR theo quy định của Quy chế.
    Ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), nhìn nhận, sự ra đời của Quy chế lúc này là cần thiết, nhưng quá muộn. Để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn QTRR tại CTCK, dự thảo cần sửa đổi, bổ sung ít nhất 3 nội dung.
    Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, rủi ro lớn nhất đối với CTCK thời gian qua và sẽ vẫn là rủi ro đáng ngại trong thời gian tới, đó là rủi ro khi triển khai hoạt động giao dịch ký quỹ (margin). Từng là “ông hoàng” trong khối CTCK, nhưng nay CTCK Sacombank đứng trước nguy cơ tan vỡ, khi suốt một thời gian dài mạnh tay cho vay margin, đến nay gần như không có khả năng thu hồi nợ hàng nghìn tỷ đồng từ NĐT. Để ngăn ngừa rủi ro này, dự thảo Quy chế nên nhấn mạnh các giải pháp kiểm soát rủi ro cho vay margin mà CTCK phải tuân thủ.
    Thứ hai, không ít CTCK đã có bộ phận kiểm soát nội bộ và QTRR, nhưng nặng tính hình thức. Để khắc phục tình trạng này, dự thảo cần có quy định rõ ràng trách nhiệm của HĐQT, ban giám đốc trong việc đảm bảo cho bộ phận QTRR hoạt động thực sự độc lập, khách quan.
    Thứ ba, chính lãnh đạo UBCK đã không dưới một lần than phiền về tính tuân thủ của nhiều CTCK còn kém. Bởi vậy, rất nhiều quy định được ban hành, nhưng thiếu chế tài đi kèm, nên chỉ tồn tại trên giấy. Để tránh tình trạng tương tự xảy ra khi Quy chế có hiệu lực, cần có chế tài đối với các CTCK không lập bộ phận QTRR chuyên trách, hoặc không tuân thủ các nguyên tắc QTRR được quy định trong Quy chế.          

Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

Nhà đầu tư không được bảo vệ


Thông tin Chủ tịch HĐQT và Phó chủ tịch HĐQT Công ty chứng khoán SME (SMES) bị bắt cho thấy việc giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán hay doanh nghiệp niêm yết còn quá lỏng lẻo.

Nhà đầu tư không được bảo vệ
SMES từng là một công ty chứng khoán lớn trên thị trường nhưng các NĐT vẫn bị chiếm dụng tiền - Ảnh: D.Đ.M
Lãnh đạo chạy trước
Cuối năm 2011, một số khách hàng của SMES mới biết công ty này bị mất thanh khoản khi bị Trung tâm lưu ký chứng khoán (VSD) đình chỉ hoạt động lưu ký. Tới nay đã gần 1 năm trôi qua, các nhà đầu tư (NĐT) vẫn chưa thể rút được số dư tiền trên tài khoản của mình. Cũng có nghĩa là số tiền của các NĐT đã bị SMES tùy ý sử dụng.
Hiện tại, NĐT của SMES không biết đến đâu để đòi tiền trong khi việc lãnh đạo của công ty này bị bắt vì giả mạo chữ ký của khách hàng trong hợp đồng hợp tác đầu tư (thực chất là hợp đồng vay tiền của ngân hàng để đầu tư chứng khoán) càng khiến NĐT bất bình.
Khác với SMES, bà Phạm Thị Diệu Hiền - nguyên Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc CTCP thủy sản Bình An mang 25 triệu cổ phiếu (CP) của mình đi thế chấp cho hai ngân hàng gồm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) - chi nhánh Sở Giao dịch 2 và Ngân hàng Phát triển Cần Thơ - Hậu Giang, đồng thời mang bán cho Công ty Hồ Mây. Điều quan trọng nhất là việc này chỉ mới được lộ ra trong tuần qua và mọi cổ đông lẫn ngân hàng đều tá hỏa.
Chuyện lãnh đạo cao cấp ở nhiều doanh nghiệp thoái vốn trước khi công ty bị thua lỗ hay có nguy cơ phá sản đang diễn ra khá nhiều trên thị trường. Có thể kể đến chuyện ông Đinh Hồng Long - Chủ tịch HĐQT CTCP đầu tư tổng hợp Hà Nội (SHN) và một số thành viên HĐQT từ cuối năm 2011 đã âm thầm bán ra hàng triệu CP, bán hết CP quỹ. Đến cuối tháng 3.2012, báo cáo tài chính quý 4/2011 của SHN chính thức công bố cho biết, công ty sắp... phá sản. Hay chuyện Công ty chứng khoán Sacombank (SBS) đầu năm nay mới công khai chuyện thua lỗ cao hơn cả vốn chủ sở hữu trong khi ban điều hành đã bán xong toàn bộ CP sở hữu trước đó... Chỉ đến khi sai phạm bị vạch trần, các NĐT mới biết thì tiền mất và không biết kêu ai.
.... và lạm quyền
 
Theo Báo cáo môi trường kinh doanh 2011 được Ngân hàng Thế giới công bố, Việt Nam bị điểm 0 về trách nhiệm giải trình của thành viên hội đồng quản trị doanh nghiệp trước cổ đông. Chính điểm số này đã đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10 nước kém nhất thế giới về mức độ bảo vệ nhà đầu tư (hạng 173/183).
Uớc tính hiện nay chỉ có khoảng hơn 20 công ty chứng khoán (CTCK) tách bạch tiền gửi của NĐT tại các ngân hàng, gần 80 CTCK còn lại vẫn nhập nhằng để giữ tiền của các NĐT trong tài khoản tổng của mình. Chính điều này khiến NĐT có nguy cơ mất tiền rất lớn vì các CTCK dễ dàng chiếm dụng tiền của NĐT mà không gặp phải cản trở nào.
Theo quy định, đến cuối năm 2008, các CTCK phải thực hiện xong việc tách bạch tiền gửi của NĐT nhưng như nói trên, hầu hết các CTCK vẫn không chịu thực hiện việc này. Một chuyên gia tài chính tại TP.HCM cảnh báo, sẽ còn nhiều trường hợp tương tự SMES nếu Ủy ban Chứng khoán nhà nước không kiên quyết kiểm tra và xử lý các CTCK không thực hiện theo quy định. Riêng đối với việc quy định về công bố thông tin giao dịch nội bộ, theo ông Huỳnh Anh Tuấn - Tổng giám đốc Công ty chứng khoán SJC - về mặt nguyên tắc, Sở Giao dịch và Trung tâm lưu ký có thể biết ngay sau khi giao dịch này được thực hiện, có thể ngay lập tức bắt các cá nhân vi phạm giải trình, thậm chí hủy bỏ các giao dịch đó vì chưa công bố thông tin ra bên ngoài. Chứ chỉ phạt hành chính vài chục triệu đồng, không thấm gì so với giá trị giao dịch nên không thể ngăn chặn được việc này.
Điều quan trọng hơn, theo TS Lê Đạt Chí - Trưởng bộ môn đầu tư tài chính (Trường ĐH Kinh tế TP.HCM) - trong những chuyện vi phạm trên đều cho thấy, các vị lãnh đạo công ty niêm yết quá lạm quyền. Đối với một NĐT cá nhân, giấy chứng nhận sở hữu CP chỉ có một thì khó có thể mang đi cầm cố hay bán cho 2 nơi. Trong khi đó, bản thân bà Diệu Hiền có thể in ra bao nhiêu tờ giấy chứng nhận sở hữu này cũng được nên mới dẫn đến chuyện vừa bán, vừa cầm cố ở hai ngân hàng. Tương tự tại SMES, Chủ tịch HĐQT mới có quyền đưa ra quyết định sử dụng luôn tiền của NĐT trong giao dịch vì bản thân nhân viên cũng sẽ không dám tự ý sử dụng. TS Lê Đạt Chí đặt vấn đề, có bao nhiêu công ty ban hành quy chế kiểm soát, ràng buộc nội bộ để ban kiểm soát và cổ đông căn cứ vào đó xem xét người quản lý đúng hay sai? Các biểu mẫu công bố thông tin thì nhiều nhưng nội dung thông tin nghèo nàn. Ngay như trường hợp của SMES và bà Diệu Hiền giờ đây cũng chưa có quy định để xử lý cụ thể.
Như vậy những câu chuyện tương tự có thể sẽ tiếp tục diễn ra. Thị trường chứng khoán Việt Nam không thể lớn nổi và trở nên bất ổn trong mắt NĐT khi còn những câu chuyện như thế.

Theo: Thanhnien