Chế định hợp đồng dân
sự đã được quy định tại 250 điều trong tổng số 777 điều luật (từ điều
388 đến 593 và từ điều 693 đến 732), chiếm gần 1/3 số điều trong Bộ luật
Dân sự. Điều này đã khẳng định chế định này có một vị trí rất quan
trọng trong Bộ luật Dân sự nói riêng và hệ thống pháp luật về dân sự nói
chung.
1. Về các loại hợp đồng:
1.1. Các điều từ 428 đến 593 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định 13 loại hợp đồng dân sự thông dụng bao gồm:
- Hợp đồng gia công;
- Hợp đồng gửi giữ tài sản;
- Hợp đồng mua bán tài sản, trong đó có:
+ Hợp đồng mua bán tài sản nói chung;
+ Hợp đồng mua bán nhà ở;
+ Hợp đồng bán đấu giá.
- Hợp đồng mượn tài sản;
- Hợp đồng dịch vụ;
- Hợp đồng thuê tài sản, trong đó có:
+ Hợp đồng thuê nhà ở;
+ Hợp đồng thuê nhà khác;
+ Hợp đồng thuê tài sản khác;
+ Hợp đồng thuê khoán tài sản.
- Hợp đồng trao đổi tài sản;
- Hợp đồng vay tài sản, trong đó có họ, hụi, biêu, phường;
- Hợp đồng vận chuyển, trong đó có:
+ Hợp đồng vận chuyển hành khách;
+ Hợp đồng vận chuyển tài sản;
- Hợp đồng uỷ quyền;
- Hứa thưởng và thi có giải.
- Ngoài ra, còn loại Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất được quy định tại một phần riêng của Bộ luật Dân sự.
1.2. Như vậy, còn rất nhiều quan hệ dân sự khác,
với nhiều loại hợp đồng dân sự rất thông dụng, chưa được nhắc đến hoặc
không được chỉ rõ trong Bộ luật Dân sự, cần xem xét bổ sung một số trong
các loại hợp đồng dưới đây:
- Hợp đồng bảo vệ (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ);
- Hợp đồng cấp tín dụng (Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 chỉ nhắc đến tên hợp đồng, mà không quy định cụ thể), trong đó có:
+ Hợp đồng bao thanh toán (một dạng đặc biệt của hợp
đồng mua bán tài sản là các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả, có
bảo lưu quyền truy đòi);
+ Hợp đồng bảo lãnh ngân hàng (dạng đặc biệt của hợp đồng bảo lãnh trong giao dịch bảo đảm);
+ Hợp đồng chiết khấu (dạng đặc biệt của hợp đồng mua
bán tài sản các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác, có kỳ hạn
hoặc có bảo lưu quyền truy đòi);
+ Hợp đồng cho thuê tài chính (là sự kết hợp giữa hợp đồng thuê và mua bán tài sản);
+ Hợp đồng cho vay tiền (hợp đồng tín dụng) (dạng đặc biệt của hợp đồng vay tài sản);
- Hợp đồng chuyển giao công nghệ (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản);
- Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, cổ phiếu (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản), trong đó có;
+ Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần;
+ Hợp đồng mua bán cổ phần;
+ Hợp đồng mua bán cổ phiếu (nói chung);
+ Hợp đồng mua bán cổ phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán;
- Hợp đồng dịch vụ trong thương mại (các dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ trong dân sự), trong đó có:
+ Hợp đồng dịch vụ cho thuê hàng hoá;
+ Hợp đồng dịch vụ đại diện cho thương nhân;
+ Hợp đồng dịch vụ quá cảnh;
+ Hợp đồng dịch vụ quảng cáo;
+ Hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ;
+ Hợp đồng dịch vụ tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại.
- Hợp đồng đại diện cho thương nhân (một dạng đặc biệt của hợp đồng uỷ quyền có thù lao);
- Hợp đồng đại lý (có những nội dung của các hợp đồng dịch vụ, mua bán và uỷ quyền);
- Hợp đồng đấu thầu (dạng đặc biệt của 2 loại hợp đồng dịch vụ hoặc mua bán tài sản);
- Hợp đồng khoán việc (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ);
- Hợp đồng lao động (về bản chất cần phải xác định là hợp đồng dân sự);
- Hợp đồng mua bán tài sản là hàng hoá (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản), trong đó có:
+ Hợp đồng mua bán tài sản, hàng hoá kỳ hạn – Repo
(có phần giống như hợp đồng mua bán tài sản có điều kiện chuộc lại theo
quy định tại Điều 46, Bộ luật Dân sự);
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá quyền chọn;
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá qua biên giới (xuất nhập khẩu);
+ Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa;
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá hoán đổi;
- Hợp đồng mua bán tài sản qua đấu giá (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản);
- Hợp đồng nhận thầu (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ);
- Hợp đồng nhượng quyền thương mại (một dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản);
- Hợp đồng thuê mua tài sản (đồng thời vừa là hợp đồng thuê, vừa là hợp đồng mua tài sản);
- Hợp đồng uỷ thác hay ký thác (dạng đặc biệt, rộng hơn hợp đồng uỷ quyền);
- Hợp đồng xây dựng và các hợp đồng trong hoạt động xây dựng (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ).
1.3. Trong khi một số hợp đồng thông dụng dưới đây
trong Bộ luật Dân sự thì lại được quy định trùng lặp tại các đạo luật
khác, cần xem xét khả năng loại bỏ và chỉ để ở trong một đạo luật:
- Hợp đồng bảo hiểm (Luật Bảo hiểm);
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Luật Đất đai);
- Hợp đồng vận chuyển hàng hoá (Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng);
- Hợp đồng vận chuyển hành khách (Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng);
- Hợp đồng về nhà ở (mua bán, thuê nhà,…) (Luật Nhà ở);
1.4. Một giao dịch hợp đồng được điều chỉnh bởi nhiều
đạo luật, dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột nhau,
không biết áp dụng theo luật nào. Ví dụ:
- Về thời điểm chuyển quyền sở hữu: Luật Nhà ở năm 2005 quy định “Quyền
sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua,
bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao
dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo
thỏa thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ
chức kinh doanh nhà ở hoặc từ thời điểm mở thừa kế trong trường hợp nhận
thừa kế nhà ở.” (khoản 5, Điều 93 về “Trình tự, thủ tục trong giao dịch về nhà ở”). Trong khi Bộ luật Dân sự lại quy định “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu” (khoản
1, Điều 168 về “Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản”). Mặc dù
tiếp theo trong cùng câu văn này, đã quy định tiếp “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, nhưng trên thực tế, Toà án vẫn không chấp nhận quy định của Luật Nhà ở khác với Bộ luật Dân sự là quy định khác.
- Về phạt chậm thanh toán hợp đồng: Khoản 2, Điều 305 về “Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản
do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời
điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác.” Trong khi đó, Điều 306 về “Quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán”, Luật Thương mại lại quy định: “Trường
hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán
thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng
có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình
trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm
trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
2. Về hình thức của hợp đồng:
2.1. Khoản 1, Điều 401 về “Hình thức hợp đồng dân sự” quy định: “Hợp
đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được
giao kết bằng một hình thức nhất định.” Nhưng chính Bộ luật
Dân sự quy định, trong 7 biện pháp bảo đảm, ngoại trừ duy nhất biện pháp
“ký cược” là không bắt buộc phải lập thành văn bản, còn lại các giao
dịch bảo đảm đều phải lập thành văn bản (Điều 327 về “Hình thức cầm cố
tài sản”; Điều 343 về “Hình thức thế chấp tài sản”; khoản 1, Điều 358 về
“Đặt cọc”; Điều 360 về “Ký quỹ”; Điều 362 về “Hình thức bảo lãnh”; Điều
373 về “Hình thức bảo đảm bằng tín chấp” của Bộ luật Dân sự năm 2005).
Quy định như vậy là không hợp lý, không cần thiết trong mọi trường hợp.
Nếu hợp đồng chính không bắt buộc phải bằng văn bản, thì chẳng có lý do
gì bắt hợp đồng phụ phải lập thành văn bản. Ví dụ, khi mua vài chai bia
Hà Nội, thì thường là giao kết hợp đồng bằng lời nói và như vậy là hợp
pháp. Tuy nhiên, người mua thường phải đặt cọc một số tiền để bảo đảm
cho nghĩa vụ trả lại vỏ chai cho người bán. Nếu cứ theo đúng quy định
của Bộ luật Dân sự, thì việc đặt cọc để trả vỏ chai sẽ phải lập thành
văn bản!?[1]
2.2. Vì vậy, cần bỏ bớt việc bắt buộc giao dịch bảo
đảm phải làm thành văn bản và cần quy định rõ việc bắt buộc theo các
trường hợp giao dịch thay vì theo các biện pháp bảo đảm. Theo tôi, việc
bắt buộc phải làm thành văn bản chỉ cần thiết đối với một số giao dịch
dưới đây:
- Giao dịch ký quỹ (vì liên quan đến nghiệp vụ ngân hàng bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, giấy tờ);
- Giao dịch bắt buộc phải công chứng, chứng thực;
- Giao dịch đối với những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu (quyền sử dụng).
3. Về hợp đồng vô hiệu:
3.1.
Theo quy định tại Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự”, Điều 127 về “Giao dịch dân sự vô hiệu”, Điều 410 về “Hợp đồng dân
sự vô hiệu”, thì giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng
sẽ bị vô hiệu khi vi phạm và chỉ khi vi phạm vào một hoặc một số trong
tổng số 4 trường hợp sau:
- Thứ nhất, người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự;
- Thứ hai, mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội;
- Thứ ba, người tham gia giao dịch không hoàn toàn tự nguyện;
- Thứ tư, giao dịch không đáp ứng được về hình
thức, trong trường hợp pháp luật có quy định hình thức giao dịch là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
3.2. Để làm rõ cho 4 trường hợp kể trên, Bộ luật đã có các quy định sau:
- Quy định tại Điều 130 về “Giao dịch dân sự vô
hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện”, làm rõ cho trường hợp thứ nhất;
- Quy định tại Điều 128 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội” và tại Điều 132 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa”, làm rõ cho trường hợp thứ hai;
- Quy định tại Điều 133 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình”, làm rõ cho trường hợp thứ ba;
- Quy định tại Điều 134 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”, làm rõ cho trường hợp thứ tư.
3.3. Tuy nhiên, còn một số quy định vô hiệu khác dưới
đây, thì không phải hoặc là không rõ thuộc trường hợp nào trong số 4
trường hợp vô hiệu như đã kể trên:
- Quy định tại Điều 69 về “Quản lý tài sản của người được giám hộ”, với nội dung tại khoản 3: “Các
giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan
đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao
dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý
của người giám sát việc giám hộ.”;
- Quy định tại Điều 129 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo”;
- Quy định tại Điều 131 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn”;
- Quy định tại Điều 410 về “Hợp đồng dân sự vô hiệu”
(hợp đồng phụ bị vô hiệu do sự vô hiệu của hợp đồng chính và hợp đồng
chính bị vô hiệu do sự vô hiệu của hợp đồng phụ);
- Quy định tại Điều 411 về “Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được”.
4. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức:
4.1. Khoản 2, Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự” quy định như sau: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Khoản 2, Điều 401 về “Hình thức hợp đồng dân sự” cũng quy định: “Trong
trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn
bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó” và “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Theo các quy định này, thì hợp đồng vi phạm về hinh thức chỉ vô hiệu khi không đáp ứng đủ 2 điều kiện sau:
- Thứ nhất, hợp đồng bắt buộc phải được lập
bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải xin phép hoặc
phải đăng ký theo quy định của pháp luật;
- Thứ hai, có quy định của pháp luật về việc hợp đồng bị vô hiệu nếu vi phạm vào ít nhất một trong 4 hình thức trên.
4.2. Như vậy, không phải hợp đồng cứ vi phạm về hình
thức là bị vô hiệu, mà phải có những quy định cụ thể của pháp luật về
việc hợp đồng sẽ bị vô hiệu khi không đáp ứng được các điều kiện này.
Cho đến nay, liên quan đến hình thức của hợp đồng, pháp luật mới chỉ quy
định một số trường hợp phải được làm thành văn bản, phải được công
chứng, chứng thực và phải được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoặc
đăng ký, mà chưa thấy quy định nào của pháp luật về việc phải làm như
vậy thì mới có hiệu lực, cũng không có quy định nào của pháp luật khẳng
định việc tuân thủ các hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng.
4.3. Tuy nhiên, trên thực tế, thì gần như 100% hợp
đồng không tuân thủ về hình thức văn bản, công chứng, xin phép và đăng
ký trong trường hợp đã có quy định bắt buộc của pháp luật, thì sẽ đều bị
Toà án tuyên vô hiệu, do đánh đồng giữa quy định của pháp luật về hình
thức cũng chính là“điều kiện có hiệu lực của giao dịch”. Theo đó, thì Toà án chỉ còn mỗi việc: Tuyên tất cả cả hợp đồng vi phạm về hình thức là vô hiệu theo quy định tại Điều 134 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”: “Trong
trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu
của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết
định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong
một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô
hiệu.”. Hay nói cách khác, quy định tại đoạn 2, khoản 2, Điều 401 “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” đã bị “vô hiệu toàn bộ”, trở thành thừa và hoàn toàn vô nghĩa trên thực tế.
4.4. Cũng có những trường hợp Toà án quyết định rắc rối hơn về việc vi phạm về hình thức, như 2 ví dụ sau:
- Năm 2009, xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh
chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là Công
ty TNHH Sản xuất, Thương mại, Dịch vụ Đông Nam Việt và bị đơn là Công
ty TNHH Hoàng Gia, TAND huyện Đức Hòa, Long An đã tuyên hợp đồng đặt cọc
(đặt chỗ) để chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai công ty, ký ngày
18-7-2006 là vô hiệu, do không có chứng nhận của công chứng. Xét xử phúc
thẩm, TAND tỉnh Long An đã tuyên huỷ bản án sơ thẩm, với nhận định TAND
sơ thẩm đã sai phạm, vì hợp đồng đặt cọc theo quy định tại Điều 358 về
“Đặt cọc” của Bộ luật Dân sự năm 2005 không bắt buộc phải có công chứng.
Trong trường hợp này, Toà sơ thẩm đã nhầm lẫn hợp đồng đặt cọc cũng
phải đòi hỏi về hình thức công chứng như với hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
- Năm 2010, xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh
chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) và
bị đơn là Công ty Cổ phần Hàng không Đông Dương (Indochina Airlines),
TAND TP Hồ Chí Minh đã tuyên hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất của bà Phùng Trịnh Thị Vinh, ký năm
2010, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ mở thư tín dụng của bị đơn là vô
hiệu, vì không được công chứng và không đăng ký giao dịch bảo đảm. Nhưng
sau đó, Toà Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM đã công nhận hợp đồng thế
chấp này là hợp pháp, vì người thế chấp là người có lỗi trong việc
không chịu hoàn thiện thủ tục công chứng hợp đồng theo yêu cẩu của bên
nhận thế chấp. Trong trường hợp này, khác với nhiều vụ án tương tự, Toà
án đã không thực hiện quy định tại Điều 134, “quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn”. Và
gần như trong tất cả các vụ án, một khi đã đưa tranh chấp ra Toà án,
nếu có yêu cầu các bên hoàn tất về hình thức, thì kết quả đều gần như
100% sẽ là vô hiệu, vì “quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”
4.5. Vi phạm về hình thức còn bị hiểu sai lệch đến
mức, cho rằng nếu sai về tên gọi và đặc điểm của hợp đồng cũng dẫn đến
vô hiệu. Ví dụ, trong một bản án vào tháng 8-2011 V/v “Yêu cầu tuyên bố
hợp đồng thế chấp của bên thứ 3 vô hiệu” (đương sự yêu cầu không nêu
tên), TAND tỉnh Quảng Ngãi đã căn cứ vào quy định tại Điều 134 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”
để tuyên hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã được công chứng và đăng
ký thế chấp hợp pháp là vô hiệu, với lập luận rằng, hợp đồng này do có
sự tham gia của 3 bên (bên thế chấp, bên vay vốn (được thế chấp) và bên
nhận thế chấp), nên phải được lập dưới hình thức một hợp đồng bảo lãnh,
chứ không phải là hợp đồng thế chấp (?!). Bản án phúc thẩm của TAND Tối
cao tại Đà Nẵng vào tháng 11-2011 sau đó cũng tiếp tục tuyên hợp đồng vô
hiệu do vi phạm về hình thức giao dịch. Đây là một nhận định sai lầm
rất cơ bản vì: Thứ nhất, đó đúng luật phải là hợp đồng thế chấp
(có thể là 2 bên hoặc 3 bên ký), chứ không phải là hợp đồng bảo lãnh như
cách hiểu sai của Toà. Thứ hai, nếu cứ cho rằng hình thức bị sai
từ hợp đồng bảo lãnh, sang hợp đồng thế chấp (kiểu như từ hợp đồng kinh
tế, sang hợp đồng dân sự), thì cũng không thể quy kết vào trường hợp vô
hiệu do không đúng về hình thức. Vì vô hiệu về hình thức chỉ đặt ra đối
với các loại hợp đồng phải được lập thành văn bản, công chứng, xin phép
và đăng ký theo quy định tại Điều 134.
4.6. Vì vậy, cần có các quy định cụ thể, rõ ràng hơn để bảo vệ quy định tại Điều 401 “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Các
bên đã hoàn toàn tự do ý chí thoả thuận hợp đồng, kể cả về hình thức,
thì cần hạn chế tối đa việc vô hiệu do không tuân thủ về hình thức. Ví
dụ, theo quy định tại Điều 30 về ”Nguyên tắc quản lý”, Quy chế Quản lý
vay và trả nợ nước ngoài. Ban hành kèm theo Nghị định số số
134/2005/NĐ-CP ngày 01-11-2005 của Chính phủ, thì tất cả các khoản vay
nước ngoài của doanh nghiệp phi nhà nước phải đăng ký với Ngân hàng Nhà
nước. Tuy nhiên, không thể vin vào lý do, các hợp vay vốn nước ngoài
không đăng ký với Ngân hàng Nhà nước là vô hiệu (không được chuyển ngoại
tệ ra nước ngoài trả nợ lãi).
5. Về hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật:
Quy định tại khoản 5, Điều 144 về “Phạm vi đại diện”: “Người
đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính
mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” là một trong những điều
cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 128 về “Giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”. Quy định
này có thể dẫn đến việc tuyên hợp đồng thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ cho
bên thứ ba là vô hiệu, nếu như chủ sở hữu tài sản là cá nhân, đồng thời
là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, khi họ ký hợp đồng
thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình để thế chấp cho nghĩa vụ dân sự
của doanh nghiệp. Việc một người ký với 2 tư cách khác nhau trong trường
hợp này không có bất kỳ lý do gì phải cấm đoán, vì không hề dẫn đến sự
xung đột, mâu thuẫn về lợi ích. Hơn thế nữa, về bản chất giao dịch này
chỉ cần bên thế chấp ký, mà không cần thiết phải có sự tham gia của bên
vay tiền là cũng đã bảo đảm về giá trị pháp lý, còn nếu có bên thứ ba ký
thêm thì chỉ có bảo đảm hơn. Tuy nhiên, vì quy định trên của Bộ luật
Dân sự, mà rất nhiều công chứng viên đã không đồng ý chứng nhận hợp đồng
thế chấp 3 bên trong trường hợp này. Để thoát khỏi vướng mắc vô lý đó,
các công chứng viên lại hướng dẫn bằng cách, chỉ cho một người ký với
một tư cách, còn với tư cách thứ hai, thì phải uỷ quyền cho người khác
(ví dụ, nếu là cá nhân thì chồng uỷ quyền cho vợ ký hoặc là doanh nghiệp
thì giám đốc uỷ quyền cho phó giám đốc ký). Cách làm này cũng không hợp
lý, vì về bản chất người được uỷ quyền ký cũng chỉ là người thực hiện
công việc theo ý chí của chính người uỷ quyền.
Tương tự là đối với trường hợp, một người là người
đại diện theo pháp luật của 2 công ty (ví dụ là Chủ tịch của công ty này
và là Tổng giám đốc của công ty khác), khi 2 công ty này ký hợp đồng
với nhau, thì một người có được ký cả hai bên không? Nếu không được, thì
phải uỷ quyền cho người khác và như vậy thì khác gì chính họ ký?
6. Hợp đồng vô hiệu do trái đạo đức xã hội:
Điều 128 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội” giải thích: “Đạo
đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong
đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.” Tuy nhiên,
trên thực tế, điều này rất khó xác định. Chẳng hạn, người chồng tặng cho
hoặc để lại thừa kế căn nhà thuộc sở hữu của mình cho người tình, trong
khi người vợ không có chỗ ở nào khác, thì có trái đạo đức hay không?
Hay, một người rất giầu có thoả thuận bán cho một người rất nghèo khổ
một bộ quần áo với giá đắt gấp đôi bình thường, thì liệu có đặt ra vấn
đề vô hiệu vì trái đạo đức xã hội không?
Vì vậy, giải thích “những chuẩn mực ứng xử chung” thì đúng là đạo đức, nhưng hợp đồng phải trái với “những chuẩn mực ứng xử chung” nào thì mới dẫn đến vô hiệu, chứ không thể trái với mọi thứ đạo đức xã hội.
7. Hợp đồng vô hiệu từng phần:
Điều 135 về “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần” quy định: “Giao
dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.” Tuy nhiên, thế nào là “một phần của giao dịch vô hiệu” cũng cần phải quy định rõ hơn. Ví dụ:
- Hợp đồng mua bán ghi giá cả bằng ngoại tệ trong
trường hợp không được phép, thì đương nhiên phần giá cả sẽ bị vô hiệu.
Tuy nhiên, phần về giá cả vô hiệu, thì hợp đồng có vô hiệu không, có
thực hiện được không, khi mà không có cơ sở để xác định được một trong
những điều khoản chủ yếu của hợp đồng? Liệu có thể hay là không thể tự
quy đổi ngoại tệ theo tỷ giá ngân hàng hay tỷ giá chợ đen để xác định
giá cả bằng đồng Việt Nam?
- Hay đối với hợp đồng cho vay tiền có thoả thuận lãi
suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản, thìchỉ phần lãi suất vượt quá vô
hiệu hay toàn bộ thoả thuận về lãi suất vô hiệu. Nếu toàn bộ nội dung
thoả thuận về lãi suất vô hiệu, thì người vay chỉ phải trả nợ gốc, mà
không phải trả bất kỳ đồng tiền lãi nào. Và như vậy, thì khác nào hợp
đồng bị vô hiệu toàn bộ? Còn nếu chỉ phần vượt quá lãi suất mới vô hiệu,
thì hậu quả sẽ là khuyến khích vi phạm pháp luật, vì chắc chắn thoả
thuận lãi suất trái luật vẫn luôn được bảo vệ ở mức lãi suất tối đa được
phép áp dụng. Và như vậy, thì rõ ràng hợp đồng chỉ vô hiệu một phần.
Điều đó cho thấy, quy định về hợp đồng vô hiệu trong
Bộ luật Dân sự hiện hành còn nhiều vấn đề rất phức tạp, không rõ ràng,
rất khó hiểu và đặc biệt là không hợp lý trong việc quy định vô hiệu về
hình thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét