Bộ luật Dân sự Đức được ban
hành năm 1896 gồm có 2385 Điều và đã trải qua 2 lần sửa đổi quan trọng
(năm 1977 và năm 2002) trong vòng 116 năm (do yêu cầu sửa đổi liên quan
đến quyền bình đẳng nam nữ và yêu cầu sửa đổi khi gia nhập liên minh
Châu Âu). Bộ luật Dân sự Đức được đánh giá là một Bộ luật có sự ảnh
hưởng lớn và đã được nhiều nước tham khảo trong quá trình soạn thảo và
sửa đổi Bộ luật Dân sự của mình. Sau đây là một số vấn đề cơ bản của Bộ
luật Dân sự Đức mà Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi Bộ
luật Dân sự năm 2005.
I. Cấu trúc của Bộ luật dân sự Đức (BLDS Đức)
BLDS Đức gồm 5 quyển, bao gồm: Quyển 1 là những quy
định chung; Quyển 2 là những quy định về trái quyền; Quyển 3 là những
quy định về vật quyền; Quyển 4 là những quy định về hôn nhân và gia
đình; Quyển 5 là những quy định về thừa kế. Trong đó, mỗi quyển chia
thành phần, chương, mục.
Về cấu trúc của Bộ luật, thông thường thế giới có hai
trường phái pháp điển hóa Bộ luật dân sự, đó là trường phái cấu trúc
theo kiểu Institutiones – tập trung vào chức năng của chế định và trường
phái cấu trúc theo kiểu Pandekten – cấu trúc các quy định mang tính lý
luận. BLDS Pháp (Institutiones) và Đức (Pandekten) là tiêu biểu cho việc
áp dụng hai phương thức này. Việc một BLDS nào đó như BLDS Việt Nam lựa
chọn phương thức nào là tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh xã hội,
không một phương thức nào có thể giải quyết được tất cả những gì được
mong đợi. Không như Bộ luật dân sự một số nước (Pháp, Nhật Bản…) đưa
những quy định về vật quyền lên trước những quy định về trái quyền, Bộ
luật dân sự Đức sắp xếp hai phần này theo thứ tự ngược lại, nghĩa là
những quy định về trái quyền được quy định trước những quy định về vật
quyền. Tuy nhiên, thứ tự sắp xếp không dẫn đến sự bất cập về mặt nội
dung. Cơ cấu của BLDS Việt Nam giống với BLDS Pháp và BLDS Nhật Bản, đó
là các quy định về các vấn đề mang tính vật quyền được đặt trước phần
quy định về các vấn đề mang tính trái quyền. Theo quan điểm của Đức, bản
thân vật quyền, trái quyền có sự đan xen lẫn nhau. Vật quyền, chuyển
dịch quyền, thụ đắc quyền, mất quyền còn liên quan đến cả quá trình thực
hiện quyền đó, liên quan đến quy định về sử dụng, chiếm giữ tức là vận
dụng quy định trái quyền để bảo vệ vật quyền. Do đó, trái quyền có ưu
thế tổng quan hơn nên đưa lên trước.
Một số vấn đề sau đây có thể được xem là những
vấn đề mà Việt Nam đang còn có nhiều quan điểm khác nhau và còn có sự
lúng túng trong quá trình sửa đổi Bộ luật của mình.
* Quyền nhân thân
BLDS nằm trong hệ thống luật tư và đối diện với nó là
luật công mà vẫn thường hay được gọi là tư pháp và công pháp (điều
chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và tư nhân hoặc giữa các tổ chức Nhà
nước với nhau). Quyền nhân thân có tính chất là quyền cơ bản của con
người và thường được quy định trong Hiến pháp như các quyền được quy
định từ Điều 24 đến Điều 51 BLDS Việt Nam (quyền đối với họ, tên; quyền
xác định dân tộc; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ,
thân thể…). Do vậy, cần nghiên cứu xem có cần thiết quy định trong BLDS
hay không. Thực chất đây là những quy định liên quan đến pháp luật công,
không nên đưa vào BLDS vì ít có yếu tố dân sự. Nếu điều chỉnh những vấn
đề liên quan đến pháp luật công như vậy sẽ bị chi phối thường xuyên bởi
các quyết định chính trị.
Pháp luật dân sự cổ của Đức có sự pha trộn giữa
pháp luật công và pháp luật tư và đã bị coi là không tốt. Qua công tác
xét xử của thẩm phán người ta nhận thấy rằng cần phải có sự thay đổi.
Nguyên tắc của pháp luật dân sự là quyền tự chủ của các bên tham gia
quan hệ dân sự mà pháp luật công không có. Nếu trộn lẫn pháp luật công
và pháp luật tư thì pháp luật sẽ chịu chi phối bởi cả 2 nguyên tắc. Thực
tiễn áp dụng pháp luật cho thấy cần phải có sự tách biệt giữa 2 nguyên
tắc, BLDS chỉ nên quy định những vấn đề thuần túy dân sự.
* Chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
Chủ thể trong quan hệ dân sự bao gồm thể nhân
và pháp nhân. Những quy định về vấn đề này của Đức cũng tương tự như
Việt Nam, tuy nhiên có một số điểm khác.
Đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp, theo yêu cầu
của liên minh Châu Âu, thời gian qua Đức ban hành nhiều văn bản pháp
luật liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng, trong đó liên quan nhiều đến
vấn đề về người tiêu dùng và doanh nghiệp. Những vấn đề này có nên đưa
vào phần chung của BLDS VN không hay để luật chuyên ngành quy định cũng
là một vấn đề cần nghiên cứu, xem xét.
Ở Đức có hai loại hình pháp nhân, pháp nhân theo pháp
luật tư và pháp nhân theo pháp luật công. Công ty cổ phần, công ty TNHH
cũng thuộc pháp luật tư nhưng được điều chỉnh bởi các luật chuyên biệt
điều chỉnh riêng về loại hình công ty này. Các loại hình công ty này
theo pháp luật Đức là các pháp nhân công, do đó không được điều chỉnh
bởi pháp luật dân sự. Đối với pháp nhân công có
yếu tố pha trộn giữa pháp luật tư và pháp luật công nên các nhà làm
luật cố gắng đưa ra khỏi Bộ luật dân sự, BLDS chỉ điều chỉnh những quan
hệ dân sự thuần tuý. Vì BLDS không điều chỉnh những pháp nhân công nên
cũng không điều chỉnh những vấn đề liên quan đến đặc quyền của những
pháp nhân công này, ví dụ: đặc quyền về sở hữu hay những đặc quyền trong
lĩnh vực khác. Nói chung, BLDS không điều chỉnh những vấn đề liên quan
đến pháp nhân công.
Đức có một loại chủ thể là công ty của pháp luật tư –
partnership agreement và được điều chỉnh bởi Điều 705 BLDS Đức. Đây là
một loại hình đặc biệt, không hẳn là pháp nhân mà có sự pha trộn giữa
thể nhân và pháp nhân. Các thành viên ký hợp đồng thành lập công ty,
cùng theo đuổi mục đích chung (ví dụ: mở cửa hàng bán đồ ăn, quần áo…).
Người ta không muốn thành lập một công ty lớn như công ty cổ phần hay
công ty TNHH. Đặc điểm của loại hình công ty pháp luật tư là những tài
sản nộp vào công ty là tài sản chung hợp nhất của các thành viên (không
phải tài sản công ty, không sở hữu theo phần). Công ty này không có năng
lực pháp luật (không phải là pháp nhân) và có thể đi kiện hoặc bị kiện.
Theo quy định của BLDS VN thì có hai chủ thể đặc
biệt, đó là hộ gia đình và tổ hợp tác xã. Theo pháp luật Đức, hộ gia
đình không phải là chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Những thành
viên trong gia đình mới là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình do pháp luật về hôn nhân, gia đình
điều chỉnh. Tuy nhiên, trong lĩnh vực pháp luật công, pháp luật hành
chính thì gia đình có thể xuất hiện trong quan hệ pháp luật. Ví dụ,
những gia đình nghèo được Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện về chỗ
ở. Trong lĩnh vực bảo trợ xã hội, trẻ em là thành viên trong gia đình.
Khi đến một lứa tuổi nhất định nào đó thì đứa trẻ đó không được tính là
thành viên trong gia đình nữa. Số lượng thành viên trong gia đình là cơ
sở xác định hộ nghèo. Khi nhà nước trợ cấp thì trợ cấp cho từng thành
viên trong gia đình. Những người không làm thủ tục kết hôn nhưng vẫn
sống cùng với nhau trong nhà thì cũng được coi là thành viên hộ gia
đình.
Vấn đề hôn nhân gia đình cần phải được pháp luật quy
định nhưng quy định ở đâu thì trên thế giới không có sự thống nhất, xuất
phát từ 2 quan điểm sau: (1) Những quan hệ của vợ chồng chủ yếu mang
tính dân sự nên được pháp luật dân sự bảo vệ (2) Gia đình là tế bào của
xã hội (quan điểm của các nước XHCN trước đây) nên được sự quan tâm của
nhà nước chứ không thể là một quan hệ dân sự. Do đó, các nước XHCN
thường có Luật hôn nhân, gia đình điều chỉnh riêng. Trong Luật hôn nhân,
gia đình của CHDC Đức trước đây cũng không điều chỉnh hết những quan hệ
trong gia đình, có pháp luật riêng (pháp luật về phân phối nhà ở cho
gia đình, vợ chồng sở hữu chung) điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ
chồng. Đức cho rằng gia đình có thể được nhận sự bảo trợ của Nhà nước
nhưng các quan hệ trong gia đình là quan hệ thuần túy dân sự nên cần
được pháp luật dân sự điều chỉnh như quan hệ giữa vợ – chồng, cha mẹ –
con cái, hoặc những quan hệ giữa những người thân thích…
Nếu coi hộ gia đình là một chủ thể đặc biệt thì trong
pháp luật về vật quyền (ví dụ: lĩnh vực đất đai) sẽ phát sinh rất nhiều
hậu quả xảy ra. Nếu không giải quyết tốt vấn đề hộ gia đình sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến quy định về vật quyền liên quan đến chính sách giao
đất cho hộ gia đình của Việt Nam hiện nay trong khi hộ gia đình là một
chủ thể không xác định được do thành viên hộ gia đình luôn biến động.
II. Vật quyền
Vật quyền được hiểu là quyền của một người đối với một vật, là quyền chi phối trực tiếp của người đó đối với vật. Vật
quyền là quyền tuyệt đối, áp dụng đối với tất cả mọi người. Trong các
loại vật quyền được quy định tại Bộ luật dân sự Đức thì quyền sở hữu là
loại vật quyền chính. Những loại vật quyền khác là sự độc lập hoá theo
mục đích của quyền sở hữu, là những bộ phận của quyền sở hữu, theo chức
năng của quyền sở hữu. Chức năng của quyền sở hữu là việc khai thác, sử
dụng vật, do đó quyền hưởng dụng được coi là một vật quyền để có thể
thực hiện độc lập, có thể chuyển giao cho người khác khai thác, sử dụng.
Quy định vật quyền sẽ tăng cường tính ổn định của
pháp luật, đồng thời bảo vệ các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư
nước ngoài. Pháp luật Đức chia vật quyền làm 2 loại: vật quyền về nội
dung và vật quyền về hình thức. Vật quyền về nội dung được quy định tại
BLDS và một số đạo luật khác, ví dụ: Luật về sở hữu căn hộ; Luật về xây
dựng trên đất của người khác và một số luật liên quan phát sinh do quá
trình thống nhất nước Đức. Vật quyền hình thức có nhiều cấp bậc, ]ợc quy
định trong các luật như Luật về đăng ký bất động sản là đạo luật của
liên bang và Luật liên quan đến thủ tục định đoạt bất động sản hướng dẫn
thi hành Luật về đăng ký bất động sản và chế độ bất động sản được quy
định chi tiết hơn do Bộ Tư pháp liên bang được Quốc hội giao quyền ban
hành và một số Luật của các bang điều chỉnh vật quyền hình thức.
Bộ luật dân sự Đức không có khái niệm tài sản
vì có rất nhiều loại hình tài sản khác nhau theo sự phát triển của xã
hội mà pháp luật không thể điều chỉnh kịp, dẫn đến mất tính bền vững của
BLDS. Trong phần vật quyền, BLDS Đức chỉ đưa ra khái niệm vật. Cách đây
20 năm, có một vấn đề liên quan đến súc vật, có những súc vật liên quan
đến tình cảm con người, gần với con người nên không được coi là vật. Do
đó, chia súc vật thành 2 loại: vật và không phải vật (vận dụng tương tự
pháp luật về vật đối với súc vật không được coi là vật).
1. Một số nguyên tắc chính về pháp luật vật quyền:
Nguyên tắc trìu tượng và tách biệt, đây là đặc
trưng của pháp luật Đức mà hệ thống pháp luật các nước khác không có.
Nguyên tắc tách biệt chia giao dịch về xác định nghĩa vụ theo quan hệ
trái vụ và giao dịch về vật quyền. Ví dụ, liên quan đến hợp đồng mua
bán, trong giao dịch trái quyền, người mua thỏa thuận sẽ có nghĩa vụ
giao tiền cho người bán, người bán thoả thuận sẽ có nghĩa vụ giao vật
cho người mua, đó là thoả thuận về trái quyền. Trong giao dịch vật
quyền, các bên thoả thuận rằng việc sở hữu vật sẽ chuyển dịch từ bên bán
sang cho bên mua, việc chuyển dịch này được pháp luật vật quyền điều
chỉnh riêng. Tính trìu tượng ở đây là tách giao dịch vật quyền ra khỏi
trái quyền. Trong một số trường hợp, trái quyền có vô hiệu nhưng vật
quyền vẫn có hiệu lực, ví dụ: một hợp đồng mua bán sau khi đã được ký
kết mới phát hiện ra một bên không có năng lực hành vi thì hợp đồng vô
hiệu nhưng giao dịch vật quyền (chuyển xong quyền sở hữu) vẫn có hiệu
lực.
Nguyên tắc công khai, giao dịch vật
quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất với nhau về chuyển quyền sở hữu từ
người này sang người kia và có sự chuyển giao vật trực tiếp. Ở đây có sự
khác giữa việc chuyển dịch quyền sở hữu giữa động sản và bất động sản:
đối với động sản, thỏa thuận chuyển giao vật và thực tế có giao vật
(chuyển quyền chiếm giữ, vật được giao từ người bán sang người mua đã
thay đổi sự chiếm giữ); đối với bất động sản, thời điểm đăng ký vào sổ
địa bạ được coi như là giao vật. Đó là cách thức công khai hoá về chuyển
dịch thực tế quyền sở hữu. Pháp luật quy định nhiều hình thức chiếm giữ
khác nhau, ví dụ: trường hợp người mua (người thụ đắc) đã có vật trong
tay thì việc chuyển dịch quyền sở hữu giữa người mua với người bán không
nhất thiết phải có bước thứ hai là chuyển giao vật mà chỉ cần có sự
thoả thuận. Trong trường hợp vật nằm trong tay người thứ ba thì việc
chuyển giao vật từ người bán sang người mua được thực hiện theo hình
thức chuyển quyền yêu cầu đòi người thứ ba chuyển giao vật sang người
mua. Để an toàn cho giao dịch pháp lý thì phải có sự công khai, sự công
khai đối với động sản là hình thức chuyển giao vật.
Nguyên tắc tuyệt đối, đây là nguyên tắc chống lại sự tác động, sự gây rối loạn của người khác đối với vật.
Nguyên tắc luật định, các bên không thể sáng tạo ra được, các bên không thể thỏa thuận nội dung vật quyền mà chỉ có luật quy định.
2. Vật quyền bảo đảm nghĩa vụ:
Một trong những biện pháp bảo đảm nghĩa vụ theo pháp
luật Đức là thế chấp và nợ điền địa. Nợ điền địa khác thế chấp ở chỗ nó
tồn tại không phụ thuộc quyền yêu cầu của chủ nợ, được vận dụng linh
hoạt trong nhiều trường hợp. Ví dụ, một người vay ngân hàng một nghìn
euro và mang đất của mình đi đảm bảo cho khoản nợ. Thông thường có hai
cách để đảm bảo đó là thế chấp hoặc nợ điền địa. Đối với thế chấp thì
sau mỗi lần người vay trả tiền (trả tiền làm nhiều đợt) giá trị của việc
thế chấp sẽ giảm dần (nghĩa vụ của người vay đối với ngân hàng sẽ giảm
dần tuỳ thuộc vào số tiền họ trả), tuy nhiên, đối với nợ điền địa thì
nghĩa vụ này không được trừ dần, nó vẫn tồn tại nguyên vẹn cho đến khi
người vay trả đến đồng tiền cuối cùng. Nợ điền địa không phụ thuộc vào
quyền yêu cầu của con nợ và chủ nợ. Nợ điền địa là việc dùng một mảnh
đất để bảo đảm cho một nghĩa vụ. Nội dung của quyền này được điều chỉnh
bởi một thỏa thuận giữa chủ sở hữu đất và ngân hàng, mảnh đất đảm bảo
cho một khoản nợ nào đấy được chỉ rõ. Thoả thuận chỉ rõ, thửa đất đảm
bảo cho quyền yêu cầu. Khi mà có đơn yêu cầu ghi vào sổ địa bạ sự bảo
đảm nợ điền địa này, nhà băng có quyền bảo đảm bằng thửa đất đó. Cùng
với việc đưa đơn yêu cầu đăng ký sổ địa bạ, ngân hàng có thể xuất tiền
cho vay và cùng thời điểm đó, ngân hàng được bảo đảm nghĩa vụ bằng thửa
đất đó. Khi ngân hàng cho một người nào đó vay, ngân hàng có quyền yêu
cầu đòi nợ người đó, quyền yêu cầu đòi nợ giữa ngân hàng và người vay có
thể chuyển dịch sang một người thứ ba nhưng việc chuyển dịch quyền yêu
cầu này không ảnh hưởng đến việc bảo đảm nợ điền địa đã được đăng ký
trong sổ địa bạ đối với mảnh đất đó. Trường hợp con nợ được chuyển dịch
từ người này sang người khác nhưng ngân hàng vẫn được bảo đảm bằng thửa
đất đã đăng ký. Như vậy, đây là lợi thế của chế định bảo đảm nợ điền
địa. Ví dụ, ông A có một mảnh đất bảo đảm nợ điền địa với ngân hàng, ông
A chuyển dịch khoản nợ ngân hàng này cho người khác; mảnh đất của ông A
vẫn phải chịu bảo đảm nợ điền địa. Như vậy, dưới góc độ kinh tế, chế
định nợ điền địa rất thuận lợi cho ngân hàng.
Như vậy, sự khác biệt cơ bản giữa thế chấp và nợ điền
địa đó là trong trường hợp thế chấp, sự tồn tại của thế chấp luôn phụ
thuộc sự tồn tại quyền yêu cầu. Quyền thế chấp phát sinh khi có quyền
yêu cầu, quyền yêu cầu đã có rồi thì mới có thế chấp, khi trả nợ thì
quyền yêu cầu mất đi và khi đó thế chấp cũng mất đi. Đối với nợ điền
địa, khi đã ghi trong sổ địa bạ thì nợ điền địa luôn tồn tại bất luận
khoản nợ đã thanh toán hay chưa, nếu thanh toán rồi thì các bên có thể
thoả thuận để bảo đảm cho một khoản nợ khác thay thế vào đấy, tức là tồn
tại không phụ thuộc quyền yêu cầu. Ví dụ, chủ sở hữu thế chấp mảnh đất
cho ngân hàng A bảo đảm cho một khoản nợ tồn tại trong 5 năm, thế nhưng
trong khoảng thời gian 2 năm bên nợ đã thanh toán rồi thì trong trường
hợp này thế chấp cũng chấm dứt. Nếu 5 năm sau chủ sở hữu mảnh đất lại
cần một khoản tín dụng khác tại ngân hàng A thì lại phải thế chấp. Nếu
trong khoảng thời gian 3 năm sau khi đã trả khoản nợ tại ngân hàng A,
người vay lại thế chấp ở một ngân hàng B để vay một khoản tiền khác thì
thứ tự ưu tiên đối với khoản nợ của ngân hàng A (vay sau 5 năm) sẽ thấp
hơn so với khoản nợ vay tại ngân hàng B. Như vậy, thứ tự ưu tiên kém hơn
thì quyền bảo đảm sẽ kém hơn. Trường hợp mảnh đất bị cưỡng chế bán đấu
giá thì rõ ràng thứ tự ưu tiên cao hơn sẽ có lợi hơn. Nếu đăng ký theo
“nợ điền địa” thì khoản nợ bảo đảm bằng nợ điền địa sẽ không bị mất đi
nếu giữa chừng quyền yêu cầu chấm dứt. Chính vì lẽ đó, người Đức thường
sử dụng biện pháp nợ điền địa nhiều hơn biện pháp thế chấp.
3. Quyền địa dịch:
Đây là một vật quyền của chủ sở hữu bất động sản đối
với bất động sản liền kề. Quyền địa dịch có thể là: (1) quyền được sử
dụng thửa đất lân cận trong một số quan hệ nhất định (quyền được đi qua,
quyền mắc đường dây tải điện, điện thoại, dẫn nước…); hoặc (2) cam kết
không thực hiện một số hành vi nhất định nào đấy mà có thể gây ảnh hưởng
đến bất động sản lân cận (cam kết khi xây dựng công trình trên đất sẽ
dành một khoảng cách nhất định đối với mảnh đất khác); hoặc (3) chủ sở
hữu bất động sản phải chịu đựng một việc gì đó, tự nguyện không thực
hiện một số hành vi nhất định mà người ta có quyền trong phạm vi sở hữu
của mình: gây tiếng động, để cành cây chìa sang đất nhà hàng xóm…
Quyền địa dịch phát sinh khi thỏa thuận và được đăng
ký vào sổ địa bạ. Điểm này rất quan trọng khi người khác thụ đắc mảnh
đất, họ sẽ biết mình có quyền và nghĩa vụ gì đối với mảnh đất và người
mua có thể đánh giá giá trị của mảnh đất. Khi đó quyền địa dịch, hoặc
chịu đựng một vấn đề gì đấy hoặc không được phép thực hiện một hành vi
nào đấy cũng sẽ chuyển dịch sang người mua. Pháp luật cho phép cả trường
hợp quyền địa dịch có thể xác lập cho một số người nhất định, khi
chuyển dịch địa dịch người nhận chuyển dịch không phải chịu nghĩa vụ đó,
trường hợp không xóa vật quyền trong sổ địa bạ thì đương nhiên nghĩa vụ
vẫn còn tồn tại.
4. Thủ tục pháp lý khi mua bán đất đai
Ở Đức cơ chế đăng ký rất chặt chẽ, cơ chế đăng ký
tuyệt đối – điều kiện cho giaodịch vật quyền có hiệu lực. Việc mua bán
bất động sản được thực hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng mua bán do công
chứng viên soạn thảo được công chứng tại bất cứ đâu, không phụ thuộc
vào địa hạt. Khi hợp đồng được ký một giao dịch trái quyền phát sinh,
một bên có nghĩa vụ giao đất, một bên có nghĩa vụ trả tiền và cũng phát
sinh một giao dịch vật quyền. Sau khi ký hợp đồng, hai bên tự mình hoặc
nhờ công chứng viên đến xem sổ địa bạ để xác định những vật quyền liên
quan đến mảnh đất. Công chứng viên sẽ xem xét tình trạng pháp lý ghi
trong sổ địa bạ và giải thích hậu quả phát sinh sau khi hợp đồng được
công chứng. Hợp đồng có thể được ký tại bất cứ đâu miễn là có mặt các
bên. Giao dịch vật quyền chưa thực hiện ngay mà có một khoảng thời gian
xem xét, ví dụ: xét xem mảnh đất có rơi vào trường hợp nhà nước có quyền
mua trước hay không hoặc có phải nộp thuế hay không, có giấy phép của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay không…Trong giai đoạn này công chứng
viên phải làm rất nhiều việc để bảo đảm an toàn pháp lý cho hai bên,
trong đó đảm bảo quyền lợi cho người mua khi trả tiền sẽ được quyền sở
hữu mảnh đất. Để bảo đảm quyền lợi của người mua trong trường hợp phải
chờ đợi như vậy, có hai cách giải quyết: (1) người mua gửi tiền vào một
tài khoản riêng của công chứng viên dành cho khách hàng và công chứng
viên sẽ trả tiền cho người bán khi khả năng người mua là chủ sở hữu đã
chắc chắn rồi và tên người mua được ghi chú trước trong sổ địa bạ, điều
kiện trở thành chủ sở hữu đã được thực hiện. (2) Người mua không phải
gửi tiền vào một tài khoản riêng của công chứng viên mà khi nào công
chứng viên thấy đã đảm bảo an toàn pháp lý thì thông báo cho người mua
trả tiền cho người bán. Như vậy, công chứng viên giám sát toàn bộ quá
trình này để bảo đảm an toàn pháp lý cho hai bên. Việc đăng ký được thực
hiện theo sổ địa bạ do cơ quan đăng ký sổ địa bạ nằm trong Tòa án thực
hiện. Những người làm trong bộ phận này gọi là nhân viên đăng ký, mỗi
nhân viên đăng ký chịu trách nhiệm trong một địa hạt nhất định. Công
chứng viên có thể công chứng tại mọi nơi nhưng phải đến cơ quan đăng ký
địa bạ tại địa hạt có mảnh đất để kiểm tra, xem xét. Hồ sơ đăng ký gồm
có hợp đồng, đơn yêu cầu (giấy ủy quyền làm đơn yêu cầu của công chứng
viên trong trường hợp công chứng viên làm đơn yêu cầu), những giấy tờ,
giấy phép của nhà nước. Nếu có những vấn đề khác có liên quan thì công
chứng viên phải thu thập giấy tờ để lưu hồ sơ. Khi thỏa thuận hợp đồng
(giao dịch trái quyền) và khi thống nhất với nhau về chuyển dịch quyền
sở hữu (giao dịch vật quyền) thì các bên đều phải có mặt khi công chứng
viên công chứng hợp đồng. Thực hiện đăng ký xong thì cơ quan đăng ký
thông báo cho các bên có quyền, nghĩa vụ liên quan về những thay đổi
trong sổ địa bạ mà không phải cấp bất cứ một giấy tờ chứng nhận quyền sở
hữu nào. Chủ sở hữu thửa đất hoặc chủ sở hữu vật quyền liên quan đến
thửa đất có quyền đến cơ quan đăng ký yêu cầu sao trích lục nội dung ghi
trong sổ địa bạ liên quan đến mảnh đất.
Trong quá trình sửa đổi BLDS 2005, nhóm chuyên gia
soạn thảo cũng đã dự kiến đưa ra hai phương án: đăng ký là điều kiện để
giao dịch vật quyền có hiệu lực hoặc đăng ký để đối kháng với bên thứ
ba. Mặc dù cơ chế đăng ký tuyệt đối là tốt và có nhiều ưu điểm, tuy
nhiên, việc lựa chọn phương án nào còn phải nghiên cứu, cân nhắc cụ thể,
phụ thuộc vào hệ thống đăng ký và điều kiện, hoàn cảnh xã hội của Việt
Nam.
II. Pháp luật về trái quyền (nghĩa vụ dân sự và hợp đồng)
Trái quyền theo pháp luật Đức được hiểu là hành vi
của một người có năng lực pháp luật làm phát sinh một hậu quả pháp lý
nhất định. Luật trái quyền Đức chia làm 2 phần chính: quy định chung
(thực hiện quyền như thế nào, trách nhiệm do không thực hiện, thực
hiện không đúng, chậm…) áp dụng chung cho các quan hệ trái vụ khác ở
phần sau; quy định riêng (dạng quan hệ trái vụ cụ thể gồm các hợp đồng
cụ thể). Phần quy định riêng chỉ quy định những gì do tính chất đặc thù
của nó mà khác với những quy định ở phần chung.
1. Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng
Vi phạm nghĩa vụ
Theo pháp luật Đức thì vi phạm nghĩa vụ (vi phạm hợp
đồng) là việc một bên đương sự có những hành vi không phù hợp với
những gì đã thoả thuận ban đầu. Việc vi phạm nghĩa vụ có tính chất khách
quan và không nên đánh đồng với việc có lỗi. Hiện nay hầu như cả thế
giới đều có cách thức xác định vi phạm nghĩa vụ như vậy, ví dụ như Công
ước viên về mua bán hàng hoá quốc tế cũng dựa trên cơ sở vi phạm nghĩa
vụ (vi phạm khách quan). Dự thảo Luật dân sự liên minh châu âu hay quy
định của Unidroit cũng dựa trên nguyên tắc vi phạm nghĩa vụ một cách
khách quan. Pháp luật Đức trước đây quy định rất phức tạp nhưng từ
năm 2000 trở lại đây đã có những thay đổi và luôn đi theo nguyên tắc vi
phạm nghĩa vụ. Một số dạng vi phạm nghĩa vụ điển hình như: không thi
hành nghĩa vụ (hoàn tòan không thực hiện nghĩa vụ phải làm), chậm thực
hiện nghĩa vụ…
Trường hợp bên có nghĩa vụ thực hiện trước thời
hạn thoả thuận và được bên có quyền chấp nhận thì coi như người đó đã
thực hiện nghĩa vụ của mình (việc chậm thực hiện nghĩa vụ cũng được xử
lý tương tự như vậy). Vậy trường hợp người có nghĩa vụ chỉ thực hiện
một phần nghĩa vụ thì có coi là vi phạm nghĩa vụ không. Theo pháp
luật Đức, con nợ không được thực hiện một phần nghĩa vụ. Tuy nhiên các
toà án Đức lại bám vào nguyên tắc trung thành, tin tưởng lẫn nhau cho
nên người có quyền không có quyền từ chối một phần nghĩa vụ đã được
thực hiện.
Trường hợp thực hiện không đúng chất lượng cũng bị
coi là vi phạm nghĩa vụ, ví dụ như thực hiện không đúng nghĩa vụ cung
cấp một vật đảm bảo chất lượng như đã công bố, vi phạm nghĩa vụ bảo
đảm, bảo hành… Mặt khác, không thực hiện đúng nghĩa vụ phụ cũng là một
dạng thực hiện không đúng nghĩa vụ và người vi phạm cũng phải chịu
trách nhiệm. Đối chiếu với BLDS hiện hành của Việt Nam thì BLDS 2005 có
rất nhiều chỗ quy định về nghĩa vụ phụ và những chế tài nhất định ví
dụ như Điều 444, 445, 446, 447… Để quy định tập trung lại thành nguyên
tắc thì BLDS có thể sửa đổi những quy định này theo hướng: trong trường
hợp vi phạm nghĩa vụ phụ thì người vi phạm nghĩa vụ phụ cũng phải
chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình.
Hậu quả pháp lý của vi phạm nghĩa vụ
Pháp luật Đức quy định một số hậu quả pháp lý cơ bản khi vi phạm nghĩa vụ:
Rút lui khỏi quan hệ hợp đồng
Theo pháp luật của Đức, trong những hoàn cảnh,
điều kiện nhất định, người có quyền có quyền rút lui khỏi quan hệ
hợp đồng nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ của họ. Chế định đơn phương huỷ bỏ quan hệ hợp đồng là
một chế định khá mạnh mẽ. Xét về khía cạnh lợi ích kinh tế thì người ta
không khuyến khích việc huỷ bỏ quan hệ hợp đồng, chính vì vậy mà các
quy định của pháp luật liên minh Châu âu về mua bán hàng tiêu dùng bổ
sung thêm yêu cầu: người có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ
của mình trong một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó mà người có
nghĩa vụ vẫn không thực hiện được thì người có quyền mới được đơn
phương chấm dứt quan hệ hợp đồng. Sự đơn phương thể hiện ở tuyên bố đơn
phương và được tính từ thời điểm phía bên kia nhận được tuyên bố đó. Tuy
nhiên, các quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng cũng đưa ra
một số ngoại lệ nhất định, đó là: bên có quyền không được phép đơn
phương chấm dứt hợp đồng nếu bản thân anh là người cũng có lỗi trong
việc để cho người có nghĩa vụ không thực hiện được hợp đồng đó. Việc
gia hạn để bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ không được áp dụng trong
một số trường hợp, ví dụ nếu hợp đồng quy định một thời hạn cố định để
thực hiện nghĩa vụ thì việc thực hiện nghĩa vụ đó phải được thực hiện
đúng vào một thời gian cố định đã chỉ rõ trong hợp đồng. Việc gia hạn
trong trường hợp đó không có ý nghĩa gì nữa. Ví dụ như việc một người
đặt hoa cho ngày cưới và đã chỉ rõ ngày cụ thể nhận hoa nhưng người bán
hoa giao hoa sau đó 2 ngày, lúc đó việc gia hạn là không cần thiết. Tuy
nhiên, đối với nghĩa vụ thực hiện từng phần thì việc gia hạn thêm có
những ý nghĩa nhất định.
Trong quá trình sửa đổi BLDS 2005, những quy định về
khả năng rút lui khỏi hợp đồng cần được nghiên cứu, xem xét và quy định
trong BLDS Việt Nam.
Hậu quả của việc rút khỏi quan hệ hợp đồng: thông qua
tuyên bố đơn phương của một bên, khi bên vi phạm nhận được tuyên bố
chấm dứt hợp đồng, thì quan hệ trái quyền chuyển sang quan hệ trả cho
nhau những gì mà các bên đã nhận từ quan hệ trái quyền đó.
Có rất nhiều lí do để một bên có thể tuyên bố đơn
phương chấm dứt hợp đồng như đã phân tích ở trên, tuy nhiên, có một
trong những nguyên nhân đặc biệt, cần phải được xem xét trong quá trình
sửa đổi BLDS, đó là việc rút khỏi quan hệ hợp đồng do hoàn cảnh thay
đổi làm mất đi cơ sở, căn cứ của giao dịch. Pháp luật cần phải quy
định rõ ràng đối với trường hợp này. Một ví dụ cho trường hợp hoàn cảnh
thay đổi đó là, khi giao kết hợp đồng cả hai bên đếu không lường trước
được trường hợp là nhà nước có chính sách cấm nhập khẩu một số loại
hàng hoá, làm mất đi cơ sở của giao dịch, người có nghĩa vụ không thể
giao hàng cho bên mua. Vì vậy, pháp luật cần cho phép một bên được đơn
phương rút ra khỏi hợp đồng và không đòi hỏi phải có yếu tố lỗi, mục
đích là đảm bảo tính hợp lý, linh hoạt, thiết lập lại sự công bằng khi
lợi ích của các bên không được cân đối.
Huỷ bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng
Việc sử dụng hai khái niệm này ở Đức cũng chưa thống
nhất cho nên dẫn đến có sự hiểu nhầm là chúng giống nhau. Trường hợp
huỷ bỏ hợp đồng: quan hệ hợp đồng được huỷ bỏ và chuyển hoá thành
quan hệ trả lại cho nhau những gì đã nhận được từ quan hệ hợp đồng
đó. Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng: quan hệ hợp đồng
được chấm dứt từ thời điểm đơn phương tuyên bố và tương lai không tồn
tại quan hệ này nữa, những gì đã thực hiện trong quá khứ thì vẫn tồn tại
và được giữ nguyên như vậy. Việc đơn phương chấm dứt không chỉ xảy ra
trong quan hệ hợp đồng mà còn xảy ra trong những quan hệ khác như cầm
cố, nợ điền địa.
Tuyên bố vô hiệu hợp đồng
Quan hệ hợp đồng vô hiệu từ thời điểm ban đầu và căn
cứ của việc vô hiệu hợp đồng là những thiếu sót ngay tại thời điểm ký
kết hợp đồng, ví dụ như nội dung hợp đồng trái đạo đức, tập quán, vi
phạm điều cấm… Hậu quả pháp lý là các bên hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận được.
Như vậy, khi một bên có vi phạm nhưng không có lỗi
thì phía bên kia có quyền huỷ bỏ hợp đồng. Đây có thể coi là chuẩn chung
của quốc tế, chỉ cần có vi phạm hợp đồng là có quyền đơn phương
huỷ bỏ hợp đồng, không tuỳ thuộc vào việc bên vi phạm có lỗi hay
không. Tuy nhiên, để đòi bồi thường thiệt hại thì phải tính đến yếu
tố lỗi. Người vi phạm nếu có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại còn
không có lỗi thì không phải bồi thường thiệt hại.
BLDS Việt Nam 2005 cũng quy định về đơn phương chấm
dứt hợp đồng và huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp
lý của nó. Khi một hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì chính bản thân
hợp đồng đó đã không đảm bảo những điều kiện cần của một hợp đồng có
hiệu lực. Quan điểm luật pháp của Việt Nam và Đức là giống nhau. Nếu
một hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì có nghĩa hợp đồng đó chưa bao giờ
có hiệu lực, còn hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thì những phần đã
thực hiện sẽ được các bên thanh toán cho nhau còn những quyền nghĩa
vụ chưa thực hiện thì bị chấm dứt. Hợp đồng bị huỷ bỏ thì không có
hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, vì vậy mà nó không làm phát sinh bất
kỳ một nghĩa vụ pháp lý nào, nhưng nếu bên nào có lỗi làm hợp đồng
bị huỷ bỏ thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại.
Như vậy, về mặt nội dung thì pháp luật Đức có các
công cụ để chấm dứt hợp đồng, đó là: (i) tuyên bố vô hiệu hợp đồng do
cơ sở hình thành ban đầu bị thiếu sót như giao dịch trái tập quán, vi
phạm về hình thức… Trong trường hợp đó hợp đồng không có hiệu lực
ngay từ ban đầu, do có thiếu sót từ đầu nên hợp đồng vô hiệu từ ban
đầu, nếu đã trót thực hiện những gì thì các bên sẽ đòi lại nhau trên cơ
sở đắc lợi vô căn ; (ii) huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp nó không
được thực hiện đúng theo hợp đồng: một bên có quyền đơn phương huỷ
bỏ hợp đồng do một bên thực hiện không đúng hoặc không thực hiện, quan
hệ hợp đồng chuyển thành hoàn trả cho nhau những gì mà các bên đã
nhận được.
Liên quan đến giao dịch vô hiệu do có sai xót trong
tuyên bố ý chí, ví dụ như trái tập quán, không đáp ứng yêu cầu về hình
thức…, có một vấn đề quan trọng mà pháp luật cần điều chỉnh, đó là việc
một tuyên bố ý chí đưa ra do bị nhầm lẫn, đe dọa, lừa dối thì xử lý như
thế nào? Theo quy định của pháp luật Việt Nam, những tuyên bố ý chí do
bị đe dọa, lừa đối, nhầm lẫn sẽ bị vô hiệu. Theo pháp luật Đức thì cách
xử lý lại khác, những trường hợp như thế không đương nhiên vô hiệu, trừ
khi người bị đe dọa, lừa dối, nhầm lẫn có tuyên bố và tuyên bố này hủy
bỏ tuyên bố ý chí trước đó. Theo pháp luật của hai nước thì hậu quả
giống nhau nhưng cách thức khác nhau. Theo pháp luật Đức, nếu người đó
biết bị lừa đối, đe dọa, nhầm lẫn nhưng thấy vẫn có lợi ích nên không
thích hủy giao dịch thì giao dịch không đương nhiên vô hiệu mà có thể
giải quyết vấn đề này bằng cách yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại
BLDS quy định rất chung chung về vấn đề này. Trước đó
người ta cũng tạo cho người có nghĩa vụ khả năng khắc phục được thiệt
hại xảy ra ví dụ người có nghĩa vụ cung cấp 1 đồ vật có lỗi thì
trước tiên người có nghĩa vụ được tạo điều kiện khắc phục lỗi khuyết
tật đó, nếu không được mới phải bồi thường thiệt hại. Khác với chế
định huỷ bỏ hợp đồng là không nhất thiết phải có lỗi của người có
nghĩa vụ, chế định bồi thường thiệt hại yêu cầu người có nghĩa
vụ phải có lỗi.
2. Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách
nhiệm do xâm phạm trái phép vào quyền, tài sản, thân thể người khác.
Quan hệ pháp luật được hình thành thông qua hành vi trái pháp
luật gây ra cho người khác. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đều được áp dụng trên nguyên tắc bồi thường do có lỗi: người
nào do cố ý hoặc vô ý gây lại cho người khác thì phải bồi thường
thiệt hại. Về nguyên tắc trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phải
có lỗi nhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ đó là việc chịu trách
nhiệm do nguồn nguy hiểm thì không phụ thuộc yếu tố lỗi Ví dụ như chịu
trách nhiệm do làm ô nhiễm môi trường, hạt nhân nguyên tử, tham gia
giao thông mà gây tai nạn cho người khác… thì phải chịu trách nhiệm dù
cho không có lỗi. Tuy nhiên, nguyên tắc chịu trách nhiệm do nguồn nguy
hiểm không áp dụng đối với trường hợp bất khả kháng.
Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng của Đức được quy
định ở các điều từ Điều 823 đến Điều 853 BLDS Đức. Khoản 1 Điều 823 quy
định: người nào, cố ý hoặc bất cẩn, mà gây thiệt hại cho tính mạng,
cơ thể, sức khoẻ, tự do, tài sản hoặc quyền của người khác thì có
trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại đối với thiệt hại phát
sinh từ hành vi đó. Điều này tương tự như Điều 604 BLDS 2005 của Việt
Nam. Khoản 2 Điều 823 quy định một người phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho người khác trong trường hợp anh ta vi phạm một luật để bảo
vệ một người nào đó, ví dụ như vi phạm Bộ luật hình sự. Điều 826 quy
định: một người cố ý hoặc vô ý làm trái với chính sách công gây thiệt
hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Điều kiện để áp dụng Điều 823 Khoản 1 đó là: có
hành vi vi phạm (hành vi thực hiện hoặc không thực hiện) dẫn đến việc
xâm phạm tính mạng, sức khỏe tài sản… của người khác; có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại phát sinh; hành vi vi
phạm phải trái pháp luật và có thiệt hại phát sinh (quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm và thiệt hại phát sinh).
Đối tượng được bảo vệ theo Điều 823 bao gồm: tài
sản, tính mạng, sức khoẻ, thân thể (giống Điều 604 BLDS Việt Nam), tự
do của con người (đối tượng bị bắt nhốt, giam) và quyền. Những vật
quyền được bảo vệ ở Điều 823 là những vật quyền có tính chất tuyệt
đối, loại bỏ sự can thiệp của người khác. Ngoài những quyền được bảo
hộ sở hữu trí tuệ như quyền sở hữu công ngiệp, quyền tác giả… thông
qua hoạt đông xét xử toà án cũng quy định những quyền khác được bảo vệ
như các quyền chung về nhân thân như danh dự, nhân phẩm…. Bộ luật dân
sự Đức không nói rõ về các quyền nhân thân như BLDS Việt nam nhưng
chúng đều được bảo vệ (Việt Nam quy định trong luật còn Đức thì thông
qua toà án).
- Về tính trái pháp luật của hành vi: khi xác định
hành vi đó có trái pháp luật không người ta thường phải cân đối
lợi ích giữa 2 bên để xem hành vi đó có trái pháp luật không. Thông
thường, một hành vi bị coi là trái pháp luật khi nó làm sai đi mong muốn
của người có quyền.
- Việc chứng minh hành vi trái pháp luật: bên bị buộc
tội có nghĩa vụ chứng minh hành vi của mình không trái pháp luật nếu
muốn được gỉải phóng khỏi trách nhiệm.
– Yếu tố lỗi: xem xét người có hành vi đó có năng
lực hay không (Điều 827, 828 BLDS Đức) Nếu một người bị rơi vào tình
trạng vô thức có hành vi gây hại cho người khác thì có nghĩa là họ đã
không làm chủ được hành vi của mình nên không có lỗi và không bị chịu
trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu người đó tự uống rượu, bia gây lỗi thì phải
chịu trách nhiệm (Điều 615 BLDS Việt Nam chặt chễ hơn: bao gồm cả chất
kích thích khác và gồm cả trường hợp một người cố ý dùng rượu hoặc chất
kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận
thức…). Theo quy định của Đức thì phải tự bản thân anh ta uống bia,
rượu mới phải chịu trách nhiệm.
Theo quy định của Điều 828 BLDS Đức thì: trẻ em chưa
đủ 7 tuổi không phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại mà mình gây ra cho
người khác (Khoản 1); trẻ em từ 7 đến 10 tuổi khi tham gia giao thông
không phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại mà họ gây ra trừ trường
hợp nó cố ý gây hại (Khoản 2); người chưa đến 18 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm về hành vi của mình khi họ ý thức được hành vi của họ (Khoản
3).
- Các hình thức của lỗi cố ý và vô ý
Theo pháp luật Đức thì lỗi cố ý là việc một người
mong muốn thực hiện hành vi trái pháp luật, còn lỗi vô ý là việc một
người hành động không cẩn thận một cách cần thiết mà nhẽ ra mình phải
hành động cẩn thận.
- Nguyên tắc bồi thường: bồi hoàn tổng thể những
gì đã mất; bồi thường thực tế (người gây hại có nghĩa vụ tái thiết lại
thực trạng như khi trước khi gây hại, người bị hại có quyền yêu cầu
người gây hại bồi thường trực tiếp hoặc thuê người khác tái thiết lại),
ví dụ khi làm hỏng ôtô, người gây hại không biết sửa phải thuê người
khác sửa hộ. Nếu bồi thường bằng hiện trạng tự nhiên không thực hiện
được thì người ta có thể yêu cầu bồi thường bằng tiền.
Điều 253 BLDS Đức quy định về bồi thường thiệt hại
phi vật chất (tiền đau thương). Ở Việt Nam cũng quy định về bồi thường
thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần nhưng khác so với quy định của Đức
ở chỗ: Đức quy định việc bồi thường chỉ thực hiện trong những trường
hợp cụ thể do luật định. Mức tiền bồi thường không quy định cụ thể trong
luật mà toà án qua hoạt động thực tế sẽ đưa ra những quy định cụ thể,
phù hợp.
- Quyền yêu cầu chấm dứt hành vi để ngăn chặn thiệt hại xảy ra
Ngoài các chế định về việc đòi bồi thường thiệt hại
khi có thiệt hại xảy ra, Điều 1004 BLDS Đức cho phép chủ sở hữu được
quyền yêu cầu người gây thiệt hại (người gây cản trở đối với quyền sở
hữu) chấm dứt hành vi mà họ đang thực hiện nhằm ngăn chặn những thiệt
hại có thể phát sinh. Ví dụ hàng xóm của một người thường xuyên cho xe
chạy qua vườn của họ và gây thiệt hại cho mảnh vườn đó. Nếu theo Điều
523 thì mỗi lần như vậy chủ sở hữu có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại,
nhưng vấn đề là bồi thường xong người đó lại vẫn tiếp tục gây thiệt hại.
Theo Điều 1004 thì chủ sở hữu có thể yêu cầu anh ta phải chấm dứt và
khắc phục những thiệt hại đã xảy ra. Điều 1004 chỉ áp dụng với quyền sở
hữu nhưng thực tiễn áp dụng đã mở rộng phạm vi ra cả những quyền ở Điều
823 Khoản 1. Theo Điều 1004 thì chủ sở hữu có 2 quyền: quyền yêu cầu
chấm dứt hành vi gây thiệt hại và quyền yêu cầu phục hồi lại. Quyền yêu
cầu chấm dứt có mục tiêu là hướng đến tương lai. Điều kiện thực hiện
quyền yêu cầu chấm dứt hành vi này là: có sự xâm phạm quyền sở hữu,
quyền tuyệt đối quy định ở Điều 823, có sự gây rối, gây ảnh hưởng với
các quyền của ngươi ta, phải có nguy cơ gây hại. Người có nguy cơ bị
thiệt hại có quyền yêu cầu người có nguy cơ gây thiệt hại chấm dứt hành
vi gây thiệt hại. Quyền yêu cầu chấm dứt hành vi này không phụ thuộc vào
vấn đề lỗi. Quyền yêu cầu khắc phục lại tình trạng cũng không phụ thuộc
vào lỗi, ví dụ khi thấy cái cây nghiêng sang nhà mình và có nguy cơ đổ
xuống nhà mình thì chủ sở hữu ngôi nhà có quyền yêu cầu chủ sở hữu cái
cây phải dựng lại cái cây đó để tránh nguy cơ gây thiệt hại cho ngôi
nhà, mặc dù chủ sở hữu cái cây chưa hề có lỗi.
Trách nhiệm sản phẩm
Trách nhiệm đối với sản phẩm có khuyết tật được quy
định ở một luật riêng gọi là Luật trách nhiệm sản phẩm trên cơ sở chuyển
hoá các quy định của liên minh Châu âu. Các quy định của liên minh Châu
âu được ra đời từ năm 1965 và được Đức nội luât hoá vào năm 1986.
Một sản phẩm được coi là sản phẩm có khuyết tật
khi sản phẩm đó không đáp ứng yêu cầu về đảm bảo an toàn thông
thường. Một con dao sắc quá cũng không coi là sản phẩm lỗi hay hút
thuốc có khói cũng không coi là lỗi của sản phẩm (những rủi ro mà
người bình thường có thể biết trước được thì không coi là sản phẩm có
lỗi). Do đó, khi xem xét lỗi của nhà sản xuất thì người ta sẽ xem
xét xem nhà sản xuất đã thực hiện đủ các nghĩa vụ của mình chưa, ví dụ
nghĩa vụ theo dõi quá trình sản xuất, nghĩa vụ thông báo… Người sản
xuất thường được xác định là nhà sản xuất cuối cùng, đồng thời, nhà
sản xuất cũng có thể là người nhập khẩu, người cung cấp nguyên vật
liệu…
Thông thường, đối với các thiệt hại do hành vi vi
phạm gây ra thì người bị thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh sự thiệt hại
của mình và chứng minh lỗi của bên gây ra thiệt hại, nếu không chứng
minh được thì người đó không có quyền yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp việc chứng minh này là rất khó khăn, ví dụ như
việc chứng minh người sản xuất có lỗi gì trong quá trình sản xuất để
tạo ra sản phẩm có khuyết tật và gây thiệt hại cho người sử dụng là việc
không đơn giản đối với người sử dụng. Xuất phát từ thực tiễn cho nên
toà án dân sự lên bang đã phán quyết và xác định: trong những trường
hợp như vậy, người có nghĩa vụ chứng minh là những người bị kiện.
Nếu muốn bảo vệ mình và không phải chịu trách nhiệm bồi thường thì họ có
nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi. Năm 1998, ở Đức có một vụ việc
là: gà mắc bệnh nhưng vẫn được đưa ra bán trên thị trường mặc dù số gà
này đã được tiêm chủng nhưng vẫn bị mắc bệnh. Người ta suy đoán có thể
do thuốc tiêm không bảo đảm vệ sinh nên dù tiêm thuốc rồi gà vẫn không
miễn được dịch. Từ những thực tế như vậy, người ta thấy rằng để bắt
người sử dụng chứng minh việc nhà sản xuất có lỗi trong việc sản
xuất thuốc khiến gà vẫn bị dịch là khó khăn, cho nên, thay vì yêu cầu
người sử dụng chứng minh thì toà án yêu cầu người bị kiện phải chứng
minh. Nếu họ không thể chứng minh là mình không có lỗi thì họ sẽ phải
chịu trách nhiệm.
Các nghĩa vụ thông thường của người sản xuất bao gồm:
- Liên quan đến cấu trúc của vật: phải thiết kế sản phẩm có cấu trúc đáp ứng yêu cầu về an toàn;
- Nghĩa vụ theo dõi quá trình sản xuất: không được sản xuất ra sản phẩm có lỗi;
- Nghĩa vụ hướng dẫn người tiêu dùng: cung cấp thông tin chính xác, trung thực cho người tiêu dùng
- Nghĩa vụ theo dõi sản phẩm khi đưa ra thị trường:
nếu thấy có vấn đề gì phải xử lý kịp thời, ví dụ cảnh báo người tiêu
dùng, thu sản phẩm về….
Ngoài nhà sản xuất chịu trách nhiệm, người cung cấp
một phần cấu thành sản phẩm cũng phải chịu trách nhiệm đối với sản
phẩm của họ.
Như vậy, việc người sản xuất phải chịu trách nhiệm
không phụ thuộc vào lỗi của nhà sản xuất mà là phụ thuộc vào lỗi của
sản phẩm khi đưa ra thị trường. Tuy nhiên, liên quan đến việc gây
thiệt hại đối với quyền sở hữu đồ vật thì cần phải có yếu tố lỗi của
người sản xuất khi làm ra vật, vật phải được sử dụng và thiệt hại là do
sản phẩm có khuyết tật gây ra.
Người sản xuất có thể được miễn trách nhiệm trong
một số trường hợp, ví dụ như: vào thời điểm đưa sản phẩm vào thị trường,
với trình độ khoa học, kỹ thuật hiện tại lúc đó chưa thể xác định
được thiệt hại có thể xảy ra (gọi là lỗi rủi ro phát triển), tuy nhiên
việc miễn trách nhiệm này không áp dụng cho lĩnh vực thuốc tân dược;
hoặc là sản phẩm bị khuyết tật phát sinh trong quá trình vận chuyển
hoặc trong quá trình sử dụng của người sử dụng… Trong quá trình vận
chuyển, nếu có hợp đồng giữa nhà sản xuất và người vận chuyển thì sẽ
căn cứ theo hợp đồng để bồi thường. Còn nếu không có hợp đồng thì
lại áp dụng theo Điều 823 để xác định lỗi hay không.
Theo quy định của Luật trách nhiệm sản phẩm của Đức
thì đối với các thiệt hại về vật, người bị thiệt hại chỉ được kiện
khi bị thiệt hại từ 500 euro trở lên. Do đó, có thể thấy quy định về
trách nhiệm sản phẩm trong Luật này không có ý nghĩa lớn so với trách
nhiệm chung do vi phạm nghĩa vụ ở BLDS.
Về phạm vi trách nhiệm: trong trường hợp có người
chết do sản phẩm có khuyết tật gây ra thì việc bồi thường bao gồm các
chi phí như: chi phí chữa chạy, ma chay, giảm sút thu nhập, tiền đau
thương… Nếu bị thiệt hại về người do sản phẩm khuyết tật gây ra thì
nhà sản xuất chỉ phải chịu trách nhiệm tối đa là 85 triệu euro, điều
này giúp cho nhà sản xuất hạch toán trước được các rủi ro có thể xảy
ra, hạn chế các trường hợp phá sản. Đây là quy định bắt buộc, không ai
có thể thoả thuận với người tiêu dùng là miễn trách nhiệm cho người
sản xuất.
Như vậy, nếu so sánh các quy định chung về trách
nhiệm bồi thường trong BLDS và các quy định về trách nhiệm do sản
phẩm gây ra theo Luật trách nhiệm sản phẩm thì các quy định chung có
những ưu điểm sau đây:
- Người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường đối
với bất kỳ thiệt hại nào, không phụ thuộc vào giá trị thiệt hại (ngay cả
đối với thiệt hại có giá trị dưới 500euro).
- Đồ vật có khuyết tật không nhất thiết phải sử
dụng cho mục đích cá nhân của người đó (có thể mua để cho người khác
sử dụng, cho cả mục đích kinh doanh…).
- Không có mức bồi thường tối đa (căn cứ vào thiệt hại thực tế xảy ra để tính mức bồi thường).
Tuy nhiên, nếu áp dụng theo các quy định chung về
trách nhiệm bồi thường thì điểm bất lợi của nó là người yêu cầu bồi
thường cần phải chứng minh yếu tố lỗi của người gây thiệt hại.
Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét