Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh


Theo Điều 95 BLHS thì “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Thực chất, trước đây tội danh này là tình tiết định khung hình phạt giảm nhẹ của tội giết người (khoản 3 Điều 101 BLHS 1985), nay được tách ra thành Điều 95 BLHS 1999.

Phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Vậy thế nào là trái pháp luật nghiêm trọng? Vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng trái pháp luật nghiêm trọng là việc nạn nhân đã thực hiện những hành vi mà những hành vi đó đã thỏa mãn các yếu tố để cấu thành một tội phạm hình sự. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này và cho rằng, ngoài ra hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân không chỉ trong lĩnh vực pháp luật hình sự mà rộng hơn còn có thể trái pháp luật trong lĩnh vực pháp luật khác. Ví dụ như nợ nhưng cố tình dây dưa không trả, còn thách đố, các hành vi thường xuyên chèn ép, hành hạ, ngược đãi…

Tuy nhiên, theo điều luật thì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải trực tiếp với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Người thân thích của người phạm tội là cha, mẹ, vợ, con, ông, bà, anh chị em ruột. Trong thực tiễn, cũng có những trường hợp mặc dù không phải là người thân thích, nhưng nếu người phạm tội thấy nạn nhân có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của người đó với người khác mà thực hiện hành vi phạm tội thì có được coi là trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không?
Ví dụ: đánh đập dã man trẻ em, phụ nữ? Căn cứ vào quy định của Điều 95 BLHS thì không phải là bị kích động mạnh và đương nhiên là người phạm tội không “được hưởng” điều luật này mà phải chịu hình phạt của Điều 93 BLHS. Vấn đề này chúng tôi nêu ra để suy nghĩ và theo quan điểm của chúng tôi thì có lẽ cần bổ sung vào Điều 95 BLHS tình tiết hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân không chỉ đối với người phạm tội, người thân thích của người phạm tội và đối với cả người khác thì phù hợp hơn với đạo lý “ra đường thấy việc bất bình chẳng tha”.

 Nguồn: Cổng thông tin điện tử TANDTC

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NAM–MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý


Tại Việt Nam, vàng luôn là một tài sản tích trữ được ưa chuộng, thậm chí có những giai đoạn, vàng không chỉ còn là phương tiện tích trữ giá trị mà còn đóng vai trò là tiền tệ; giá vàng có lúc đã là một chỉ số ảnh hưởng đến giá cả các loại hàng hóa trong nền kinh tế. Chính vì vậy, các hoạt động kinh doanh vàng tại Việt Nam đã sớm được đưa vào quản lý.
Cùng với các chính sách đổi mới nền kinh tế, ngay từ những năm 90 của thế kỉ XX, các văn bản pháp lý quy định cụ thể về vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đối với vàng với tư cách là tiền tệ, hay các văn bản quy định các hoạt động huy động và sử dụng vốn bằng vàng, các hoạt động kinh doanh vàng tài khoản đã lần lượt ra đời.
Về cơ bản, các văn bản điều tiết hoạt động kinh doanh vàng được ban hành bước đầu đã tạo lập được hành lang pháp lý cho hoạt động của thị trường vàng. Tuy nhiên, khuôn khổ này chỉ tỏ ra phù hợp với thị trường “không có sóng” của những năm 2000 – 2005, khi giá vàng trong nước tuy có tăng nhưng không có nhiều chênh lệch so với giá vàng thế giới và các hình thức đầu tư kinh doanh vàng chưa được phép thực hiện. Bước sang năm 2006, xu hướng gia tăng mạnh liên tiếp của giá vàng thế giới cộng hưởng với việc cho phép được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản với các điều kiện tương đối dễ dãi trong bối cảnh diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước bắt đầu bộc lộ nhiều bất ổn đã làm nhu cầu tích trữ, đầu cơ vàng gia tăng đột biến. Giá vàng trong nước thay đổi khó kiểm soát và luôn có một khoảng cách lớn tương đối so với giá vàng thế giới mà đỉnh điểm rơi vào năm 2009. Ðến lúc này, khuôn khổ pháp lý điều tiết hoạt động kinh doanh vàng mới tỏ ra là không còn thích hợp, đặc biệt là trong việc giám sát và can thiệp thị trường. Sự yếu kém của khuôn khổ pháp lý điều tiết đã dẫn đến kết quả là từ năm 2009, thị trường vàng đã rơi vào tình trạng bất ổn, các hoạt động xuất, nhập khẩu vàng lậu và việc sử dụng đòn bẩy tài chính trong hoạt động kinh doanh vàng là khó kiểm soát,… Ðiều đó, đã có ảnh hưởng nhất định đến mục tiêu phát triển kinh tế ổn định nói chung, các mục tiêu điều hành và thực thi chính sách tiền tệ của NHNN nói riêng. Chính vì vậy, bước sang năm 2010, bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã tiến hành xây dựng khuôn khổ pháp lý quản lý, điều tiết hoạt động kinh doanh vàng. Và đến ngày 03/4/2012, Nghị định số 24/2012/NÐ-CP của Chính phủ về việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 24) đã được ban hành.
Nghị định 24 ra đời đã khắc phục được những lỗ hổng pháp lý của giai đoạn trước,tạo cơ sở pháp lý để tổ chức lại thị trường vàng theo hướng phát triển ổn định và bền vững, tăng cường quản lý đối với thị trường vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Nếu như trước đây, Việt Nam chưa có quy định về chức năng quản lý tập trung các hoạt động kinh doanh, đầu tư vàng theo nghĩa là hàng – tiền trong nền kinh tế (Nghị định 174/1999/NÐ-CP ngày 09/12/1999 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng mới chỉ quy định chức năng, nhiệm vụ của NHNN trong quản lý hoạt động kinh doanh vàng là chủ yếu nhằm hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ như xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh vàng trang sức sẽ thực hiện theo Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp) thì Nghị định 24 hiện đã quy định NHNN là cơ quan quản lý tập trung các hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng:
- Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất – nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, NHNN sẽ tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời điểm sản xuất và phương thức thực hiện sản xuất vàng miếng phù hợp trong từng thời kỳ.
- Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được NHNN cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.
- Tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng khác sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép và được NHNN cấp Giấy phép.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Quyết định 1623/QÐ-NHNN ngày 23/8/2012 về việc tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng của NHNN đã chính thức thiết lập tiêu chuẩn cho chất lượng vàng miếng tại Việt Nam. Theo đó, NHNN sẽ tổ chức sản xuất vàng miếng căn cứ vào mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và cung cầu vàng miếng trên thị trường, giao SJC gia công vàng miếng cho NHNN: SJC chỉ được gia công vàng miếng SJC 99,99% cho NHNN theo chỉ đạo của NHNN về hạn mức, thời điểm sản xuất và nguồn vàng nguyên liệu để tổ chức sản xuất vàng miếng và dưới sự quản lý, giám sát chặt chẽ của NHNN.
Từ khi Nghị định 24 ra đời, nhìn chung, diễn biến giá vàng trong nước đã ổn định hơn, hiện tượng buôn lậu, đầu cơ tích trữ vàng đã phần nào được hạn chế. Tuy nhiên, giá vàng trong nước vẫn chịu tác động mạnh của yếu tố tâm lý thị trường nên vẫn còn xảy ra hiện tượng giá vàng trong nước tăng đột biến vào một số thời điểm, đặc biệt khi giá vàng thế giới tăng mạnh vào trung tuần tháng 9/2012 hay khi xuất hiện một số thông tin đồn đoán về hệ thống ngân hàng vào thời điểm cuối tháng 8/2012,… Nhưng quan sát thực tế cho thấy, mặc dù không cần đến những can thiệp từ phía NHNN theo tiền lệ (ví dụ như việc cho phép nhập khẩu vàng để cân đối cung cầu) thì biến động của giá vàng vào thời điểm này đã không còn quá nóng và thị trường đã bắt đầu có khả năng điều chỉnh thích ứng; đồng thời, hiện tượng giá vàng biến động gây sức ép lên tỷ giá như đã xảy ra vào các năm trước đây cũng đã không lặp lại. Và đây được xem là tín hiệu tích cực bước đầu của công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. (Biểu đồ 1)
Biểu đồ 1:
clip_image002
Mặc dù vậy, trong thực tế điều hành, vẫn còn một số tồn tại mà khuôn khổ pháp lý mới được ban hành chưa thể giải quyết được hết, chẳng hạn như hiện tượng chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới ở mức cao – hiện phổ biến khoảng 2,5 đến 3 triệu đồng/lượng (chủ yếu là do Việt Nam là nước nhập khẩu vàng lớn); hoạt động kinh doanh vàng tài khoản chui (do các quy định liên quan đến hoạt động này vẫn chưa được bao quát đầy đủ trong Nghị định 24); hoạt động đầu cơ bằng vàng vật chất (do chưa có sự tách bạch giữa hoạt động kinh doanh vàng vật chất và vàng phi vật chất),… Một số vấn đề tồn tại trên của thị trường vàng trong nước khó có thể được giải quyết trong một sớm một chiều, nhưng để đảm bảo được tính thông suốt và lành mạnh của thị trường, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và diễn biến kinh tế thế giới còn nhiều phức tạp, thì công tác quản lý thị trường vàng cần thiết phải được rà soát, bổ sung, chỉnh sửa thường xuyên đảm bảo đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn theo hướng:
Thứ nhất: Phát triển lành mạnh thị trường vàng, cần đảm bảo sự thông suốt trong phạm vi nền kinh tế và liên thông với thị trường quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, một thị trường phát triển lành mạnh không có nghĩa để thị trường phát triển tự do, nhưng cũng không thể chỉ bằng các giải pháp hành chính, nhất là trong bối cảnh hội nhập. Việc phát triển thị trường vàng cần phải có lộ trình với những bước mở từ từ và thận trọng, phù hợp với trình độ phát triển của thị trường tài chính trong nước. Việc điều tiết các chủ thể tham gia thị trường phải được thực hiện thông qua các công cụ và hàng rào kỹ thuật,… để phát huy được sự đóng góp của thị trường vàng vào kết quả chung của nền kinh tế. Theo đó, những bước đi của Trung Quốc là những kinh nghiệm tham khảo hữu ích cho vấn đề này.
Trung Quốc là quốc gia đứng thứ hai thế giới về quy mô tiêu dùng vàng và là một trong những nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới. Mặc dù tâm lý ưa chuộng tích trữ vàng trong dân cư tại Trung Quốc không mạnh như tại Ấn Ðộ (do trong quá khứ, việc sở hữu vàng tư nhân trước năm 1979 tại Trung Quốc bị coi là bất hợp pháp), nhưng công tác quản lý thị trường vàng luôn được chú trọng tại Trung Quốc. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) luôn là cơ quan đại diện Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý thị trường vàng (theo Ðiều lệ quản lý vàng và Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, PBOC phụ trách quản lý dự trữ vàng quốc gia (thuộc tài khoản dự trữ ngoại hối), phê chuẩn các hoạt động sản xuất, kinh doanh bao gồm gia công, tiêu thụ các sản phẩm vàng, các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng vàng, quản lý và kiểm tra thị trường vàng, giám sát thực thi Ðiều lệ quản lý vàng). (Biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Tiến trình cải cách thị trường vàng Trung Quốc
clip_image004
Thứ hai: Các công cụ, các loại hình hoạt động trên thị trường vàng cần có lộ trình phát triển từng bước, phù hợp với điều kiện và trình độ quản lý cụ thể của đất nước, đặc biệt là cần có sự tách bạch giữa hoạt động kinh doanh vàng vật chất và phi vật chất. Cần tránh lặp lại bài học trong quá khứ khi Việt Nam cho phép các sàn giao dịch vàng, các sản phẩm vàng phi vật chất như kinh doanh vàng trên tài khoản ra đời trong khi thực tiễn phát triển của Việt Nam chưa đáp ứng được (về cơ chế giám sát, kiến thức chuyên môn của các nhà đầu tư).
Kinh nghiệm điều tiết hoạt động kinh doanh vàng tại Trung Quốc và Ấn Ðộ – hai quốc gia có nhiều nét tương đồng với thị trường vàng Việt Nam cho thấy, trong quá trình phát triển thị trường vàng, các vấn đề liên quan đến giao dịch vàng vật chất được ưu tiên xử lý trước các vấn đề liên quan đến giao dịch các sản phẩm vàng phi vật chất. Các sản phẩm lưu hành trên thị trường vàng cần được phát triển từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với trình độ phát triển của thị trường và kiến thức của nhà đầu tư. Kinh nghiệm nghiên cứu chỉ ra rằng, trước tiên cần ưu tiên phát triển các sản phẩm kinh doanh vàng vật chất trước các sản phẩm vàng tài chính với các hình thức đơn giản ban đầu là các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,… rồi sau đó, mới phát triển các hình thức kinh doanh vàng tài khoản với các sản phẩm vàng phái sinh,… Chúng tôi cho rằng, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của Ấn Ðộ trong việc tập trung phát triển các sản phẩm để có thể huy động được tối đa lượng vàng trong nền kinh tế trong giai đoạn quản lý tập trung các hoạt động đầu tư, kinh doanh vàng hiện nay.
Thứ ba: Tạo lập được khuôn khổ pháp lý quy định chặt chẽ về hoạt động kinh doanh vàng tài khoản, kinh doanh vàng phi vật chất. Xem xét luật hóa một cách cụ thể hình thức, phạm vi, đối tượng được phép giao dịch của hoạt động này để tạo kênh "liên thông" hẹp, được kiểm soát chặt nhưng linh hoạt giữa thị trường vàng trong nước và thị trường vàng quốc tế. Ðồng thời, Nhà nước cần sử dụng công cụ thuế, bao gồm thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt để điều tiết, hạn chế việc đầu cơ vàng.
Kinh nghiệm Trung Quốc đã luôn đảm bảo khả năng quản lý chặt chẽ đối với các giao dịch vàng phi vật chất với các điều kiện cho phép giao dịch chặt chẽ, cụ thể như:
- Các tổ chức tham gia giao dịch phải được sự cho phép của PBOC. Các giao dịch này được thực hiện thống nhất tại hai trung tâm là SGE (PBOC quản lý) và SFE (do CSRC quản lý) và phải tuân thủ theo các nguyên tắc giao dịch tại hai trung tâm này. Ngoài ra, các giao dịch của các ngân hàng thương mại còn phải được báo cáo chi tiết lên Ủy ban giám sát Ngân hàng (CBRC). Ðể được phép tham gia giao dịch tại hai trung tâm giao dịch, các tổ chức phải đáp ứng được các tiêu chuẩn nhất định và phải được sự chấp thuận của PBOC. Do đó, bản thân các tiêu chuẩn này đã là một rào cản quan trọng nhằm đảm bảo vai trò quản lý của PBOC cũng như hạn chế rủi ro cho các tổ chức tham gia.
- Ðòn bẩy tài chính hầu như không được sử dụng trong các giao dịch trên SGE. Ðể tiến hành giao dịch, bên mua phải có một tài khoản thanh toán đặc biệt tại một trong bốn ngân hàng thanh toán do SGE quy định và bên bán phải có vàng giữ tại kho của SGE. Ngay khi một thành viên đặt lệnh mua, SGE tiến hành phong tỏa tài khoản thanh toán của thành viên này và ngay khi một thành viên đặt lệnh bán, SGE cũng tiến hành phong tỏa lượng vàng tương đương của tổ chức này đang lưu trữ tại kho của SGE để đảm bảo cho giao dịch được thực hiện. Mặc dù các tổ chức, thậm chí là các nhà đầu tư cá nhân đã được mở các tài khoản để giao dịch vàng đầu tư, nhưng việc quy định phong tỏa 100% giá trị giao dịch như vậy khiến cho hoạt động đầu tư vàng (theo đúng nghĩa tài khoản đầu tư vàng: nhà đầu tư chỉ ký quỹ một số % nhất định là có thể tiến hành giao dịch như thông lệ quốc tế) thực chất là vẫn chưa được phép tiến hành tại Trung Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh vàng theo chức năng Ngân hàng Trung ương”, Mã số: KNH 2009-01, (2010) ThS. Nguyễn Vân Anh.
2. “Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng ở Trung Quốc và Ấn Độ”, Viện Chiến lược Ngân hàng.
3. “Thị trường vàng tiếp tục biến động phức tạp”, 06/04/2006, vietbao.vn
4. “Vai trò của vàng và ngoại tệ trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam”, (2006), Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội.

Nguồn: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 18/2012

Cấm cười - Cấm nghĩ bậy

‎''Một chàng trai hỏi một cô gái trong thư viện: "Bạn có phiền không nếu tôi ngồi cạnh bạn"? 

Bỗng, cô gái trả lời rất to: "KHÔNG! KHÔNG! TÔI KHÔNG MUỐN QUA ĐÊM VỚI BẠN".. Tất cả các sinh viên trong thư viện đều nhìn chằm chằm vào anh ta, và anh cảm thấy rất xấu hổ. 

Sau một hồi lâu, cô gái bước nhẹ nhàng đến bàn của

 chàng trai và nói: "Tôi học Tâm lý học và tôi có thể nhìn xuyên thấu những suy nghĩ của một người đàn ông, tôi đoán bạn đang rất xấu hổ?"

Anh chàng trả lời rất to: "CÔ MÀ ĐÒI ĐẾN 200$ CHO MỘT ĐÊM À!? QUÁ ĐẮT!!!" ...

Và tất cả những ánh mắt trong thư viện lúc này đổ dồn về hướng cô gái đang bị sốc. Sau đó anh chàng thì thầm vào tai cô gái: "Tôi học Luật và tôi luôn biết cách làm cho ai đó đang thắng trở thành bại & ngược lại.."

Dứt lời, anh bước đi ra khỏi cửa...''

...

(Sưu tầm)

Kỹ năng hỏi của luật sư tại phiên toà hành chính


Khởi kiện vụ án hành chính là một phương thức mới được áp dụng ở nước ta chỉ trong khoảng thời gian gần 10 năm trở lại đây. Đây là một bước phát triển đáng khích lệ nhằm tạo điều kiện cho người dân, cơ quan, tổ chức có thêm sự lựa chọn cơ quan tiến hành giải quyết vụ việc hành chính nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch của pháp luật, đồng thời nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp và chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ.
Trong tố tụng hành chính dự kiến kế hoạch hỏi không chỉ đơn thuần giúp cho Luật sư có được vị thế chủ động trong phiên toà, mà còn giúp Luật sư có thể làm rõ hơn nội dung của vụ án qua việc hỏi.
Để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ,Luật sư cần xây dựng và dự kiến kế hoạch xét hỏi một cách cẩn thận, phải biết lựa chọn đối tượng hỏi, nội dung hỏi, phương pháp hỏi… Kế hoạch hỏi không chỉ thể hiện trình độ, kinh nghịêm của luật sư mà còn thể hiện các kĩ năng của Luật sư khi nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Trong số những công việc mà luật sư cần chuẩn bị trước phiên toà thì xây dựng kế hoạch xét hỏi là một công việc vô cùng quan trọng, đánh giá sự thành công hay thất bại của Luật sư trước phiên toà. Kỹ năng hỏi tại phiên toà hành chính của luật sư là vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về kỹ năng hỏi của luật sư trong phiên tòa sơ thẩm giải quyết các vụ án hành chính là rất cần thiết đối với những người làm nghề luật sư nói chung và những luật sư chọn hướng đi chủ yếu liên quan đến giải quyết các vụ án hành chính nói riêng. Bản thân tôi cũng muốn được nghiên cứu sâu về vấn đề này nên xin chọn đề tài “kỹ năng hỏi của luật sư tại phiên toà hành chính”  để trình bày những gì đã được lĩnh hội trong quá trình học tập nghiên cứu.

I. KHÁI QUÁT CHUNG CÁC ĐẶC THÙ CỦA VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI KỸ NĂNG VÀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ
A.Về đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính đã được quy định cụ thể tại điều 28 Luật tố tụng hành chính như sau:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh”.
Như vậy, tranh chấp cần được giải quyết trong các vụ án hành chính là quyết định hành chính, hành vi hành chính được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực quản lý nhà nước.
B. Một trong những đặc điểm nổi bật của thủ tục tố tụng hành chính là người khởi kiện là cá nhân có thể kiện cơ quan nhà nước hoặc cá nhân đã ra quyết định hành chính hoặc đã có hành vi hành chính trái pháp luật. Đối với một vụ án hành chính, hai bên chủ thể tranh chấp là chủ thể mang tính đặc thù của quan hệ hành chính. Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc cán bộ, công chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính như kỷ luật buộc thôi việc, nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Người bị kiện là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện. Thực chất chủ thể này không hề giống với chủ thể trong các vụ án hình sự, khi một bên là nhà nước đứng ra buộc tội đối với bị cáo, cũng không giống như những vụ án phi hình sự khác với tư cách ngang bằng của các bên.
C. Trước đây, giai đoạn tiền tố tụng là một giai đoạn bắt buộc trong việc xác định điều kiện để khởi kiện và thụ lý cũng như đánh giá về các sự việc liên quan trong việc giải quyết một vụ án hành chính. Theo Điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính: “Trước khi khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.” Theo quy định tại điều 103 Luật tố tụng hành chính thì cá nhân, cơ quan tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỉ luật buộc thôi việc mà không cần phải trải qua giai đoạn tiền tố tụng như trước đây. Đây là một điểm mới trong quy định của pháp luật, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính tại toà của mình.
D.Về thời hiệu khiếu nại, khởi kiện cũng như thời hạn để tòa án thụ lý giải quyết vụ việc tương đối ngắn.
Từ những phân tích trên có thể thấy sự đặc biệt trong việc giải quyết vụ án hành chính cũng như vai trò luật sư tham gia tranh tụng trong vụ án hành chính là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên sự thành công trong việc bảo vệ thân chủ của luật sư sẽ đạt được chỉ khi luật sư có những chuẩn bị tốt, thuần thục những kỹ năng tham gia tranh tụng ở cả giai đoạn trước và khi tham gia phiên tòa xét xử.
II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CẦN THIẾT, PHỤC VỤ KỸ NĂNG HỎI CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA HÀNH CHÍNH:
Xét xử tại phiên toà sơ thẩm là giai đoạn quan trọng nhất, là khâu then chốt trong quá trình làm nhiệm vụ của Luật sư. Đây là khâu kết tinh các công sức của Luật sư từ việc chuẩn bị, tìm tòi các chứng cứ có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ đến việc đứng ra bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho họ một cách công khai. Kết quả của việc bảo vệ quyền lợi cho khách hàng sẽ được ghi nhận ở giai đoạn này. Vì vậy, Luật sư phải chuẩn bị thật tốt những công việc sau trước khi ra phiên toà.
  1. 1. Điều tra, xác minh và thu thập chứng cứ:
Quá trình nghiên cứu và sử dụng chứng cứ là một quá trình rất quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị. Công việc này được tiến hành không chỉ khi thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ mà luật sư cần từng bước xem xét, từ sơ bộ đến kỹ lưỡng các loại tài liệu trong hồ sơ. Việc nghiên cứu chứng cứ một  cách kỹ lưỡng giúp luật sư hệ thống được các tài liệu, sắp xếp chúng theo những tiêu chí nhất định nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi nhất cho luật sư trong quá trình bảo vệ khách hàng tại phiên tòa. Việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ của luật sư là tổng thể các hoạt động tham gia tố tụng của luật sư nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án qua đó xác lập các căn cứ cần thiết, khách quan trong việc đưa ra các đề xuất giải quyết đúng đắn vụ án hành chính.
Mục đích của việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ là giúp luật sư làm rõ sự thật khách quan, diến biến các tình tiết của vụ án. Trường hợp luật sư được mời tham gia sau khi vụ án đã được tòa án thụ lý, các công việc này, kết hợp vối một loạt các hoạt động khác, sẽ giúp luật sư hệ thống từ đầu các tình tiết liên quan cũng như điều tra và thu thập thêm được những chứng cứ cần thiết. Đối với các luật sư tham gia giúp đỡ khách ngay từ khi trước khi khởi kiện, những công việc này vẫn rất cần thiết vì nó là sự bổ sung chứng cứ cho luật sư trong giải quyết vụ việc, củng cố các tài liệu, lý lẽ để đạt được hiệu quả tham gia tốt nhất tại phiên tòa. Các hoạt động này thực sự thiết yếu, đảm bảo chất lượng tham gia của luật sư trong cả quá trình tố tụng nói chung cũng như trong phiên tòa xét xử vụ án nói riêng.
  1. 2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính:
Việc nghiên cứu hồ sơ là một quá trình rất quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị phiên tòa xét xử. Công việc này được tiến hành không chỉ khi thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ mà luật sư cần từng bước xem xét, từ sơ bộ đến kỹ lưỡng các loại tài liệu trong hồ sơ. Việc nghiên cứu hồ sơ một cách kỹ lưỡng tổng thể khi đã thu thập đầy đủ các tài liệu cần thiết giúp luật sư hệ thống được các tài liệu, sắp xếp chúng theo những tiêu chí nhất định nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi nhất cho luật sư trong quá trình bảo vệ khách hàng tại phiên tòa. Luật sư phải có những kỹ năng cần thiết như vừa đọc và vừa phải ghi lại những kết quả thu thập được vào tờ cứu. Trên cơ sở đó chọn ra những căn cứ bảo đảm cho tính hợp pháp và tính bất hợp pháp của người khởi kiện để phục vụ cho yêu cầu hợp pháp của người khởi kiện Hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, luật sư có thể phát hiện các thiếu sót để bổ sung kịp thời đảm bảo có lợi nhất cho thân chủ của mình.
Luật sư trong quá trình nghiên cứu hồ sơ phải có sự nhận định, đánh giá bước đầu về diễn biến vụ án, xác định tính đúng sai và ý nghĩa của các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đồng thời phát hiện những ưu, khuyết điểm, sai phậm của các hoạt động tố tụng trong giai đoạn trước (nếu có)
Việc đánh giá chứng cứ một cách toàn diện và đầy đủ thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử song trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, luật sư cần có những đánh giá bước đầu nhằm có được những nhận xét, kết luận nhất định, tạo tiền đề, định hướng cho những phương án bảo vệ thân chủ của mình. tạo cơ sở cho việc xây dựng luận cứ bảo vệ có đầy đủ những căn cứ, lập luận xác đáng mang tính thuyết phục cao để bảo vệ cho thân chủ của mình.
  1. 3. Lập đề cương bản hỏi, chuẩn bị bài luận cứ bảo vệ và các văn bản, tài liệu  sử dụng tại phiên tòa hành chính sơ thẩm:
A .Lập đề cương bản hỏi:
Trước khi ra phiên toà, Luật sư phải dự kiến kế hoạch xét hỏi. Việc xây dựng kế hoạch xét hỏi giúp Luật sư hỏi có trọng tâm, xác định được những vấn đề cần làm rõ, không bỏ sót, không có những câu hỏi thừa hoặc vô nghĩa, không bị lúng túng trước sự trả lời của người bị hỏi. Tuỳ vào nội dung vụ án, các tình tiết được thể hiện trong hồ sơ, Luật sư dự kiến những người cần xét hỏi, thứ tự xét hỏi hỏi ai trước, ai sau; Dự kiến cách đặt câu hỏi; Nhất thiết những câu hỏi phải làm rõ các tình tiết của vụ án sao cho có lợi cho người mình bảo vệ. Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và không làm cho người được hỏi hiểu theo nhiều nghĩa. Tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung, dài dòng hoặc không rõ đó là câu hỏi hay câu giải thích, vì hỏi như thế sẽ làm cho người bị hỏi không biết phải trả lời như thế nào. Nếu muốn yêu cầu người bị hỏi giải thích một số điểm trong lời khai đã khai tại cơ quan điều tra của họ, Luật sư chuẩn bị sẵn lời khai này, đánh dấu những điểm cần hỏi để luôn luôn chủ động khi xét hỏi.
Trong phần xét hỏi, luật sư cần chú ý xây dựng trước hệ thống các câu hỏi nhằm làm rõ thêm tính chất của vụ việc theo hướng bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình tại phiên tòa. Các câu hỏi cần tập trung vào những vấn đề có lợi nhất cho việc bảo vệ khách hàng hơn nữa luật sư cần chuẩn bị cả những tình huống thay đổi có thể xảy ra để có được những câu hỏi phù hợp diễn biến phiên tòa, ghi chép và tận dụng những câu trả lời của đối phương nếu thấy có lợi cho thân chủ của mình để chuẩn bị lấy đó làm lợi thế cho phần hỏi, đảm bảo có thể bảo vệ tốt nhất cho thân chủ.
B. Lập đề cương bản luận cứ bảo vệ:
Khi lập đề cương luận cứ bảo vệ cho đương sự, luật sư cần thể hiện được các nội dung chính mà mình sẽ đề cập đến trong phần tranh luận về vụ việc. Trong trường hợp này, không chỉ chuẩn bị luận điểm về diễn biến sự việc, tính hợp pháp, tính có căn cứ hay không của các quyết định, hành vi hành chính bị kiện,đưa ra các yêu cầu, luật sư cũng cần lường trước được các tình huống thay đổi tại phiên tòa để tránh bị bất ngờ tại phiên tòa gây ra hậu quả bất lợi cho khách hàng.
C. Lập đề cương các văn bản liên quan đến quá trình tố tụng:
Để có thể đảm bảo tốt nhất kết quả tại phiên tòa cũng như đảm bảo được đầy đủ hồ sơ tố tụng, Căn cứ vào nội dung vụ án và đề cương luận cứ đã viết, Luật sư chuẩn bị các tài liệu có liên quan để viện dẫn tại phiên toà…. Luật sư cũng cần đọc kỹ các văn bản, tài liệu này, đánh dấu những đoạn cần viện dẫn trích đọc để khi cần thì có thể sử dụng được ngay mà không phải mất thời gian tìm kiếm.
III. KỸ NĂNG THAM GIA XÉT HỎI TRONG PHIÊN TÒA:
Xét xử tại phiên toà sơ thẩm là giai đoạn quan trọng, kết quả của việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự sẽ được ghi nhận chủ yếu ở giai đoạn này. Các kỹ năng và ứng dụng trong quá trình hỏi tại phiên tòa hành chính là điều cần thiết đối với các luật sư tham gia trong vụ án. Có nắm vững các kỹ năng thì luật sư mới có thể ứng dụng được linh hoạt và mềm dẻo vào các tình huống trong quá trình hỏi để có thể bảo vệ được tốt nhất cho thân chủ mà mình đại diện.
1. khái niệm hỏi và sự tham gia của luật sư trong xét hỏi:
a.Khái niệm:
Xét hỏi tại phiên tòa hành chính là một hành vi tố tụng quan trọng, được thực hiện tại phiên toà nhằm phát hiện, củng cố và kiểm tra các chứng cứ có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng vụ án. Xuất phát từ yêu cầu xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ. Khác với các Toà án thường, khi xét xử về dân sự thì xác định các quyền dân sự của công dân; khi xét xử về hình sự thì xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo. Toà án hành chính không làm những việc đó, mà chỉ phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước hoặc nhân viên nhà nước dựa trên việc xem xét thẩm định đánh giá hồ sơ, chứng cứ. Do đó, việc xét hỏi đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người này, người làm chứng, người giám định ngay tại phiên toà là thủ tục cần thiết và luôn luôn có vị trí quan trọng trong quá trình xét xử vụ án. Điều 46, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định thủ tục xét hỏi tại phiên toà. Thủ tục này cho phép việc xét hỏi được thuận tiện, khách quan và khoa học. Đối với người được hỏi thì ngoài cơ hội cung cấp trực tiếp cho hội đồng xét xử những chứng cứ có ý nghĩa để giải quyết đúng đắn vụ án, đây còn là dịp để họ trình bày ý kiến, bảo vệ những lợi ích thiết thực của mình hoặc của những người mà mình quan tâm.
b. Luật sư tham gia xét hỏi:
Giai đoạn xét hỏi tại phiên toà là giai đoạn điều tra công khai có sự tham gia của tất cả những người tham gia tố tụng. Trong giai đoạn này các chứng cứ được lần lượt công bố, phân tích, so sánh, nghiên cứu và tự thân nó bộc lộ giá trị chứng minh của chúng.
Luật sư cần phải có mặt tại phiên toà trong suốt thời gian xét xử, trừ trường hợp đặc biệt. Luật sư cần phải chú ý theo dõi quá trình Hội đồng xét xử tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên toà.
Về mặt thủ tục, Luật sư có quyền được đặt các câu hỏi để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình bằng cách thông qua các câu trả lời để khẳng định công khai những vấn đề cần phải làm sáng tỏ trong vụ án.
2. Những nguyên tắc khi tham gia xét hỏi của Luật sư:
Trong giai đoạn xét hỏi, Luật sư phải nắm được trình tự tham gia xét hỏi, theo dõi những nội dung mà những người tiến hành tố tụng đã hỏi trước đó để xác định mình cần hỏi thêm những gì. Nguyên tắc chung, Luật sư hỏi về những vấn đề cần thiết mà những người xét hỏi trước đó chưa hỏi đến hoặc hỏi chưa rõ để làm lợi cho thân chủ của mình.
a. Ghi chép diễn biến của phiên toà
Khi theo dõi thủ tục xét hỏi tại phiên toà, Luật sư cần phải ghi chép đầy đủ lời trình bày của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện của đương sự, người đại diện của tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung. Khi nghe và ghi chép, Luật sư phải hết sức nhanh nhạy để phát hiện trong các lời khai của những người được hỏi những tình tiết có lợi cho thân chủ, những tình tiết có mâu thuẫn không phù hợp với thực tế khách quan hoặc các chứng cứ khác của vụ án, những tình tiết chưa được làm rõ để điều chỉnh nội dung, kế hoạch xét hỏi đã dự kiến và chuẩn bị các câu hỏi mới đối với những người tham gia tố tụng.
Qua các lời trình bày nếu thấy có sự mâu thuẫn hoặc có những tình tiết khác mà trước đó chưa được thể hiện trong hồ sơ nếu có lợi hoặc bất lợi cho thân chủ của mình hoặc cho bất kỳ một ngươời tham gia tố tụng nào thì Luật sư cũng phải lưu ý đến điểm mới đó để có cách phản bác lại hoặc sử dụng chúng nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Việc ghi chép phải bảo đảm nguyên tắc ngắn gọn, đầy đủ và làm nổi bật được những ý chính. Đối với những tình tiết đặc biệt cần phải ghi chép riêng biệt hoặc phải nhấn mạnh để dễ lưu ý khi xem xét lại. Bản ghi chép này là tiền đề để Luật sư đặt các câu hỏi cho thân chủ của mình hoặc cho những ngươời tham gia tố tụng khác để họ tự mình khẳng định công khai trước Toà những vấn đề cần được làm rõ.
Trong quá trình ghi chép cũng cần lưu ý chú ý phân tích cả những câu hỏi và câu trả lời của Hội đồng xét xử cũng như của những người tham gia tố tụng khác. Thông qua đó Luật sư có thể nắm được một phần về quan điểm của họ để có thể điều chỉnh bản luận cứ của mình hướng vào việc làm sáng tỏ các quan điểm của Hội đồng xét xử mà Luật sư đã dự đoán theo hướng có lợi cho thân chủ của mình. Ghi chép các quá trình xét hỏi tại phiên toà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc dùng chính những quan điểm đó để làm cơ sở phản bác của mình trong trường hợp cần thiết. Nếu có điều kiện, khi ghi chép Luật sư cần sử dụng các loại mực khác nhau để dễ ghi nhớ khi xem xét lại.
Cần bổ sung kịp thời những câu hỏi cần thiết sau khi đã nghe xét hỏi (ngoài những câu hỏi đã chuẩn bị trước khi mở phiên toà).
b. Luật sư tích cực tham gia thẩm vấn tại Tòa để làm rõ các điểm có lợi của khách hàng.
Luật sư cần xác định quan hệ pháp lý giữa người khởi kiện và người bị kiện. Khi chủ tọa dành cho quyền hỏi, Luật sư phải đặt những câu hỏi sắc bén, ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ. Khi xét hỏi cần hỏi dứt khoát và xoáy sâu vào những mâu thuẫn nhằm đảm bảo có lợi cho thân chủ mình.
Khi đặt các câu hỏi Luật sư cần lưu ý chỉ nên đặt các câu hỏi đúng vào trọng tâm, ngắn gọn, dễ trả lời. Tránh đặt những câu hỏi quá dài, không đi vào trọng tâm hoặc vừa đặt câu hỏi vừa phân tích, bình luận làm lẫn lộn với phần tranh luận để Chủ toạ phiên toà phải nhắc nhở. Tuỳ từng trường hợp có thể sử dụng những loại câu hỏi thích hợp. Không bao giờ Luật sư vừa đặt các câu hỏi vừa tự mình giải thích các câu hỏi đó cũng như vừa gợi ý trả lời các câu hỏi đó. Trong những trường hợp khi các câu hỏi của Luật sư được các đương sự trả lời mà Luật sư thấy cần thiết phải nhấn mạnh thì đề nghị Hội đồng xét xử lưu ý và đề nghị thư ký phiên toà ghi nhận điều đó vào biên bản phiên toà. Những câu hỏi và câu trả lời mà Luật sư đã đặt ra và đươợc nghe trả lời trong quá trình thẩm vấn tại phiên toà đều có thể được Luật sư sử dụng để cập nhật và bổ sung cho bản luận cứ của mình. Trong trường hợp trong bản luận cứ Luật sư nhắc lại những câu trả lời của đương sự ngay tại phiên toà thì Luật sư cũng phải nhấn mạnh là điều đó đã được chính các đương sự tự mình khẳng định tại phiên toà hôm nay
c. Trợ giúp đương sự trong phần xét hỏi:
Trong phần xét hỏi này, Luật sư lưu ý đương sự (thân chủ) khi được hỏi cần phải trả lời rõ ràng, chuẩn xác đúng yêu cầu câu hỏi của chủ toạ, đặc biệt là trình bày một cách có hệ thống các ý kiến của mình có sự giải thích rõ ràng những vấn đề có liên quan đến yêu cầu khởi kiện, đến việc giải quyết vụ án. Luật sư cũng cần lưu ý thân chủ của mình khi đưa ra lời trình bày, các ý kiến, các tài liệu chứng cứ… cơ bản phải thống nhất với những ý kiến thống nhất trong các lần làm việc trước đó giữa luật sư và khách hàng.
3. Đặt câu hỏi trong phần xét hỏi tại phiên tòa:
Luật sư có quyền đặt các câu hỏi để yêu cầu thân chủ của mình hoặc những ngơười tham gia tố tụng khác trả lời cho Toà án nhằm làm rõ những tình tiết quan trọng.
a.Đặt câu hỏi với đương sự là khách hàng:
Đối với thân chủ của mình, Luật sư nên đặt ra những câu hỏi rõ ràng để họ có cơ hội trình bày, lý giải trước Hội đồng xét xử.
Đối với các câu hỏi dành cho thân chủ của mình, Luật sư không nên đặt ra Luật sư không đặt câu hỏi phức tạp , về những vấn đề hóc búa mà trước đó Luật sư chưa có điều kiện trao đổi với thân chủ. Chỉ nên đặt những câu hỏi mà trước đó Luật sư đã trao đổi với thân chủ của mình, hai bên đã thống nhất về câu hỏi và câu trả lời. Thân chủ cũng đã được thông báo trước về ý định của Luật sư khi muốn mình trả lời những câu hỏi đó. Thực tiễn hành nghề của các Luật sư cho thấy Luật sư không nên hỏi thân chủ của mình quá nhiều. Tránh tình trạng Luật sư đặt câu hỏi quá khó làm cho người được Luật sư bảo vệ không biết trả lời thế nào hoặc trả lời lại không có lợi cho họ. Tránh làm cho thân chủ mất bình tĩnh, thiếu lòng tin vào mục đích bảo vệ của luật sư.
b.Đặt câu hỏi đối với đối thủ và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác:
Căn cứ vào bản kế hoạch hỏi đã chuẩn bị và sửa đổi bổ sung ngay tại phiên tòa, luật sư đặt câu hỏi cho những người tham gia tố tụng khác nhằm mục đích bảo vệ thân chủ của mình. Để có thể đặt được những câu hỏi có hiệu quả cao, luật sư cần xác định rõ mục đích của câu hỏi mình đưa ra (mục đích: thu nhận, xác nhận thông tin, chứng minh khách hàng của mình là đúng….)
Luật sư phải đặt những câu hỏi sắc bén, ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ. Ngoài những câu hỏi trực tiếp, trong trường hợp đối tượng được hỏi chuẩn bị trước nội dung trả lời, Luật sư cần đặt ra câu hỏi từ xa, có tác dụng dẫn dắt, định hướng đến mục đích cuối cùng của việc hỏi.
c.Những điểm lưu ý, cần tránh khi tham gia đặt câu hỏi:
- Không đặt các câu hỏi có thể bị hiểu lầm.
- Không đặt các câu hỏi thiếu khiêm tốn, ngạo mạn, gây căng thẳng giữa Luật sư của hai bên, giữa hai bên với nhau, với Toà án và với Viện kiểm sát, với những người tham gia tố tụng khác.
- Không dùng những lời lẽ quá nặng nề để chỉ trích nhau công khai tại phiên tòa mà luôn luôn đặt mục tiêu trong giai đoạn xét hỏi là tìm ra các căn cứ, lý giải các căn cứ đó để làm rõ các tình tiết của vụ án.
- Nên dùng những lời lẽ nhẹ nhàng, lịch sự khi đặt câu hỏi. Ví dụ: Cho phép tôi…, Tôi đề nghị… Xin được hỏi v.v
- Dùng các thuật ngữ luật học một cách chính xác. Không sử dụng các thuật ngữ đời thường thay thế các thuật ngữ luật học. Các thuật ngữ luật học chính xác và chuẩn được xem là các thuật ngữ đã được các văn bản pháp luật sử dụng. Tuy nhiên ngôn ngữ diễn đạt phải dễ hiểu.
4. Kỹ năng đặt câu hỏi của luật sư:
a.Nguyên tắc đặt câu hỏi:
Cách đặt câu hỏi (đưa ra câu hỏi) đối với người được hỏi cũng quan trọng như nội dung câu hỏi. Nghệ thuật sử dụng câu hỏi sẽ quyết định luật sư có thành công hay thất bại trong phần xét hỏi tại phiên tòa hành chính:
  • Đưa ra những câu hỏi mở trước, tạo ra sự chủ động cho người trả được hỏi.
  • Giữ cho câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu.
  • Một câu hỏi chỉ đề cập đến một vấn đề.
  • Kiểm tra xem người nghe có hiểu đúng  nội dung câu hỏi.
  • Kiên nhẫn trong quá trình hỏi.
Trong quá trình đặt câu hỏi, luật sư cũng cần chú ý đến tư thế, phong thái của mình, sao cho gây ấn tượng tốt với người được hỏi, với những người tiến hành tố tụng. Tránh có những cử chỉ không được thiện cảm như khoa trương cánh tay, đi lại mất trật tự khi chưa được phép của chủ tọa phiên tòa, chỉ tay vào người này, người khác khi nói, kể cả chỉ tay vào thân chủ của Luật sư. Điều này chỉ làm trò cười cho phòng xử án và không có hiệu quả.
- Phải bình tĩnh và nhẹ nhàng. Giọng nói cũng phải ung dung: nói đủ to để có thể nghe được. Phải tạo điều kiện dễ dàng để mọi người có thể nghe được, tất nhiên khi cần có thể điều chuyển giọng nói của mình để nhấn mạnh khi cần thiết, ngoài ra giọng nói còn có thể trở nên cương quyết, phẫn nộ, nghi ngờ, v.v… nếu nó cần phải như vậy.
- Để sự truyền đạt thông tin, đạt mục đích quá trình xét hỏi, không chỉ thể hiện chỉ là trên giấy tờ và lời nói, mà còn chủ yếu thể hiện ở cử chỉ và điệu bộ.
- Cần tránh bị lôi cuốn đặt mình vào vị trí của thân chủ dễ bị kích động sẽ không có lợi cho mình và chính thân chủ của mình
b.Các loại câu hỏi được luật sư sử dụng:
Tùy từng trường hợp cụ thể, luật sư sử dụng câu hỏi phù hợp sao cho đạt được hiệu quả tối đa của quá trình xét hỏi. Xin đưa ra một vài loại câu hỏi mà luật sư có thể sử dụng khi đặt câu hỏi:
* Câu hỏi bổ sung lời khai
Mục đích sử dụng câu hỏi này để làm rõ hơn về các tình tiết của vụ án đã được người tham gia tố tụng khai báo tại phiên toà nhưng chưa rõ. Câu hỏi này được dùng trong trường hợp thân chủ của mình đã trả lời câu hỏi của Hội đồng xét xử nhưng chưa làm rõ được các tình tiết của vụ án có lợi cho họ. Nguyên nhân có thể do họ mất bình tĩnh mà khai sai. Luật sư cần đặt câu hỏi để người này khai bổ sung những điểm chưa rõ hoặc còn sót. Cũng có thể đặt câu hỏi này với những người tham gia tố tụng khác khi thấy lời khai bổ sung của họ sẽ có lợi cho thân chủ của mình.
* Câu hỏi gợi mở
Mục đích của câu hỏi này để phục hồi trí nhớ, khơi dậy trong trí nhớ của người được hỏi mối liên tưởng về thời gian, sự việc nhờ đó họ có thể khai báo được chính xác tình tiết của vụ án.
* Câu hỏi vạch rõ sự gian dối
Câu hỏi này nhằm mục đích chỉ ra sự gian dối, tính không hợp lý trong lời khai của những người có quyền lợi đối lập với thân chủ của mình hoặc của người làm chứng. Câu hỏi này thường có hai phần: phần một nêu những chứng cứ hoặc sự việc đã được kiểm tra và xác định là đúng; phần hai nêu nội dung lời khai của người được hỏi có mâu thuẫn với các chứng cứ, sự việc đã đưa ra ở phần một và yêu cầu người này giải thích về sự mâu thuẫn đó để vạch rõ sự gian dối của lời khai.
Chú ý khi đặt câu hỏi gợi mở không được gợi ý cho người được hỏi trả lời mà chỉ nhằm giúp họ nhớ lại những gì đã biết nhưng do lâu ngày bị lãng quên.
 KẾT LUẬN
Các kỹ năng tham gia tố tụng hành chính của luật sư nói chung và kỹ năng hỏi của Luật sư trong phiên tòa hành chính sơ thẩm nói riêng trong vụ án hành chính có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong việc ngày càng hoàn thiện khả năng nghiệp vụ của luật sư; không chỉ trong việc tham gia các vụ án hành chính nói chung mà còn tham gia vào nhiều các hoạt động khác trong sự nghiệp hành nghề của luật sư. Để có được kỹ năng hỏi nói riêng và hầu hết các kỹ năng nói chung, Luật sư phải tham gia vào những khóa đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ để thu thập được các kỹ năng đó từ những người truyền đạt. Ngoài những luồng kiến thức về kỹ năng của Luật sư thu nạp từ trên, Luật sư cũng cần phải tự mình trau dồi những kiến thức ấy cho chính bản thân mình thông qua việc tham gia thực tế các phiên tòa hành chính. Không đơn thuần khi trở thành Luật sư là đã có thể có đầy đủ các kỹ năng để có thể trọ giúp pháp lý cho khách hàng của mình, Luật sư cần luôn luôn học tập các kinh nghiệm thực tế kết hợp với các kiến thức chuẩn về pháp lý.
Việc rèn luyện thành thạo kỹ năng ứng dụng vào trong quá trình hỏi tại phiên tòa hành chính là điều cần thiết đối với các luật sư tham gia trong vụ án. Có nắm vững các kỹ năng thì luật sư mới có thể ứng dụng được linh hoạt và mềm dẻo vào các tình huống trong quá trình hỏi để có thể bảo vệ được tốt nhất cho thân chủ mà mình đại diện.
Trong sự hội nhập hiện nay, việc nâng cao kỹ năng của luật sư trong các vụ án hành chính, đặc biệt đối với các luật sư trẻ không chỉ ở góc độ chuyên môn,kỹ năng hành nghề mà còn phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của luật sư với thân chủ của mình, được thể hiênh ngay từ khi tiếp xúc khách hàng, nghiên cứu hồ sơ và cả khi đã hoàn thành công việc của luật sư đằng sau phiên toà. Điều này chỉ có thể đạt được trên cơ sở tôn trọng truyền thống đạo đức của con người Việt Nam.

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

CTCK phải lập bộ phận “cân đo” rủi ro


    Theo dự thảo Quy chế hướng dẫn thiết lập hệ thống và thực hiện quản trị rủi ro trong CTCK vừa được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) công bố lấy ý kiến các thành viên thị trường, lần đầu tiên, nhà quản lý buộc CTCK phải lập bộ phận chuyên trách quản trị rủi ro.
    Đo rủi ro hàng ngày bằng quy tắc 4 - 4
    Theo dự thảo Quy chế, CTCK phải hình thành Hệ thống quản trị rủi ro (QTRR) theo 4 cấp: HĐQT; ban kiểm soát và hệ thống kiểm soát nội bộ; tiểu ban QTRR và bộ phận QTRR, để quản lý tối thiểu 4 loại rủi ro trọng yếu: rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động.
    Trong đó, HĐQT chịu trách nhiệm cao nhất đối với việc QTRR. Ban kiểm soát và hệ thống kiểm soát nội bộ phải đánh giá độc lập về tính tuân thủ, hiệu quả và đầy đủ của hệ thống QTRR.
    Đặc biệt, CTCK phải thiết lập tiểu ban QTRR trực thuộc HĐQT. Trưởng tiểu ban này phải là thành viên HĐQT, hoặc chủ sở hữu của CTCK. Thành viên của tiểu ban phải ít nhất gồm một thành viên HĐQT, tổng giám đốc, trưởng bộ phận QTRR, giám đốc tài chính hoặc kế toán trưởng, trưởng bộ phận kiểm soát nội bộ. Tiểu ban QTRR có trách nhiệm đệ trình chính sách QTRR hàng năm để HĐQT ban hành; xây dựng các tiêu chuẩn QTRR định tính và định lượng nhằm tạo thuận lợi cho công tác QTRR thường xuyên; kiểm tra, đánh giá sự đầy đủ, hiệu quả và hiệu lực của bộ phận QTRR trực thuộc ban giám đốc. Tiểu ban QTRR báo cáo hàng quý cho HĐQT hoặc chủ sở hữu CTCK về công tác QTRR và phương hướng khắc phục (nếu có).
    Quy chế mới buộc các CTCK phải có bộ phận QTRR nhưng chưa có chế tài đi kèm
    Ban giám đốc phải thành lập bộ phận QTRR hoạt động độc lập với các bộ phận chuyên môn khác. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm trưởng bộ phận QTRR của tổng giám đốc phải có sự chấp thuận của HĐQT hoặc chủ sở hữu CTCK. Trưởng bộ phận QTRR có trách nhiệm giám sát, đánh giá hàng ngày trạng thái rủi ro của CTCK. Các trưởng bộ phận nghiệp vụ trong CTCK phải chịu trách nhiệm QTRR hàng ngày mà bộ phận mình gặp phải; phải đảm bảo bộ phận mình quản lý tuân thủ các quy định về hạn mức rủi ro. Bộ phận QTRR có trách nhiệm đề xuất các chính sách QTRR cho tổng giám đốc và tiểu ban QTRR; đề xuất hạn mức rủi ro cho từng phòng ban; đánh giá mức độ rủi ro và thiệt hại thực tế phát sinh được dự báo bởi bộ phận QTRR…
    Theo dự thảo, chính sách QTRR phải được rà soát và được HĐQT thông qua ít nhất mỗi năm một lần. Hệ thống QTRR được thiết lập phải đảm bảo CTCK có khả năng đo lường, giám sát và xử lý hiệu quả các rủi ro trọng yếu. CTCK phải đảm bảo công tác QTRR được thực hiện độc lập, khách quan, trung thực, thống nhất và phải được thể hiện rõ ràng bằng văn bản. Các bộ phận tác nghiệp và bộ phận QTRR phải được tổ chức tách biệt, độc lập với nhau; người phụ trách bộ phận tác nghiệp không đồng thời phụ trách bộ phận QTRR và ngược lại…

    Muộn còn hơn không
    Theo nhìn nhận của các thành viên, sau hơn 12 năm hoạt động của TTCK, lần đầu tiên UBCK mới “buộc hờ” CTCK phải thiết lập hệ thống và thực hiện QTRR là quá muộn. Nhưng dẫu sao muộn còn hơn không. Sở dĩ nói “buộc hờ”, bởi dự thảo Quy chế không đưa ra chế tài đối với các CTCK không hoặc chậm trễ thiết lập hệ thống và thực hiện QTRR, hoặc không tuân thủ các quy định về QTRR theo quy định của Quy chế.
    Ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), nhìn nhận, sự ra đời của Quy chế lúc này là cần thiết, nhưng quá muộn. Để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn QTRR tại CTCK, dự thảo cần sửa đổi, bổ sung ít nhất 3 nội dung.
    Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, rủi ro lớn nhất đối với CTCK thời gian qua và sẽ vẫn là rủi ro đáng ngại trong thời gian tới, đó là rủi ro khi triển khai hoạt động giao dịch ký quỹ (margin). Từng là “ông hoàng” trong khối CTCK, nhưng nay CTCK Sacombank đứng trước nguy cơ tan vỡ, khi suốt một thời gian dài mạnh tay cho vay margin, đến nay gần như không có khả năng thu hồi nợ hàng nghìn tỷ đồng từ NĐT. Để ngăn ngừa rủi ro này, dự thảo Quy chế nên nhấn mạnh các giải pháp kiểm soát rủi ro cho vay margin mà CTCK phải tuân thủ.
    Thứ hai, không ít CTCK đã có bộ phận kiểm soát nội bộ và QTRR, nhưng nặng tính hình thức. Để khắc phục tình trạng này, dự thảo cần có quy định rõ ràng trách nhiệm của HĐQT, ban giám đốc trong việc đảm bảo cho bộ phận QTRR hoạt động thực sự độc lập, khách quan.
    Thứ ba, chính lãnh đạo UBCK đã không dưới một lần than phiền về tính tuân thủ của nhiều CTCK còn kém. Bởi vậy, rất nhiều quy định được ban hành, nhưng thiếu chế tài đi kèm, nên chỉ tồn tại trên giấy. Để tránh tình trạng tương tự xảy ra khi Quy chế có hiệu lực, cần có chế tài đối với các CTCK không lập bộ phận QTRR chuyên trách, hoặc không tuân thủ các nguyên tắc QTRR được quy định trong Quy chế.          

Khi tài sản bảo đảm… không đảm bảo

Xử lý nợ xấu là bài toán phức tạp đòi hỏi cách thức, giải pháp xử lý phải được xem xét, tính toán ở nhiều góc độ.
 
    Tuy nhiên, chỉ nhìn ở phần tài sản bảo đảm của các khoản nợ này, dù chưa có thống kê và chỉ đánh giá ở các vụ việc đã xảy ra thì nguy cơ nợ xấu không có tài sản bảo đảm, không thể thu hồi nợ là không nhỏ.
    66% tài sản bảo đảm của các khoản tín dụng là bất động sản
    Theo Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, trong tổng dư nợ của toàn nền kinh tế, có 72% dư nợ có tài sản bảo đảm, trong đó có 66% là bất động sản; trong 4,9% nợ xấu theo báo cáo của các ngân hàng, trên 80% có tài sản bảo đảm và trong số này có 57% là bất động sản. Cũng theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, đã có 252.000 tỷ đồng nợ xấu được cơ cấu lại và đã xử lý được 12.000 tỷ đồng từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro. Nếu xử lý được khối tài sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản thì việc xử lý nợ xấu sẽ có chuyển biến nhanh chóng và tích cực.
    Cách thức nước Mỹ xử lý nợ xấu trong cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn năm 2008, về nguyên lý, có phần nào giống những gì chúng ta đang muốn làm: mua lại các tài sản có vấn đề, bán lại hoặc nắm giữ tùy thuộc từng loại tài sản để giúp cho thị trường không rớt giá tiếp và khi thị trường phục hồi sẽ bán ra để thu hồi vốn.
    Việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam có thể áp dụng cách thức trên hay không có liên quan đến thực trạng các tài sản có vấn đề, các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, mà đến nay vẫn chưa được làm rõ. Nợ quá hạn của ngân hàng sẽ trở thành nợ xấu và đặc biệt trở thành nợ có khả năng mất vốn khi các tài sản bảo đảm có vấn đề. Một phần nguyên nhân của vấn đề này là cơ chế xử lý tài sản bảo đảm còn bất cập. Hệ thống ngân hàng cần sự hỗ trợ từ các cơ quan tiến hành tố tụng để xử lý đúng thời gian, công bằng và đúng bản chất giao dịch. Tuy nhiên, tình trạng không xử lý được tài sản bảo đảm còn xuất phát từ chính các tài sản này, như có tranh chấp về sở hữu, bị bán cho bên thứ 3 hoặc được thế chấp nhiều lần...
    Trong số 80% nợ xấu được bảo đảm bằng bất động sản, chưa rõ tình trạng ra sao, như tỷ lệ nhà đất có thể xử lý được, có giấy tờ giả, vướng mắc về sở hữu, không đăng ký giao dịch bảo đảm, không lập hợp đồng thế chấp… là bao nhiêu. Từng có rất nhiều trường hợp, khi có nợ quá hạn, ngân hàng đi kiểm tra tình trạng tài sản bảo đảm mới phát hiện tại địa chỉ nhà đất thế chấp không có nhà và cũng không có giấy tờ đất nào như trong hồ sơ vay vốn. Cũng có những vụ ngân hàng không lập hợp đồng thế chấp có công chứng, dẫn đến khách hàng nại ra rằng hợp đồng thế chấp vô hiệu. Thậm chí, trong một vụ việc tranh chấp đang trong quá trình giải quyết, ngân hàng sau khi nhận tài sản thế chấp là nhà đất thì không rõ vì lý do gì đã cởi bỏ thế chấp, dẫn đến tình trạng khách hàng không chịu trả nợ, ngân hàng không có gì để xử lý.
    Có trường hợp DN thế chấp nhà xưởng và không trả được nợ, ngân hàng không có cách nào để phát mại được nhà xưởng đó. Bán một dây chuyền sản xuất không dễ như bán các tài sản khác…
    Muôn vàn tình huống trong thực tế khiến ngân hàng không thể xử lý tài sản bảo đảm là nhà đất, nguyên nhân có thể là chủ quan, từ cả phía ngân hàng và doanh nghiệp, hoặc do khách quan. Gần đây, xảy ra việc một nhóm các ngân hàng “tranh” nhau kho hàng của một DN ngành thép. Các ngân hàng nhận tài sản thế chấp là kho hàng mà không hề biết rằng DN đã cầm cố rất nhiều lần kho hàng này để vay vốn. Đây là tình huống thường xuyên gặp phải khi các ngân hàng cho DN vay và nhận tài sản bảo đảm là kho hàng. Đối với các khoản vay có tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá, nếu lỡ “cầm nhầm” giấy tờ giả, ngân hàng sẽ chịu thiệt hại có thể lên tới hàng trăm tỷ đồng do các giao dịch này tuy không nhiều song đều có giá trị lớn. Vụ Huỳnh Thị Huyền Như là điển hình cho dạng này, các đối tượng đã làm giả hợp đồng tiết kiệm, giấy tờ xác nhận số dư tại một ngân hàng rồi đem đi thế chấp tại các ngân hàng khác.
    Một tình trạng khá phổ biến ở Việt Nam là tài sản của nhiều người được một người đứng tên hoặc đứng tên hộ, dẫn đến tài sản bảo đảm có tranh chấp về sở hữu và ngân hàng không thể xử lý. Trong các trường hợp này, chỉ Tòa án mới có thể đưa ra phán quyết về chủ sở hữu.
    Có thể thấy, việc xử lý nợ xấu được đến đâu còn phụ thuộc rất nhiều vào thực trạng các khoản nợ, các tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm là thứ cuối cùng mà ngân hàng có thể thu được từ người vay. 

    Nguồn: Tinnhanhchungkhoan  

Kỹ năng của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Xét xử tại phiên toà sơ thẩm là giai đoạn quan trọng nhất, là khâu then chốt trong quá trình làm nhiệm vụ của Luật sư. Đây là khâu kết tinh các công sức của Luật sư từ việc chuẩn bị, tìm tòi các chứng cứ có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ đến việc đứng ra bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho họ một cách công khai. Kết quả của việc bào chữa cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền lợi cho đương sự sẽ được ghi nhận ở giai đoạn này. Vì vậy, Luật sư phải chuẩn bị thật tốt mọi công việc trước khi ra phiên toà.1. NHỮNG CÔNG VIỆC CẦN CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI DIỄN RA PHIÊN TÒA
Chuẩn bị xong đề cương luận cứ bảo vệ mới là điều kiện cần để bảo vệ tại phiên toà. Trước khi ra phiên toà, Luật sư phải đọc lại bản luận cứ bào chữa hoặc bảo vệ để xem có cần bổ sung sửa chữa gì không. Đối với những điểm quan trọng cần phải viện dẫn tài liệu hoặc lời khai của một người tham gia tố tụng nào đó, cần dùng bút nhớ dòng đánh dấu để khi trình bày, Luật sư trích đọc tài liệu cần viện dẫn.
Căn cứ vào nội dung vụ án và đề cương luận cứ đã viết, Luật sư chuẩn bị các tài liệu có liên quan để viện dẫn tại phiên toà. Thông thường Luật sư phải mang theo Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tùy thuộc vào việc bảo vệ (cho bị cáo hoặc đương sự) mà Luật sư chuẩn bị các tài liệu cần thiết như các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Thông tư liên ngành của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp; Công văn của Toà án nhân dân tối cao về những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ. Luật sư cũng cần đọc kỹ các văn bản, tài liệu này, đánh dấu những đoạn cần viện dẫn trích đọc để khi cần thì có thể sử dụng được ngay mà không phải mất thời gian tìm kiếm.
Đối với một số tài liệu về nhân thân, hoàn cảnh gia đình bị cáo như các giấy tờ chứng nhận thành tích trong công tác, trong học tập, sản xuất và chiến đấu; các giấy tờ chứng nhận bị cáo thuộc diện chính sách ưu tiên, gia đình có công với cách mạng; các giấy tờ chứng nhận về sức khoẻ và hoàn cảnh gia đình của bị cáo… cũng phải được chuẩn bị để xuất trình cho Hội đồng xét xử và sử dụng khi bào chữa.
Trước khi ra phiên toà, Luật sư phải dự kiến kế hoạch xét hỏi. Việc xây dựng kế hoạch xét hỏi giúp Luật sư hỏi có trọng tâm, xác định được những vấn đề cần làm rõ, không bỏ sót, không có những câu hỏi thừa hoặc vô nghĩa, không bị lúng túng trước sự trả lời của người bị hỏi. Tuỳ vào nội dung vụ án, các tình tiết được thể hiện trong hồ sơ, Luật sư dự kiến những người cần xét hỏi, thứ tự xét hỏi (nếu vụ án có nhiều bị cáo), hỏi ai trước, ai sau; Dự kiến cách đặt câu hỏi; Nhất thiết những câu hỏi phải làm rõ các tình tiết của vụ án sao cho có lợi cho người mình bảo vệ. Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và không làm cho người được hỏi hiểu theo nhiều nghĩa. Tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung, dài dòng hoặc không rõ đó là câu hỏi hay câu giải thích, vì hỏi như thế sẽ làm cho người bị hỏi không biết phải trả lời như thế nào. Nếu muốn yêu cầu người bị hỏi giải thích một số điểm trong lời khai được khai tại cơ quan điều tra của họ, Luật sư chuẩn bị sẵn lời khai này, đánh dấu những điểm cần hỏi để luôn luôn chủ động khi xét hỏi.
2. CÁC KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA
2.1. ở phần thủ tục bắt đầu phiên toà

Luật sư cần chú ý theo dõi diễn biến của phiên toà xem có bảo đảm các thủ tục tố tụng mà Bộ luật TTHS quy định hay không. Khi thư ký phiên toà báo cáo danh sách những người được triệu tập, Luật sư cần ghi lại để biết những người nào Toà án triệu tập đã có mặt, người nào vắng mặt. Nếu thấy sự vắng mặt của một người tham gia tố tụng nào đó sẽ cản trở xét xử thì Luật sư phải chuẩn bị sẵn ý kiến để khi chủ toạ phiên tòa hỏi ý kiến về việc người tham gia tố tụng vắng mặt thì trình bày được ngay ý kiến đã chuẩn bị của mình để bảo đảm quyền lợi cho người mà mình bảo vệ.
Luật sư cần căn cứ vào quy định tại các Điều: 189, 190, 191, 192, 193 Bộ luật Tố tụng Hình sự về sự có mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên toà để đề xuất ý kiến cho chính xác.
Theo quy định tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì bị cáo phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Điều 190 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên toà. Nếu người bào chữa vắng mặt, nhưng có gửi trước bản bào chữa thì Toà án vẫn mở phiên toà xét xử. Trong trường hợp người bào chữa quy định tại khoản 2 Điều 57 luật mới Bộ luật tố tụng hình sự vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Điều 191 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: 1- Nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tuỳ trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử. 2- Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự. Điều 192 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định người làm chứng tham gia phiên toà để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra thì Chủ toạ phiên toà công bố những lời khai đó. Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng vắng mặt thì tuỳ trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử. Điều 193 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định người giám định tham gia phiên toà khi được Toà án triệu tập. Nếu người giám định vắng mặt thì tuỳ trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì Hội đồng xét xử bắt buộc phải hoãn phiên toà trong một số trường hợp, còn một số trường hợp khác lại được xem xét để quyết định hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử. Tuỳ vào từng vụ án, vào việc bào chữa cho bị cáo hay bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà Luật sư đề nghị hoãn phiên toà hoặc phản đối ý kiến đề nghị hoãn phiên toà của người khác. Ví dụ: Nếu thấy vắng mặt người làm chứng về những vấn đề quan trọng sẽ trở ngại cho việc xét xử, không có lợi cho người mình bảo vệ thì đề nghị hoãn phiên toà. Trường hợp vắng mặt người bị hại nhưng chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường và ý kiến của Luật sư bảo vệ cho người bị hại đề nghị hoãn phiên toà, nếu xét thấy việc hoãn phiên toà là không cần thiết chỉ kéo dài thời gian bị cáo bị tạm giam thì Luật sư bào chữa cho bị cáo cần đề nghị với Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử và tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bị cáo chưa nhận được bản cáo trạng hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Luật sư phải yêu cầu Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Nếu bị cáo hoặc đương sự không được chủ toạ giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà hoặc không hỏi họ có đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch hay không thì Luật sư phải đề nghị Hội đồng xét xử cho họ được thực hiện các quyền đó theo quy định của pháp luật. Nếu thấy cần đưa thêm tài liệu, chứng cứ ra xem xét tại phiên toà mà trước đó Luật sư chưa có hoặc chưa muốn cung cấp cho Toà án, hoặc thấy cần đề nghị triệu tập thêm người làm chứng quan trọng của vụ án thì Luật sư phải đề nghị với Hội đồng xét xử những vấn đề đó.
Khi thấy sự có mặt của người làm chứng là cần thiết cho việc xét xử. Người làm chứng này biết được nhiều tình tiết của vụ án và có khả năng cung cấp cho Toà án những tình tiết đó nhưng họ lại không được Toà án triệu tập thì Luật sư phải đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập thêm người làm chứng. Luật sư cần nói rõ lý do đề nghị triệu tập người làm chứng để Toà án biết. Nếu có các tài liệu chứng cứ quan trọng cần được xem xét tại phiên toà, nhưng trước đó chưa cung cấp cho Toà án thì Luật sư phải đưa ra tài liệu chứng cứ và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại phiên toà.
Trước khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên toà, Chủ tọa phiên toà thường hỏi các Luật sư có ý kiến gì không. Nếu đồng ý thì trả lời không có ý kiến gì, nếu thấy cần bổ sung thêm thủ tục nào để bảo đảm quyền lợi của người mình bảo vệ thì đề nghị với Hội đồng xét xử xem xét.
2.2. Phần xét hỏi
Xét hỏi tại phiên toà là bước điều tra công khai, có sự tham gia của tất cả những người tham gia tố tụng nhằm kiểm tra các chứng cứ và làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án.
Để nắm được các tình tiết của vụ án, Luật sư phải theo dõi mọi diễn biến tại phiên toà, lắng nghe các câu hỏi của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, Luật sư đồng nghiệp và các câu trả lời của những người bị hỏi. Kết hợp với việc nghe, Luật sư cần ghi chép những điểm quan trọng có liên quan đến việc bảo vệ cho bị cáo hoặc đương sự. Thông thường, Luật sư cần ghi lại lời trình bầy của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng. Cần ghi tóm tắt lời khai, sao cho vừa đầy đủ, ngắn gọn nhưng vẫn phản ánh được nội dung chính. Trong trường hợp Hội đồng xét xử hỏi những bị cáo khác (trong vụ án đồng phạm) về các tội phạm hoặc những vấn đề không liên quan đến bị cáo hoặc đương sự mà mình bảo vệ thì Luật sư chỉ nghe mà không cần ghi chép. Ví dụ, ngày thứ nhất Hội đồng xét xử đã hỏi xong bị cáo của mình bào chữa, sang ngày hôm sau Hội đồng xét xử hỏi các bị cáo khác về những tội phạm không liên quan đến việc bào chữa thì không cần ghi chép. Tuy vậy, Luật sư vẫn phải có mặt để theo dõi diễn biến của phiên toà và khi thấy có điểm cần thiết thì ghi lại ngay để sử dụng khi bảo vệ.
Trong khi theo dõi diễn biến của phiên toà, Luật sư cũng chú ý phân tích các câu hỏi, câu giải thích cho bị cáo của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên. Qua đó, Luật sư có thể nắm được một phần về quan điểm của họ để tự điều chỉnh bản luận cứ hoặc đặt câu hỏi với những người tham gia tố tụng cho phù hợp nhằm bảo vệ tốt nhất cho thân chủ của mình.
Khi nghe và ghi chép, Luật sư phải hết sức nhanh nhạy để phát hiện trong các lời khai của những người được hỏi những tình tiết có lợi cho thân chủ, những tình tiết có mâu thuẫn không phù hợp với thực tế khách quan hoặc các chứng cứ khác của vụ án, những tình tiết chưa được làm rõ để điều chỉnh nội dung, kế hoạch xét hỏi đã dự kiến và chuẩn bị các câu hỏi mới đối với những người tham gia tố tụng.
Khi chủ tọa dành cho quyền hỏi, Luật sư phải đặt những câu hỏi sắc bén, ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ. Tránh đặt những câu hỏi quá dài, không đi vào trọng tâm hoặc vừa đặt câu hỏi vừa phân tích, bình luận làm lẫn lộn với phần tranh luận để Chủ toạ phiên toà phải nhắc nhở. Tuỳ từng trường hợp có thể sử dụng những loại câu hỏi sau.
2.2.1. Câu hỏi bổ sung lời khai
Mục đích sử dụng câu hỏi này để làm rõ hơn về các tình tiết của vụ án đã được người tham gia tố tụng khai báo tại phiên toà nhưng chưa rõ. Câu hỏi này được dùng trong trường hợp thân chủ của mình đã trả lời câu hỏi của Hội đồng xét xử nhưng chưa làm rõ được các tình tiết của vụ án có lợi cho họ. Nguyên nhân có thể do họ mất bình tĩnh mà khai sai. Luật sư cần đặt câu hỏi để người này khai bổ sung những điểm chưa rõ hoặc còn sót. Cũng có thể đặt câu hỏi này với những người làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác khi thấy lời khai bổ sung của họ sẽ có lợi cho thân chủ của mình.
2.2.2. Câu hỏi gợi mở
Mục đích của câu hỏi này để phục hồi trí nhớ, khơi dậy trong trí nhớ của người được hỏi mối liên tưởng về thời gian, sự việc nhờ đó họ có thể khai báo được chính xác tình tiết của vụ án. Luật sư dùng câu hỏi này để hỏi người làm chứng, người bị hại, bị cáo giúp họ có điều kiện nhớ lại thời gian, địa điểm, sự việc liên quan đến vụ án nhưng bị lãng quên.
2.2.3. Câu hỏi vạch rõ sự gian dối
Câu hỏi này nhằm mục đích chỉ ra sự gian dối, tính không hợp lý trong lời khai của những người có quyền lợi đối lập với thân chủ của mình hoặc của người làm chứng. Câu hỏi này thường có hai phần: phần một nêu những chứng cứ hoặc sự việc đã được kiểm tra và xác định là đúng; phần hai nêu nội dung lời khai của người được hỏi có mâu thuẫn với các chứng cứ, sự việc đã đưa ra ở phần một và yêu cầu người này giải thích về sự mâu thuẫn đó để vạch rõ sự gian dối của lời khai
Chú ý: Đối với người mà mình bảo vệ, Luật sư không đặt câu hỏi phức tạp, câu hỏi mà trước đó chưa có sự trao đổi thống nhất. Chỉ nên đặt loại câu hỏi bổ sung lời khai, câu hỏi gợi mở hoặc câu hỏi đã có sự trao đổi thống nhất giữa Luật sư với người được bảo vệ. Tránh tình trạng Luật sư đặt câu hỏi quá khó làm cho người được Luật sư bảo vệ không biết trả lời thế nào hoặc trả lời lại không có lợi cho họ. Chú ý khi đặt câu hỏi gợi mở không được gợi ý cho người được hỏi trả lời mà chỉ nhằm giúp họ nhớ lại những gì đã biết nhưng do lâu ngày bị lãng quên.
Căn cứ vào diễn biến tại phiên toà, Luật sư có thể đưa ra các yêu cầu cần thiết như đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vật chứng, hỏi những người có liên quan để làm rõ vật chứng; nếu thấy cần thiết có thể đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên toà được. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chứng cứ mới; yêu cầu công bố tài liệu có trong hồ sơ có lợi cho thân chủ của mình. Chú ý chỉ đề nghị Hội đồng xét xử công bố lời khai tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp sau:
- Lời khai của người được xét hỏi tại phiên toà có mâu thuẫn với lời khai của họ tại Cơ quan Điều tra;
- Người được xét hỏi không khai tại phiên toà;
- Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.
Trong trường hợp một người có mặt tại phiên toà và họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, nhưng lời khai này có nhiều tình tiết không khách quan, bất lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử chưa hỏi họ nhưng đã định nhắc lại hoặc công bố lời khai này thì Luật sư phải đề nghị Hội đồng xét xử xét hỏi họ trước khi công bố lời khai. Nếu thấy có sự ép cung, truy bức bị cáo, Luật sư phải đề nghị chấm dứt ngay việc đó, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo (nếu bào chữa cho bị cáo).
Căn cứ diễn biến của việc xét hỏi tại phiên toà, Luật sư kịp thời điều chỉnh, bổ sung vào bản luận cứ bảo vệ cho phù hợp. Thực tiễn bào chữa cho thấy có trường hợp bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố nhiều tội trong đó có “Tội tham ô tài sản” và “Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Qua xét hỏi đã có đủ căn cứ xác định đối với hành vi bị truy tố là tham ô thì bị cáo không chiếm đoạt mà chỉ do làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nên gây thiệt hại tài sản; đối với hành vi bị truy tố là cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế thì không làm rõ được bị cáo làm trái văn bản nào, quy định nào của Nhà nước về quản lý kinh tế. Căn cứ diễn biến tại phiên toà nói trên, Luật sư phải kịp thời điều chỉnh lại đề cương bào chữa của mình để đề nghị Hội đồng xét xử không xử phạt bị cáo về hành vi tham ô tài sản như truy tố của Viện kiểm sát mà xử bị cáo về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với hành vi của bị cáo mà Viện Kiểm sát truy tố là cố ý làm trái thì Luật sư đề nghị xử bị cáo không phạm tội.
2.3. Phần tranh luận
Trong trình tự tố tụng tại phiên toà, đối với Luật sư giai đoạn tranh luận có một vị trí quan trọng nhất vì nó là giai đoạn mà Luật sư được thể hiện tất cả mọi quan điểm bảo vệ cho thân chủ của mình, là giai đoạn quyết định việc bảo vệ của Luật sư có thành công hay không. ở đó, Luật sư sử dụng quyền tranh luận của mình để phân tích, lập luận đưa ra các lý lẽ bảo vệ cho thân chủ.
Có thể nói tranh luận tại phiên toà là giai đoạn mà Hội đồng xét xử được nghe một cách toàn diện nhất, tập trung nhất ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng về việc giải quyết vụ án. Vì vậy, Luật sư cần nắm vững thủ tục tố tụng trong tranh luận và thực hiện thật hoàn hảo các kỹ năng tranh luận.
2.3.1. Về trình tự, thủ tục tranh luận
Điều 217 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định rõ trình tự phát biểu khi tranh luận như sau:
Mở đầu tranh luận, kiểm sát viên trình bầy lời luận tội, phân tích các chứng cứ của vụ án để xác định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội. Nếu bị cáo phạm tội thì phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tác hại của tội phạm, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng. Nếu có căn cứ xác định bị cáo phạm tội khác nhẹ hơn tội đã truy tố thì kết luận về tội danh khác nhẹ hơn. Nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Sau khi đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, bị cáo được trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Khi người bào chữa đã trình bày xong, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
Tiếp theo người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Nếu những người này có nhờ Luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Toà án chấp nhận, bảo vệ quyền lợi cho mình thì người bảo vệ quyền lợi cho họ trình bày ý kiến. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền bổ sung ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2.3.2. Về phần đối đáp
Điều 218 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định những người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác nhưng không quy định cụ thể về trình tự đối đáp, song về nguyên tắc, với tư cách là người duy trì quyền công tố Nhà nước tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… việc đối đáp được bắt đầu từ phía Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên trả lời các ý kiến của những người tham gia tố tụng về những vấn đề liên quan đến vụ án. Trong lời đáp, kiểm sát viên có thể đồng ý với ý kiến của người tham gia tố tụng cũng có thể không đồng ý với ý kiến đó và đưa ra các lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình.
Luật sư và những người tham gia tố tụng khác có thể đối đáp với kiểm sát viên hoặc đối đáp với nhau, nhưng chỉ được phát biểu một lần với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý.
Để đạt kết quả cao, khi tranh luận Luật sư phải sử dụng tài hùng biện và đối đáp; cần trình bày luận cứ bảo vệ một cách rõ ràng, khúc chiết, lôgíc, sinh động, thấu lý đạt tình, có sức thuyết phục để thu hút sự chú ý và đồng tình của Hội đồng xét xử.
2.3.3. Khi bảo vệ
+ Cần trình bày theo dàn ý của đề cương để chuẩn bị. Có như vậy mới đi đúng trọng tâm làm toát lên các vấn đề cần bảo vệ, tránh được sự dông dài, trình bày tràn lan bỏ sót những điểm quan trọng
+ Nhưng không lệ thuộc quá nhiều vào bản đề cương viết sẵn, điều này sẽ làm cho Luật sư mất hết tính chủ động, sáng tạo, tự mình tước bỏ sự cảm hoá, thuyết phục lớn lao của lời nói khi kết hợp nó với biểu lộ của ánh mắt, nét mặt và cử chỉ khác.
Luật sư nên nói chứ không đọc bản luận cứ. Bản luận cứ bảo vệ chỉ dùng để nhìn qua cho khỏi quên. Nên nhìn thẳng vào Hội đồng xét xử mà biện luận chứ không nên “dán mắt” vào bản luận cứ đã viết sẵn đọc nguyên văn từ đầu đến cuối vì như thế sẽ làm giảm tính thuyết phục của việc bảo vệ. Trong trường hợp xét thấy cần thiết phải đọc bản luận cứ đ• chuẩn bị sẵn được sửa chữa, bổ sung tại phiên toà để bảo đảm sự chính xác của các số liệu, sự việc thì Luật sư vẫn phải kết hợp với việc giải thích để Hội đồng xét xử hiểu rõ từng vấn đề, hết sức tránh đọc nhỏ và nhanh làm cho người nghe không hiểu được vấn đề Luật sư đang trình bày.
+ Phải dồn cả nhiệt huyết của mình vào việc bảo vệ; trình bày câu văn trong sáng, rõ ràng, nói to, dõng dạc để Hội đồng xét xử có thể nghe rõ. Giọng nói có sự trầm bổng và cần nhấn mạnh vào những vấn đề quan trọng để thu hút sự chú ý và đồng tình của Hội đồng xét xử.
+ Khi trình bày phải đưa ra các lý lẽ, lập luận chặt chẽ, viện dẫn pháp luật để bảo vệ quan điểm của mình.
+ Trong phần kết luận, cần chốt lại những vấn đề quan trọng nhất đã được phân tích ở trên thành từng điểm cụ thể để đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Trước khi dừng lời, cần biểu thị sự tin tưởng vào phán quyết của Hội đồng xét xử để tranh thủ sự ủng hộ của Hội đồng khi nghị án.
Ở phần đối đáp, pháp luật quy định mọi người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác, nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Luật sư cần tận dụng cơ hội này để kịp thời đề nghị Hội đồng xét xử bác bỏ những ý kiến không có cơ sở chấp nhận
Đặc điểm của đối đáp là Luật sư phải trả lời ngay những vấn đề mình không đồng ý mà không có nhiều thời gian suy nghĩ, chuẩn bị từ trước. Do vậy muốn đối đáp sắc bén, kịp thời và chính xác, Luật sư phải lắng nghe ý kiến của bên kia, ghi nhanh, đánh dấu những điểm cần phải đáp lại. Tất nhiên khi đánh dấu những điểm phải trả lời, Luật sư đã suy nghĩ chuẩn bị ngay các lý lẽ sẽ trình bày khi đối đáp. Khi trả lời, Luật sư cần trình bày ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề cần phản bác. Ngoài việc dùng các chứng cứ của bên mình đưa ra, Luật sư phải triệt để sử dụng những điểm mâu thuẫn, những vấn đề do bên kia đưa ra nhưng thấy có thể vận dụng để bảo vệ tốt cho bị cáo hoặc đương sự của mình. Có như vậy lời đối đáp của Luật sư mới có sức thuyết phục, làm cho Hội đồng xét xử dễ đồng tình. Khi đối đáp có thể không khí phiên toà căng thẳng, nhưng trong bất cứ trường hợp nào Luật sư cũng phải tôn trọng sự điều khiển của chủ tọa phiên toà. Tránh tình trạng lợi dụng quyền tranh luận để đả kích hoặc c•i nhau tay đôi với người tham gia tranh luận. Nếu qua tranh luận thấy có những vấn đề được nêu ra nhưng chưa xét hỏi hoặc cần phải xem xét thêm chứng cứ thì Luật sư đề nghị với Hội đồng xét xử quyết định trở lại xét hỏi để mọi việc đều được sáng tỏ.
2.4. Phần tuyên án
Khi chủ toạ đọc bản án, Luật sư cần chăm chú lắng nghe để hiểu nội dung bản án, nhất là những nhận định về tội phạm, hình phạt và các quyết định của Hội đồng xét xử. Qua đó Luật sư có thể giúp đỡ bị cáo hoặc đương sự kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm nếu không đồng ý với bản án sơ thẩm. Cùng với việc nghe, Luật sư có thể ghi lại những điểm cần thiết. Cần ghi tóm tắt những nhận định của Toà án về phần tội phạm, vai trò trách nhiệm của bị cáo mà mình bảo vệ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, điều khoản Bộ luật hình sự mà Toà án áp dụng, hình phạt với từng bị cáo và các quyết định bồi thường thiệt hại (nếu có).
Theo quy định của pháp luật, sau khi Toà tuyên án thì bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận. Đây là một quyền rất quan trọng, giúp cho những người tham gia tố tụng có điều kiện kiểm tra biên bản phiên toà, qua đó có thể phát hiện ra những điểm biên bản phiên toà phản ánh không đúng diễn biến của phiên toà để kịp thời yêu cầu Toà án sửa chữa, bổ sung. Đối với những vụ án diễn biến phức tạp, Toà án không chấp nhận quan điểm của Luật sư hoặc khi xét hỏi, tranh luận thấy thư ký rất ít ghi chép thì Luật sư cần đề nghị với Toà án cho xem biên bản phiên toà. Nếu bị cáo hoặc đương sự đề nghị xem biên bản phiên toà thì Luật sư giúp đỡ họ và thống nhất về những điểm cần sửa chữa, bổ sung. Trong trường hợp Toà án không chấp nhận yêu cầu sửa chữa, bổ sung vào biên bản phiên toà thì Luật sư ghi rõ các yêu cầu của mình gửi cho Toà án để vào hồ sơ vụ án.