Hiển thị các bài đăng có nhãn tài sản bảo đảm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tài sản bảo đảm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ QUYỀN ĐÒI NỢ

Thế chấp quyền đòi nợ trao cho bên nhận thế chấp quyền ưu tiên thanh toán đối với khoản nợ được thế chấp. Việc thực hiện quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận thế chấp quyền đòi nợ phải được đặt trong mối liên hệ giữa thời điểm đến hạn của nghĩa vụ được bảo đảm và thời điểm đến hạn của quyền đòi nợ được thế chấp. Dù pháp luật về giao dịch bảo đảm đã có các quy định riêng điều chỉnh việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ (khoản 3 điều 59 và điều 66 của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm được bổ sung, sửa đổi năm 2012) song nhìn chung các quy định này vẫn chưa đề cập được một cách triệt để số phận của bên nhận thế chấp quyền đòi nợ trong mối tương quan này.
1. Nguyên tắc chung về phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ 
Do quyền đòi nợ là một loại tài sản đặc biệt, điều 59 của Nghị định 163 về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận dành riêng khoản 3 để quy định về phương thức xử lý tài sản bảo đảm này. Theo đó, bên nhận thế chấp quyền đòi nợ nhận các khoản tiền (được hiểu là giá trị của khoản nợ đến hạn) hoặc tài sản từ người thứ ba. Theo quy định tại khoản 1, điều 66, người thứ ba ở đây là người có nghĩa vụ trả nợ.
Như vậy, phương thức bán trực tiếp tài sản bảo đảm vốn được áp dụng rất phổ biến cho các loại tài sản thế chấp khác không được áp dụng để xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, bởi vì dù tài sản là quyền đòi nợ được thế chấp nhưng chính đối tượng của quyền đòi nợ tức là khoản tiền sẽ thu được trong tương lai khi đến hạn mới là cái mà bên nhận thế chấp quyền đòi nợ hướng tới và là chất của tài sản bảo đảm. Cách thức liệt kê tại điều 59 này được hiểu là đối với thế chấp quyền đòi nợ, trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận các phương thức xử lý tài sản bảo đảm nêu trên. Điều 66, Nghị định 163 khi đề cập tới việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ một lần nữa nhắc lại nguyên tắc này, theo đó, bên nhận bảo đảm (bên nhận thế chấp quyền đòi nợ) có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ chuyển giao các khoản tiền hoặc tài sản khác cho mình hoặc cho người được ủy quyền.
Dù khoản 1 và khoản 2 điều 58 của Nghị định 163 đưa ra một nguyên tắc chung là trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản bảo đảm được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các điều từ 65 đến 68 của Nghị định 163 đưa ra phương thức xử lý một số tài sản bảo đảm đặc biệt (bao gồm động sản, quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, vận đơn, thẻ tiết kiệm, quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất) trong đó có nêu các trường hợp có thể áp dụng phương thức đấu giá để xử lý tài sản bảo đảm (chẳng hạn đối với động sản – điều 65 – hay quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất – điều 68). Nếu đọc kết hợp các điều này có thể suy luận rằng cơ chế bán đấu giá không được áp dụng để xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ. Đây là cách tiếp cận hợp lý của nhà làm luật bởi vì bán đấu giá không phù hợp hay nói cách khác không có nghĩa lý gì đối với một khoản nợ và giả sử nếu bán đấu giá khoản nợ được thực hiện thì người mua dường như cũng chỉ có ý định đầu cơ mà thôi.
Tuy vậy, hạn chế dễ nhận thấy của khoản 3, điều 59, Nghị định 163 nằm ở phương thức nhận tài sản khác từ bên có nghĩa vụ trả nợ. Như phân tích ở trên, bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có thể yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ chuyển giao tài sản khác cho mình hoặc cho người được ủy quyền khi xử lý tài sản thế chấp. Tài sản khác ở đây được hiểu là tài sản không phải là khoản tiền tức là vật, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản (điều 163, Bộ luật dân sự). Thực ra, giải pháp nhận tài sản khác từ người có nghĩa vụ trả nợ là không khả thi vì nhiều lý do. Thứ nhất, bên nhận thế chấp có thể nhận tài sản nào từ bên có nghĩa vụ trả nợ để thay thế cho giá trị của khoản nợ khi mà khái niệm tài sản khác có nội hàm quá rộng? Có thể các bên đã thỏa thuận về tài sản này trong hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ nhưng nếu vậy việc thế chấp quyền đòi nợ không còn ý nghĩa nữa bởi vì trong trường hợp này tại sao lại không thế chấp trực tiếp tài sản này mà phải thế chấp quyền đòi nợ? Hơn nữa, quyền đòi nợ về bản chất khi đến hạn sẽ trở thành một khoản tiền và giải pháp tốt nhất cho bên nhận thế chấp là được nhận chính khoản tiền đó thay vì phải nhận một tài sản sau đó phải đem bán mà trong thực tế việc định giá tài sản được dùng để thay thế giá trị quyền đòi nợ là một vấn đề nhạy cảm, trong nhiều trường hợp là yếu tố gây khó khăn cho việc xử lý tài sản bảo đảm. Cuối cùng, nếu như theo câu chữ của các điều 59 và 66 của Nghị định 163, bên nhận thế chấp có hai lựa chọn để xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ thì ngược lại khi phải xử lý tài sản bảo đảm, bên thế chấp có cũng có thể đưa ra lập luận là bên thế chấp có thể thay thế khoản tiền là giá trị của quyền đòi nợ bằng một tài sản khác và đây là điều rất bất lợi cho bên nhận thế chấp quyền đòi nợ.
2. Quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn trước nghĩa vụ được bảo đảm
Tình huống được đặt ra ở đây là quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn trước nghĩa vụ được bảo đảm. Điểm b, khoản 3, điều 22, Nghị định 163 quy định bên có nghĩa vụ trả nợ có quyền từ chối thanh toán cho bên nhận thế chấp nếu bên nhận thế chấp không cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ cho bên có nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, nếu bên nhận thế chấp thận trọng và đã thực hiện việc thông báo này thì sẽ được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán cho mình. Tuy vậy, điểm a, khoản 2, điều 22, Nghị định 163 lại giới hạn việc thực hiện quyền ưu tiên thanh toán này của bên nhận thế chấp quyền đòi nợ ở mỗi một trường hợp là khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ trả nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Nhà làm luật chưa tính đến trường hợp mà quyền đòi nợ đã đến hạn khi nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn trong khi đây không phải là trường hợp hiếm gặp trong thực tế. Đây là một tình huống nhạy cảm, chứa đựng rủi ro đối với cả bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Thực vậy, nếu bên nhận thế chấp đứng ra nhận thanh toán từ bên có nghĩa vụ trả nợ khi nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn và sau đó bên nhận thế chấp có thể không hoàn trả lại khoản tiền này khi mà nghĩa vụ được bảo đảm khi đến hạn được bên thế chấp thực hiện đúng theo thỏa thuận. Hơn nữa trong thời gian chờ đợi nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn, bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có thể lâm vào tình trạng phá sản và bên thế chấp đứng trước nguy cơ khó truy đòi lại khoản tiền mà bên nhận thế chấp quyền đòi nợ đã thu. Về phần mình, bên nhận thế chấp đứng trước nguy cơ bên thế chấp thu khoản nợ và sử dụng khoản tiền thu được và do vậy sẽ làm mất tài sản bảo đảm.
Để cân bằng được lợi ích của cả hai bên, hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ có thể quy định bên nhận thế chấp quyền đòi nợ được quyền nhận thanh toán từ bên có nghĩa vụ trả nợ nhưng có nghĩa vụ phải chuyển số tiền thu được vào một tài khoản mà bên nhận thế chấp quyền đòi nợ đã mở và đứng tên làm chủ tài khoản và tài khoản này bị phong tỏa cho đến khi nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn. Như vậy, lúc này tài sản thế chấp không còn là quyền đòi nợ nữa mà đã trở thành khoản tiền thu được từ bên có nghĩa vụ trả nợ. Nếu khi nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn mà bên thế chấp không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có quyền dùng số tiền có trên tài khoản để thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm và chỉ phải hoàn trả cho bên thế chấp khoản tiền thừa nếu có. Hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ cũng nên quy định nghĩa vụ của bên nhận thế chấp quyền đòi nợ phải hoàn trả khoản tiền đã nhận và đã được chuyển vào tài khoản trong trường hợp bên thế chấp thực hiện đúng nghĩa vụ được bảo đảm.
Một tình huống khác cũng cần được xem xét là do bên có nghĩa vụ được trả nợ không được thông báo về việc thế chấp quyền đòi nợ nên khi quyền đòi nợ đến hạn đã thực hiện việc thanh toán cho bên thế chấp. Nghĩa vụ trả tiền của bên có nghĩa vụ trả nợ được xem như chấm dứt bởi bên có nghĩa trả nợ đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán này (điều 374 và điều 375, Bộ luật dân sự). Do quy định pháp luật còn bỏ ngỏ trường hợp này, nên ngay từ khi xác lập hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ, các bên nên quy định số tiền thu được sẽ ở vị trí thay thế cho quyền đòi nợ được thế chấp và bên thế chấp có nghĩa vụ phải bảo toàn giá trị của số tiền này. Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là trong trường hợp này bên nhận thế chấp đứng trước nguy cơ không kiểm soát được số tiền trên và khó thực hiện được quyền truy đòi nếu như bên thế chấp mất khả năng thanh toán. Điều đó một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của việc thực hiện thông báo về giao dịch thế chấp quyền đòi nợ cho bên có nghĩa vụ trả nợ. Nếu bên có nghĩa vụ trả nợ không thực hiện quyền từ chối thanh toán cho bên nhận thế chấp khi chưa được thông báo về giao dịch thế chấp quyền đòi nợ được quy định tại điểm b, khoản 3, điều 22, Nghị định 163, tức là vẫn thực hiện việc thanh toán cho bên nhận thế chấp, thì việc thanh toán này có giá trị pháp lý hay không hay nói cách khác có làm chấm dứt nghĩa vụ trả tiền của bên này (tức là quyền đòi nợ được thế chấp) hay không ? Thực ra, cần hiểu việc thanh toán của bên có nghĩa vụ trả nợ cho bên nhận thế chấp không phải là việc thanh toán cho bên có quyền (chủ nợ) mà là việc thanh toán cho bên thứ ba có một quyền được nhận thanh toán phát sinh từ hợp đồng thế chấp đã được ký với bên có quyền ban đầu. Nói cách khác, việc thanh toán này làm chấm dứt nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trả nợ và bên này không phải thực hiện thanh toán một lần nữa cho bên thế chấp.
3. Nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn trước quyền đòi nợ được thế chấp
Điểm a, khoản 2 điều 22, Nghị định 163 quy định bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán cho mình khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ (tức là bên thế chấp) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và điểm a, khoản 3 của điều 22 cũng quy định bên có nghĩa vụ trả nợ phải thực hiện việc thanh toán cho bên nhận thế chấp. Trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm và quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn cùng một lúc thì đương nhiên việc áp dụng quy định này không đặt ra vấn đề gì. Tuy vậy không phải lúc nào thời điểm đến hạn của nghĩa vụ được bảo đảm và thời điểm đến hạn của quyền đòi nợ cũng trùng nhau và có vẻ nhà làm luật chưa tính đến trường hợp này. Thực vậy, liệu khi nghĩa vụ được bảo đảm đã đến hạn nhưng quyền đòi nợ chưa đến hạn và bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ phải lập tức thanh toán cho mình hay không ? Giao dịch thế chấp quyền đòi nợ không làm gián đoạn, chấm dứt hay thay đổi mối quan hệ hợp đồng ban đầu giữa bên có quyền (bên thế chấp) và bên có nghĩa vụ trả nợ, nói cách khác mối quan hệ hợp đồng này vẫn duy trì bình thường duy chỉ có việc thanh toán khoản nợ là được thực hiện vào tay bên nhận thế chấp chứ không phải bên thế chấp nữa. Điều đó có nghĩa là giao dịch bảo đảm này không thể làm thay đổi thời hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán quyền đòi nợ của bên có nghĩa vụ trả nợ đã được quy định trong hợp đồng. Cho nên, về nguyên tắc, bên nhận thế chấp quyền đòi nợ không thể yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán khi quyền đòi nợ chưa đến hạn mà phải đợi đến thời điểm quyền đòi nợ đến hạn thì mới được nhận thanh toán từ bên có nghĩa vụ trả nợ. Về điểm này, điều 355 của Bộ luật dân sự về xử lý tài sản thế chấp nói chung dẫn chiếu tới việc áp dụng điều 338 về xử lý tài sản cầm cố của bộ luật này. Theo đó, tài sản bảo đảm được xử lý và thanh toán cho bên nhận bảo đảm và nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phải trả lại cho bên bảo đảm, còn nếu thiếu thì bên bảo đảm phải trả tiếp phần còn thiếu đó. Áp dụng nguyên tắc này vào giao dịch thế chấp quyền đòi nợ, nếu các khoản tiền mà bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán cho bên nhận thế chấp quyền đòi nợ lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận thế chấp quyền đòi nợ phải hoàn trả phần chênh lệch cho bên thế chấp quyền đòi nợ bởi vì bên nhận thế chấp quyền đòi nợ không thể được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật[2]. Việc đợi quyền đòi nợ đến hạn để yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán được xem là cách thức đơn giản nhất để xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ.
Tuy nhiên điều gì xảy ra nếu trong quá trình chờ đợi này, bên thế chấp lâm vào tình trạng phá sản? Khoản 3, điều 27 của Luật phá sản quy định kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với các chủ nợ có bảo đảm phải tạm thời đình chỉ, trừ trường hợp được Tòa án cho phép. Về lý thuyết, quyền đòi nợ thuộc khối tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản (khoản 1, điều 49, Luật phá sản) nên việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ cũng chịu sự hạn chế này. Tuy nhiên xử lý tài sản bảo đảm được hiểu là việc bên nhận thế chấp thực hiện quyền ưu tiên thanh toán của mình đối với tài sản thế chấp theo các căn cứ nêu trong hợp đồng thế chấp. Điều 56, Nghị định 163 nêu hai trường hợp xử lý tài sản phổ biến đó là :
- Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ,
- Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp chúng ta đang xét, có thể lập luận rằng khi bên thế chấp quyền đòi nợ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ, bên nhận thế chấp có quyền thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm và do quyền đòi nợ chưa đến hạn nên thời gian chờ đợi quyền đòi nợ đến hạn được hiểu là thuộc quá trình xử lý tài sản thế chấp. Nói cách khác quá trình xử lý tài sản thế chấp đã bắt đầu trước khi bên thế chấp lâm vào tình trạng phá sản nên không phải chịu việc tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm nêu trên. Tuy vậy, cách hiểu này cũng khá mong manh bởi vì thực chất đây là quá trình chờ xử lý tài sản bảo đảm, tức là chưa xử lý tài sản bảo đảm nên nhiều khả năng vẫn bị áp dụng nguyên tắc tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm nhất là khi bên thế chấp vẫn là chủ sở hữu của quyền đòi nợ được thế chấp. Có thể thấy trong trường hợp này rủi ro vẫn thuộc về bên nhận thế chấp.
Điều 58 của Nghị định 163 quy định việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo thỏa thuận của các bên và khoản 4, điều 59 cũng quy định mở là ngoài các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận được liệt kê thì các bên vẫn có thể thỏa thuận phương thức xử lý tài sản bảo đảm khác. Do vậy, khi xác lập hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ, các bên có thể quy định việc bên nhận thế chấp nhận chính quyền đòi nợ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp. Tức là bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có thể trở thành chủ sở hữu mới của quyền đòi nợ. Giải pháp này có một số ưu điểm như sau :
- Bên nhận thế chấp không phải chịu sự ràng buộc của nguyên tắc tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm của bên thế chấp lâm vào tình trạng phá sản bởi vì quyền đòi nợ không còn thuộc khối tài sản của bên thế chấp nữa ;
- Do bên nhận thế chấp đã trở thành chủ sở hữu mới của quyền đòi nợ nên có thể thực hiện việc định đoạt quyền đòi nợ (điều 197, Bộ luật dân sự) thông qua việc chuyển giao quyền yêu cầu, đề nghị ngân hàng bao thanh toán để huy động giá trị của quyền đòi nợ trước thời điểm đến hạn.
Một cách xử lý tài sản thế chấp khác mà nhà làm luật có thể tính đến đó là cho phép bên nhận thế chấp được yêu cầu Tòa án trao quyền sở hữu quyền đòi nợ cho mình trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc nhận chính quyền đòi nợ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm (foreclosure). Phương thức xử lý tài sản bảo đảm này giúp bảo vệ tốt hơn quyền lợi của bên nhận thế chấp quyền đòi nợ.
Dù bên nhận thế chấp có thể trở thành chủ sở hữu của khoản nợ thông qua thỏa thuận hay quyết định của Tòa án thì vẫn phải đối diện với nguy cơ bên có nghĩa vụ trả nợ lâm vào tình trạng phá sản và có thể chỉ được nhận thanh toán một phần quyền đòi nợ hoặc thậm chí không được thanh toán khi bên có nghĩa vụ trả nợ không còn tài sản nào. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu bên thế chấp có phải chịu trách nhiệm thanh toán cho bên nhận thế chấp trong các trường hợp này không? Có thể lập luận rằng việc bên nhận thế chấp quyền đòi nợ nhận quyền đòi nợ được thế chấp đồng nghĩa với việc nhận chuyển giao quyền đòi nợ này và do đó phải chịu rủi ro gắn liền với việc chuyển giao theo quy định tại điều 312 của Bộ luật dân sự về không chịu trách nhiệm sau khi chuyển giao quyền yêu cầu. Dù vậy, cần phải nhìn nhận rằng trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, bên nhận thế chấp không có ý định nhận chuyển giao quyền đòi nợ để đầu cơ hay vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá trị danh nghĩa của quyền đòi nợ như trong trường hợp mua bán nợ mà chỉ hướng tới mục đích duy nhất là để được đảm bảo thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm. Hơn nữa, chính điều 312 của Bộ luật dân sự vừa nêu cũng cho phép các bên có thể thỏa thuận về việc bên chuyển giao quyền yêu cầu phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Tuy thế, hiện nay chưa có quy định nào trong pháp luật về giao dịch bảo đảm giải quyết vấn đề này. Để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình, bên nhận thế chấp nên tính đến trường hợp này và đưa vào hợp đồng thế chấp một điều khoản buộc bên thế chấp quyền đòi nợ phải thanh toán giá trị quyền đòi nợ khi bên có nghĩa vụ trả nợ mất khả năng thanh toán.
4. Xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp 
Khoản 2, điều 176 định nghĩa vật phụ « là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính, nhưng có thể tách rời vật chính ». Có vẻ như trong định nghĩa này nhà làm luật chỉ hướng tới vật phụ của các tài sản hữu hình chứ chưa thực sự đề cập tới vật phụ của các tài sản vô hình như quyền đòi nợ. Thực ra, vật phụ của một quyền đòi nợ bao gồm các biện pháp bảo đảm việc thanh toán quyền đòi nợ và lãi suất phát sinh trên giá trị gốc của quyền đòi nợ này.
Theo quy định tại khoản 1, điều 342 của Bộ luật dân sự, trong trường hợp thế chấp toàn bộ động sản, bất động sản có vật phụ thì vật phụ cũng thuộc tài sản thế chấp và trong trường hợp thế chấp một phần động sản, bất động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Tuy pháp luật Việt Nam không đặt ra nguyên tắc theo đó mọi tài sản phải là động sản hoặc bất động sản, nhưng điều 174 của Bộ luật dân sự lại đi theo hướng liệt kê một loạt danh sách các tài sản là bất động sản (đất đai, nhà, công trình gắn liền với đất đai, các tài sản khác gắn liền với đất đai và các tài sản khác do pháp luật quy định là bất động sản[3]) và kết luận rằng mọi tài sản không phải là bất động sản thì sẽ là động sản. Nói cách khác, dường như nhà làm luật muốn áp dụng cách phân chia tài sản thành động sản và bất động sản cho mọi tài sản chứ không chỉ riêng cho các tài sản hữu hình. Theo hướng này, do không có quyền tài sản nào được ghi nhận trong danh sách bất động sản nêu tại khoản 1 điều 174 của Bộ luật dân sự, nên về cơ bản các quyền tài sản (trong đó có quyền đòi nợ) về nguyên tắc đều là động sản vì theo khoản 2 của điều này động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Như vậy, khi áp dụng khoản 1, điều 342 của Bộ luật dân sự nêu trên, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên nhận thế chấp sẽ được nhận cả nợ gốc và tiền lãi của quyền đòi nợ (chẳng hạn nợ gốc và nợ lãi của một khoản vay, hay tiền bán hàng và lãi suất chậm trả nếu có trong khuôn khổ một quyền đòi nợ phát sinh từ một hợp đồng mua, bán hàng hóa) nhằm thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm. Khi quy định về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền, điều 290 của Bộ luật dân sự không quy định rõ thứ tự việc thanh toán khoản gốc và khoản lãi của nghĩa vụ được bảo đảm trong trường hợp thanh toán từng phần tức là các khoản tiền thu được từ việc xử lý quyền đòi nợ không đủ để thanh toán toàn bộ nghĩa vụ được bảo đảm. Điều 338 của Bộ luật dân sự (được áp dụng cho cả việc xử lý tài sản thế chấp theo quy định tại điều 355, Bộ luật dân sự) quy định trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm là khoản vay thì thanh toán cho bên nhận bảo đảm theo thứ tự nợ gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại nếu có. Có thể bù trừ giữa lợi tức phát sinh từ quyền đòi nợ và khoản lãi của nghĩa vụ được bảo đảm.
Các phân tích nêu trên cho thấy quy định hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ còn khá sơ lược, chưa xử lý được triệt để các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm đặt ra trong thực tế. Tất nhiên, về lý thuyết, các bên có thể khắc phục các thiếu hụt pháp lý bằng thỏa thuận của mình. Song trong thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng có đội ngũ pháp chế đủ mạnh hay có khả năng tài chính để tiếp cận với dịch vụ pháp lý của các công ty luật nhằm soạn thảo các hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ với các điều khoản chặt chẽ để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình. Thiết nghĩ, nhà làm luật cần hoàn thiện quy định hiện hành, tạo cơ sở pháp lý chắc chắn cho loại hình giao dịch bảo đảm đối với tài sản đặc biệt là quyền đòi nợ vốn ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản của doanh nghiệp.
Tài liệu tham khảo
1. Laurent Aynès et Pierre Crocq, Les sûretés – La publicité foncière, Defrénois, 6èédition, 2012.
2. Philippe Simler et Philippe Delebecque, Les sûretés – La publicité foncière, Dalloz, 6è édition, 2012.
3. Ross Gilbert Anderson and Jan W.A. Biemans, Reform of assignation in security: lessons from the Netherlands, Edinburgh Law Review 2012.

[2] Về nguyên tắc, theo quy định tại điều 256, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật (unjust enrichment) phải trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu tài sản.
[3] Chẳng hạn, điểm b, khoản 1, điều 6, Luật kinh doanh bất động sản coi quyền sử dụng đất là một bất động sản.
Nguồn: TẠP CHÍ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT SỐ 5 

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

Khi tài sản bảo đảm… không đảm bảo

Xử lý nợ xấu là bài toán phức tạp đòi hỏi cách thức, giải pháp xử lý phải được xem xét, tính toán ở nhiều góc độ.
 
    Tuy nhiên, chỉ nhìn ở phần tài sản bảo đảm của các khoản nợ này, dù chưa có thống kê và chỉ đánh giá ở các vụ việc đã xảy ra thì nguy cơ nợ xấu không có tài sản bảo đảm, không thể thu hồi nợ là không nhỏ.
    66% tài sản bảo đảm của các khoản tín dụng là bất động sản
    Theo Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, trong tổng dư nợ của toàn nền kinh tế, có 72% dư nợ có tài sản bảo đảm, trong đó có 66% là bất động sản; trong 4,9% nợ xấu theo báo cáo của các ngân hàng, trên 80% có tài sản bảo đảm và trong số này có 57% là bất động sản. Cũng theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, đã có 252.000 tỷ đồng nợ xấu được cơ cấu lại và đã xử lý được 12.000 tỷ đồng từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro. Nếu xử lý được khối tài sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản thì việc xử lý nợ xấu sẽ có chuyển biến nhanh chóng và tích cực.
    Cách thức nước Mỹ xử lý nợ xấu trong cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn năm 2008, về nguyên lý, có phần nào giống những gì chúng ta đang muốn làm: mua lại các tài sản có vấn đề, bán lại hoặc nắm giữ tùy thuộc từng loại tài sản để giúp cho thị trường không rớt giá tiếp và khi thị trường phục hồi sẽ bán ra để thu hồi vốn.
    Việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam có thể áp dụng cách thức trên hay không có liên quan đến thực trạng các tài sản có vấn đề, các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, mà đến nay vẫn chưa được làm rõ. Nợ quá hạn của ngân hàng sẽ trở thành nợ xấu và đặc biệt trở thành nợ có khả năng mất vốn khi các tài sản bảo đảm có vấn đề. Một phần nguyên nhân của vấn đề này là cơ chế xử lý tài sản bảo đảm còn bất cập. Hệ thống ngân hàng cần sự hỗ trợ từ các cơ quan tiến hành tố tụng để xử lý đúng thời gian, công bằng và đúng bản chất giao dịch. Tuy nhiên, tình trạng không xử lý được tài sản bảo đảm còn xuất phát từ chính các tài sản này, như có tranh chấp về sở hữu, bị bán cho bên thứ 3 hoặc được thế chấp nhiều lần...
    Trong số 80% nợ xấu được bảo đảm bằng bất động sản, chưa rõ tình trạng ra sao, như tỷ lệ nhà đất có thể xử lý được, có giấy tờ giả, vướng mắc về sở hữu, không đăng ký giao dịch bảo đảm, không lập hợp đồng thế chấp… là bao nhiêu. Từng có rất nhiều trường hợp, khi có nợ quá hạn, ngân hàng đi kiểm tra tình trạng tài sản bảo đảm mới phát hiện tại địa chỉ nhà đất thế chấp không có nhà và cũng không có giấy tờ đất nào như trong hồ sơ vay vốn. Cũng có những vụ ngân hàng không lập hợp đồng thế chấp có công chứng, dẫn đến khách hàng nại ra rằng hợp đồng thế chấp vô hiệu. Thậm chí, trong một vụ việc tranh chấp đang trong quá trình giải quyết, ngân hàng sau khi nhận tài sản thế chấp là nhà đất thì không rõ vì lý do gì đã cởi bỏ thế chấp, dẫn đến tình trạng khách hàng không chịu trả nợ, ngân hàng không có gì để xử lý.
    Có trường hợp DN thế chấp nhà xưởng và không trả được nợ, ngân hàng không có cách nào để phát mại được nhà xưởng đó. Bán một dây chuyền sản xuất không dễ như bán các tài sản khác…
    Muôn vàn tình huống trong thực tế khiến ngân hàng không thể xử lý tài sản bảo đảm là nhà đất, nguyên nhân có thể là chủ quan, từ cả phía ngân hàng và doanh nghiệp, hoặc do khách quan. Gần đây, xảy ra việc một nhóm các ngân hàng “tranh” nhau kho hàng của một DN ngành thép. Các ngân hàng nhận tài sản thế chấp là kho hàng mà không hề biết rằng DN đã cầm cố rất nhiều lần kho hàng này để vay vốn. Đây là tình huống thường xuyên gặp phải khi các ngân hàng cho DN vay và nhận tài sản bảo đảm là kho hàng. Đối với các khoản vay có tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá, nếu lỡ “cầm nhầm” giấy tờ giả, ngân hàng sẽ chịu thiệt hại có thể lên tới hàng trăm tỷ đồng do các giao dịch này tuy không nhiều song đều có giá trị lớn. Vụ Huỳnh Thị Huyền Như là điển hình cho dạng này, các đối tượng đã làm giả hợp đồng tiết kiệm, giấy tờ xác nhận số dư tại một ngân hàng rồi đem đi thế chấp tại các ngân hàng khác.
    Một tình trạng khá phổ biến ở Việt Nam là tài sản của nhiều người được một người đứng tên hoặc đứng tên hộ, dẫn đến tài sản bảo đảm có tranh chấp về sở hữu và ngân hàng không thể xử lý. Trong các trường hợp này, chỉ Tòa án mới có thể đưa ra phán quyết về chủ sở hữu.
    Có thể thấy, việc xử lý nợ xấu được đến đâu còn phụ thuộc rất nhiều vào thực trạng các khoản nợ, các tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm là thứ cuối cùng mà ngân hàng có thể thu được từ người vay. 

    Nguồn: Tinnhanhchungkhoan  

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

Khó như xử lý tài sản bảo đảm

Nợ xấu tăng, kinh doanh khó khăn, các ngân hàng đang gồng mình xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ. Nhưng, nếu như xử lý động sản tương đối thuận lợi thì xử lý bất động sản “khó như bắc thang lên trời” mà nguyên nhân chủ yếu là sự chây ì người vay bên cạnh không ít lỗi từ ngân hàng.
Theo Trưởng ban Pháp chế một ngân hàng thương mại cổ phần, mặc dù Nghị định 163/2006/NĐ-Chính phủ (29/12/2006) về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-Chính phủ (22/2/2012) về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 163, đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là trong các tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và người vay, nhưng thực tế không diễn ra như trong luật đã quy định.

Ngân hàng ngán ngẩm chây ỳ

“Luật quy định là thế  nhưng để bán được tài sản bảo đảm, thu hồi nợ với những khách hàng chây ỳ thì khó như bắc thang lên trời!”, bà nói.  

Thực tế xử lý tài sản bảo đảm ở các ngân hàng hiện nay cho thấy, có hai dạng thường gặp, đó là: tài sản bảo đảm là động sản và tài sản bảo đảm là bất động sản. 

Với tài sản bảo đảm là động sản mà không phải đăng ký quyền sở hữu (máy móc, dây chuyền sản xuất...)  thì theo hai nghị định trên, chỉ cần căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà ngân hàng và người vay đã ký kết, ngân hàng được phép bán qua đấu giá, thu hồi vốn; nếu còn thừa tiền thì chuyển thẳng vào tài khoản cho khách hàng là xong. 

Nhưng, với tài sản bảo đảm là bất động sản (đất, tài sản trên đất...) thì do các tài sản này đòi hỏi phải đăng ký quyền sở hữu và liên quan đến phạm vi điều chỉnh nhiều bộ luật khác. Giả định, khách hàng không chịu ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ngân hàng thì không bao giờ ngân hàng bán được để thu hồi nợ. 

Ngân hàng có thể mang ra tòa nhưng khác với tòa hình sự, hầu hết tội danh đều được quy định khung hình phạt rất rõ trong luật nên dù chưa xử, ở một chừng mực nào đó, vẫn có thể hình dung được bản án ở mức nào. Nhưng với tòa dân sự thì không như vậy, có khi một vụ việc nhưng phán quyết ở hai tòa rất khác nhau, thậm chí đối lập.  

Theo bà trưởng ban pháp chế nói trên, bên cạnh nhiều vụ tòa cứ theo luật là xử thắng cho ngân hàng nhưng không phải tất cả đều được như vậy. Trong nhiều trường hợp, để thu được nợ, ngân hàng phải... quan hệ tốt với tòa, kể cả khi ngân hàng có đủ chứng cứ hợp pháp! “Tốt” ở đây được hiểu là ngoài sự “thân mật”, còn phải trang bị kiến thức cho tòa để tòa hiểu nội tình, bởi lĩnh vực ngân hàng rất chuyên sâu mà không phải thẩm phán nào cũng am hiểu. 

Có được bản án có lợi đã khó nhưng để cơ quan thi hành án làm “ngay và luôn” cho mình là cả vấn đề lớn, bởi cơ quan này cũng rất... bận! 

Theo ông Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, từ 1/10/2011 đến 31/3/2012, các cơ quan thi hành án đã thi hành xong 148.389 trên tổng số 274.231 việc có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 54,11%, thấp hơn 3,94% so với cùng kỳ năm 2011.

Vì thế, ngân hàng cũng phải “sát cánh” với cơ quan này thì mới mong thu được nợ do quyền năng của cơ quan thi hành án có quyền bán đấu giá bất động sản của con nợ để thu nợ cho ngân hàng, bất chấp con nợ có ký giấy chuyển nhượng quyền sở hữu hay không.  

“Giá mà con nợ luôn có ý thức trả nợ và ý thức cùng với ngân hàng xử lý hậu quả khi mất khả năng trả nợ thì sẽ không có chuyện chây ỳ như thế”, bà trưởng ban pháp chế nói trên nói.

Tiên trách kỷ, hậu trách nhân!

Trên thực tế, việc xử lý tài sản bảo đảm ở các ngân hàng khó khăn không chỉ do ý thức chây ỳ của con nợ mà còn ở cả lỗi từ ngân hàng mà cụ thể là sự tuân thủ các quy trình tín dụng (5 bước) cũng như quy định về giao dịch bảo đảm của luật pháp chưa đúng và đủ mà vụ việc lừa đảo liên quan đến ngân hàng NVB và phòng công chứng Việt Tín là một ví dụ. 

Cụ thể, chỉ trong vòng một tháng, ngân hàng NVB đã ký 5 khế ước vay đối với một phụ nữ (chưa từng quan hệ tín dụng với ngân hàng) với tổng giá trị gần 5 tỷ đồng, tài sản đảm bảo là các sổ đỏ mang tên phụ nữ này. Sau khi người này bỏ trốn, ngân hàng mới nhờ cơ quan công an can thiệp. Trong quá trình xác minh, cơ quan công an phát hiện người phụ nữ trên đã cho các hộ dân vay một số tiền rất nhỏ so với giá trị ngôi nhà, sau đó, lừa các hộ dân làm giấy chuyển nhượng giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất cho mình để mang thế chấp vay ngân hàng gần 5 tỷ đồng rồi bỏ trốn. 

Tuy nhiên, khi người viết làm việc với lãnh đạo chi nhánh ngân hàng này và yêu cầu xem hồ sơ thẩm định tài sản thế chấp thì ngân hàng chỉ trưng ra hợp đồng vay vốn của người được cho là lừa đảo và vài tấm ảnh chụp sơ sài mảnh đất ngổn ngang gạch vữa. Trong bức ảnh này không có ảnh chủ nhà (được cho là bị hại), cũng không có ảnh người đứng tên hợp đồng vay vốn.  

Tham gia bảo vệ quyền lợi cho các bị hại ở vụ kiện này, luật sư  nói: “Ngân hàng này còn lâu mới đòi được số nợ này vì vụ án liên quan đến hình sự đã được cơ quan công an khởi tố nên phải chờ phán quyết của tòa hình sự”. Trong khi đó, đối tượng lừa đảo đã bỏ trốn hiện đang truy nã gần hai năm qua nhưng vẫn “bóng chim tăm cá”.

Luật sư  cũng nêu một trường hợp khác là tài sản bảo đảm là lô hàng nhưng khi ngân hàng xuống phát mại thì toàn bộ số hàng đã không còn trong kho.

Ở một ví dụ  khác, người viết từng “mục sở thị” tài sản bảo đảm để vay vốn của một doanh nghiệp thủy sản với một ngân hàng chỉ là những chiếc bàn làm việc có “tuổi thọ” không dưới 5 năm. Đến khi ngân hàng này bị sáp nhập, những cán bộ của ngân hàng sáp nhập đã rất bất bình vì không hiểu tại sao bàn làm việc lại có thể là tài sản bảo đảm!

Bởi vậy, theo ông, không ít hồ sơ kiện tụng liên quan đến tranh chấp dân sự giữa khách hàng vay vốn và ngân hàng, đã cho thấy, ngân hàng chưa hoàn toàn làm đúng quy trình nội bộ và quy định luật pháp” và đó cũng là một nguyên nhân làm cho quá trình xử lý tài sản bảo đảm trở nên chậm trễ.
(Theo VnEconomy)