Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012

Vấn đề định tội trong trường hợp: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự – Một số vấn đề cần trao đổi.


Điểm d khoản 2 Điều 139 Bộ luật Hình sự (BLHS) – Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định về tình tiết định khung “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức”. Về tình tiết “Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức” đã được làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn trong áp dụng luật Hình sự.
Đối với tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, trong áp dụng pháp luật còn có một số điểm vướng mắc nhất định, cần thiết phải nghiên cứu, trao đổi làm sáng tỏ để nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật Hình sự trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tình tiết mới được quy định trong BLHS năm 1999. Theo Từ điển tiếng Việt thì “Lợi dụng” là một động từ gồm hai nghĩa: một là, dùng vào việc gì có ích; hai là, thừa dịp mưu ích riêng cho mình. Trong trường hợp này chúng ta nên hiểu theo nghĩa thứ hai và nếu phát triển theo ngữ nghĩa ấy thì tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” trong luật Hình sự được hiểu là dựa vào phần việc phải làm theo chức vụ, quyền hạn để mưu lợi ích riêng cho cá nhân. Nghĩa là dựa vào quyền năng (quyền hành) do chức vụ, quyền hạn mang lại để thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, trong trường hợp này chức vụ, quyền hạn đã được người phạm tội sử dụng như một phương tiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. Biểu hiện cụ thể của trường hợp này là người phạm tội đã sử dụng quyền năng của mình vào việc thực hiện hành vi gian dối,làm cho người khác tin nhầm tưởng giả là thật mà trao tài sản để chiếm đoạt. Nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 – BLHS năm 1999, chúng ta nhận thấy rằng, về mặt lập pháp tội phạm này đã được xây dựng dựa trên cơ sở ba điều luật của BLHS năm 1985 đó là: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (XHCN) (Điều 134); Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN (Điều 134 a) và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 157). Trong BLHS năm 1985 tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được nhà làm luật xây dựng cấu thành một tội phạm độc lập, đó là tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 156). Do vậy, trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian dối (lừa đảo) để chiếm đoạt tài sản và tài sản đó là tài sản của công dân và trong khi thực hiện tội phạm có tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì họ bị xử lý về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân theo Điều 156 của BLHS 1985. Trong nhiều giáo trình, sách tham khảo luật Hình sự đã mô tả hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân là hành vi chiếm đoạt tài sản của công dân bằng thủ đoạn lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Biểu hiệncủa hành vi phạm tội này thông thường được hiểu bao gồm các dạng hành vi đó là: Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần chủ tài sản buộc họ phải giao tài sản; lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối (gian dối) để chiếm đoạt tài sản; chiếm đoạt tài sản đã được chủ tài sản giao cho mà việc giao này là do tin vào chức vụ, quyền hạn của người chiếm đoạt (lạm dụng lòng tin). Các dạng hành vi chiếm đoạt tài sản nêu trên về cơ bản cũng giống như hành vi khách quan của các tội cưỡng đoạt tài sản (uy hiếp tinh thần), lừa đảo chiếm đoạt tài sản (gian dối) và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (bội tín), điểm khác cơ bản so với các tội danh đó là có tình tiết lạm dụng chức vụ, quyền hạn khi thực hiện hành vi phạm tội. Chính vì lẽ đó mà trong các tội cưỡng đoạt tài sản công dân, lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân trong BLHS năm 1985 trước đây không có quy định về tình tiết định khung là “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”.
Hiện nay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 280 thuộc chương các tội phạm về chức vụ của BLHS năm 1999. Nghiên cứu quy định của điều luật cho thấy, về phạm vi trách nhiệm hình sự của tội phạm này được áp dụng rộng hơn và được thể hiện ở chỗ không chỉ xác định đối tượng tác động chỉ là tài sản công dân như BLHS 1985 mà bao gồm cả tài sản Nhà nước, tài sản của tổ chức hoặc tài sản của công dân. Dựa trên cơ sở mở rộng về phạm vi trách nhiệm hình sự và việc xác định lại chính xác khách thể bị xâm hại của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280), tội phạm này đã được tách ra khỏi chương các tội xâm phạm sở hữu và quy định trong chương các tội phạm về chức vụ như BLHS hiện hành là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, hiện nay trong đa số các giáo trình, sách chuyên khảo luật Hình sự khi đề cập về dấu hiệu định tội của tội phạm này, cũng chỉ mô tả hành vi phạm tội dựa trên cơ sở biểu hiện ở ba dạng hành vi giống như giáo trình, sách chuyên khảo luật Hình sự được áp dụng cho BLHS năm 1985, đó là: Hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn để uy hiếp tinh thần, hoặc lừa dối và hoặc lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản. Theo chúng tôi đây là vấn đề chưa thật sự hợp lý và cần thiết phải nghiên cứu, trao đổi nhằm vận dụng chính xác pháp luật Hình sự trong thực tiễn. Bởi vì, ở đây chúng ta sẽ gặp phải một vấn đề là trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản mà đều có tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” thì khi nào thuộc về tình tiết định khung quy định tại điểm d khoản 2 Điều 139 (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) và khi nào thuộc về dấu hiệu định tội quy định tại Điều 280 – BLHS (Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản). Trong trường hợp này dưới góc độ lý luận chúng ta có thể dễ dàng để phân biệt được, nếu dựa trên cơ sở tiếp cận ngữ nghĩa của các gốc từ “lợi dụng” hoặc “lạm dụng” và trên cơ sở phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm. Song dưới góc độ thực tiễn, nhất là khi vận dụng tình tiết định khung và dấu hiệu định tội nêu trên để giải quyết trong từng vụ án cụ thể lại gặp rất nhiều khó khăn. Đó là việc vận dụng và áp dụng không thống nhất và thậm chí là có sự “mâu thuẫn” giữa các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở các địa phương khác nhau. Thực tiễn này cho thấy nếu không có sự “phân định” rạch ròi thì sẽ dẫn đến một tình trạng là đối với một vụ án về cơ bản là giống nhau, nhưng ở các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau thì việc vận dụng các tình tiết định khung và định tội khác nhau để xử lý. Chúng tôi xin được đưa ra ví dụ sau đây để làm rõ cho vấn đề đã nêu ở trên:
Trường hợp 1: Điều tra viên A đang trực tiếp thụ lý điều tra vụ án cướp giật tài sản mà B là thủ phạm. Trong quá trình điều tra A đã lợi dụng vị trí công tác của mình để gặp gỡ thân nhân của B và hứa giúp đỡ B được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì lý do đó nên A đã nhận được từ gia đình B số tiền là 50.000.000,00 đồng, nhưng thực chất A không giúp gì cả. Khi thấy B vẫn bị xử lý hình sự, gia đình B đã làm đơn tố cáo về hành vi của A và A bị bắt. Tại cơ quan điều tra A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Trường hợp 2: Các tình tiết vụ án hoàn toàn giống như ở trường hợp một ở trên và chỉ có một điểm khác cơ bản so với trường hợp một là: A là điều tra viên trong cơ quan điều tra đó, nhưng A không phải là người đang trực tiếp thụ lý điều tra vụ án của B.
Khi gặp các trường hợp này trong thực tiễn chúng ta xác định cả hai trường hợp này chỉ phạm vào một tội là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, với tình tiết định khung “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” hoặc hai trường hợp này phạm vào hai tội danh khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất A phạm vào tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và ở trường hợp thứ hai A phạm vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong các dẫn chứng nêu trên, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải phân biệt chính xác về tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn là thuộc về dấu hiệu định tội của Điều 280 – BLHS hoặc thuộc về tình tiết định khung của Điều 139 – BLHS và đây là cơ sở quan trọng nhất để định tội danh và vận dụng đúng đắn pháp luật Hình sự, đây cũng là một vấn đề gặp không ít khó khăn trong thực tiễn. Theo chúng tôi, cả hai trường hợp nêu trên chỉ nên xác định phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 – BLHS thì mới đảm bảo được tính thống nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.
Xuất phát từ những lập luận đã trao đổi trên đây và để nhằm góp phần vận dụng chính xác tình tiết định khung “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 139 – BLHS trong thực tiễn, chúng tôi xin có một số ý kiến như sau:
- Một là, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn chi tiết về tình tiết định khung thuộc điểm d khoản 2 Điều 139 – BLHS.
- Hai là, trong thực tiễn áp dụng luật Hình sự, nên vận dụng thống nhất theo hướng xác định những hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản có tình tiết sử dụng chức vụ, quyền hạn như một điều kiện, một phương tiện để thực hiện hành vi trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc Điều 139 – BLHS.
- Ba là, trong công tác nghiên cứu, giảng dạy đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280) không nên mô tả các dạng hành vi khách quan như các giáo trình, sách tham khảo hiện nay đang đề cập mà chỉ nên mô tả hành vi là: Hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và được thể hiện bằng các dạng hành vi cụ thể là hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi lạm dụng lòng tin để chiếm đoạt tài sản. Còn đối với trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để thực hiện tội phạm thì nên coi đây là một trường hợp phạm tội thuộc điểm d khoản 2 Điều 139 – BLHS (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tình tiết định khung là lợi dụng chức vụ, quyền hạn).
Những vấn đề đã đưa ra trong phạm vi bài viết này chỉ mang tính chất nghiên cứu, trao đổi. Chúng tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và quý bạn đọc để nhằm đạt tới mục đích cuối cùng là hiểu đúng bản chất và vận dụng chính xác về tình tiết định khung “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” quy định điểm d khoản 2 Điều 139 – BLHS trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử ĐH Cảnh sát nhân dân (http:www.pup.edu.vn)

Phương hướng hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự


Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà án cấp huyện, Toà án cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu.
Theo pháp luật tố tụng Việt Nam hiện hành, thì xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện. Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao cửa quyền tư pháp, tại phiên toà quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất; những lo âu của bị cáo, người bị hại và của những người tham gia tố tụng khác được giải toả tại phiên toà. Tâm lý nói chung đối với những người tham gia tố tụng là mong muốn vụ án nhanh được đưa ra xét xử để họ biết được Toà án sẽ phán quyết như thế nào.
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật. Thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Cũng thông qua phiên toà mà Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư nâng cao được trình độ nghiệp vụ năng lực công tác và kỹ năng nghề nghiệp; thông qua phiên toà, những người dự phiên toà hiểu biết thêm về pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào Toà án. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ thẩm tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà còn có tác dụng đối với việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân.
I - NHỮNG VƯỚNG MẮC VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003
1. Về thẩm quyền
Theo quy định của pháp luật thì Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu (gọi chung là Toà án cấp tỉnh) xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định trường hợp nào không thuộc thẩm quyền mà lại lấy nên để xét xử dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, có vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện nhưng ngay từ khi khởi tố vụ án đã do Cơ quan điều tra cấp tỉnh thực hiện nên đến khi kết thúc điều tra, lập cáo trạng đều do cấp tỉnh và mặc nhiên Toà án cấp tỉnh thụ lý xét xử sơ thẩm.Việc Toà án cấp tỉnh thụ lý xét xử không đúng thẩm quyền lại được giải thích rằng, có trường hợp đã truy tố ở cấp huyện mà Toà án cấp tỉnh còn có quyền lấy nên để xét xử huống chi vụ án này do Cơ quan điều tra cấp tỉnh khởi tố, kết luận điều tra, Viện kiểm sát cấp tỉnh truy tố ra Toà án cấp tỉnh thì không có lý do gì Toà án cấp tỉnh lại từ chối xét xử. Lý giải như vậy, rõ ràng là không thuyết phục, lấy nên để xét xử khác với thẩm quyền xét xử.
Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý và những người tuy không thuộc các đối tượng trên nhưng hành vi phạm tội của họ có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
Thực tiễn xét xử, thường xảy ra tranh chấp giữa Toà án quân sự với Toà án nhân dân trong trường hợp dân thường phạm tội mà hành vi của họ có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Bí mật quân sự đã có quy định nhưng “gây thiệt hại cho quân đội” bao gồm những thiệt hại nào thì chưa có quy định.
Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự nhưng bản án không chỉ có các quyết định về hình sự mà còn có cả các quyết định về dân sự. Nếu phần dân sự trong vụ án hình sự bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ để giải quyết lại, nếu đúng theo quy định của pháp luật thì Toà án quân sự không có thẩm quyền xét xử lại phần dân sự trong vụ án hình sự đó nữa mà phải thuộc Toà án nhân dân. Tuy nhiên, nếu giao cho Toà án nhân dân giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự mà vụ án hình sự đó lại do Toà án quân sự đã xét xử thì không phù hợp, việc chuyển giao hồ sơ vụ án cũng rất phức tạp. Để khắc phục tình trạng này, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lại hướng dẫn, nếu phần dân sự trong vụ án hình sự bị huỷ để giải quyết lại thì dù vụ án đó do Toà án nhân dân xét xử hay Toà án quân sự xét xử thì bản án xét xử lại phần dân sự trong vụ án hình sự vẫn là “bản án hình sự”, trong khi đó những người tham gia tố tụng tố tụng được ghi trong bản án không phải là bị cáo, người bị hại, mà là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự dân sự.
Theo quy định của pháp luật thì Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Toà án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Toà án có thẩm quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc việc điều tra.
Hiện nay có nhiều trường hợp tội phạm được thực hiện ở một nơi hoặc nhiều nơi nhưng không do Cơ quan điều tra địa phương khởi tố, kết thúc điều tra, mà do Cơ quan điều tra Bộ Công an khởi tố, kết thúc điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra bản cáo trạng và uỷ quyền cho Viện kiểm sát địa phương nơi Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án tham gia phiên toà sơ thẩm để bảo vệ bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây cũng là vấn đề thực tiễn xét xử gặp nhiều vướng mắc, nhất là đối với Kiểm sát viên tham gia phiên toà; nhiều trường hợp không bảo vệ được cáo trạng vì không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 3 Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Toà án. Nếu bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì chỉ có 3 ngày, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án đó, Kiểm sát viên được uỷ quyền tham gia phiên toà không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhiều vụ án, do không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, nên tại phiên toà Kiểm sát viên lúng túng không chỉ khi xét hỏi mà khi luận tội cũng như tranh luận với người bào chữa gặp rất nhiều khó khăn; có trường hợp Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì, khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền mình thì Toà án chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử, Việc chuyển vụ án cho Toà án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính tương đương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu quyết định. Chỉ được chuyển vụ án cho Toà án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Toà án quyết định.
Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự hoặc Toà án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Toà án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định. Việc chuyển vụ án phải được thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định; việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều tra quyết định; việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Toà án quân sự do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền, chỉ do Chánh án Toà án quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vấn đề tranh chấp về thẩm quyền không chỉ xảy ra giữa các Toà án với nhau mà còn xảy ra giữa Toà án với Viện kiểm sát nhưng Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định ai chịu trách nhiệm giải quyết. Ví dụ: Toà án A thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án mình nên chuyển cho Toà án B có thẩm quyền để xét xử, Toà án B tiếp nhận vụ án cũng thấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án mình, nhưng Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án B không đồng ý, nên không thay đổi Bản cáo trạng truy tố bị cáo ra Toà án B. Nhiều trường hợp do không có sự thống nhất giữa Viện kiểm sát và Toà án nên vụ án phải trả về Toà án không có thẩm quyền xét xử để xét xử vụ án đó không đúng thẩm quyền (biết sai mà không khắc phục được).
2. Về giới hạn của việc xét xử
Theo quy định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự thì, khi xét xử sơ thẩm Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử.
Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát  truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Nếu theo quy định này, thì Toà án không được xét xử bị cáo về tội năng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị cáo A về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự nhưng Toà án thấy bị cáo A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự, nên đã trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung (thực chất là để truy tố lại), nhưng Viện kiểm sát không nhất trí với ý kiến của Toà án. Do đó, buộc Toà án phải dưa vụ án ra xét xử, kết quả xét hỏi, tranh luật tại phiên toà cả Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử đều thấy bị cáo phạm tội giết người chứ không phải tội cố ý gây thương tích nhưng lại không cho Toà án xét xử bị cáo A về tội giết người. Đây là vấn đề đã nhiều lần được thảo luận trong các hội thảo khoa học, trên các tạp chí chuyên ngành, trong quá trình soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng hình sự nhưng cho đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục.
3. Về người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng 
a).  Về người tiến hành tố tụng
Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam những người tham gia phiên toà được chia thành hai loại gồm: người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
 Người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Toà án và Kiểm sát viên.
Người tham gia tố tụng gồm có: Bị cáo; người bào chữa; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch.
Trong số những người tiến hành tố tụng thì Chánh án, Phó chánh án Toà án là chức danh quản lý theo luật tổ chức, đồng thời là người đại diện cơ quan tiến hành tố tụng và là người tiến hành tố tụng. Là người đại diện cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng Bộ luật tố tụng hình sự lại không quy định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của Chánh án, Phó chánh án Toà án với tư cách là người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng khác với tư cách người tiến hành tố tụng như thế nào, mà chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Toà án (Điều 38 BLTTHS). Nội dung của Điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự chủ yếu quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đối với người tiến hành tố tụng. Do đó trong thực tiễn xét xử khó có thể phân biệt khi nào Chánh án, Phó Chánh án Toà án thực hiện nhiệm vụ với tư cách là người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng, khi nào với tư cách người tiến hành tố tụng. Ví dụ: Chánh án quyết định tạm giam bị cáo thì việc ra quyết định tạm giam là với tư cách người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng hay với tư cách người tiến hành tố tụng. Việc khiếu nại quyết định này của Chánh án sẽ được giải quyết như thế nào, nếu có căn cứ Chánh án ra quyết định tạm giam đối với bị cáo là không vô tư ? Trường hợp Chánh án trực tiếp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo Điều 39 hay cả Điều 38 Bộ luật hình sự, ai là người phân công cho Chánh án xét xử vụ án hình sự ?
Đối với Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, được giao nhiều quyền, trừ quyền ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam. Đây cũng là vấn đề cần xem xét lại, vì việc quy định cho Chánh án, Phó Chánh án mới là người có quyền này chủ yếu là đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng nhưng lại không phù hợp với thực tiễn xét xử, vì Thẩm phán mới là người nghiên cứu hồ sơ vụ án, mới biết được bị cáo có cần phải áp dụng hoặc thay đổi biện pháp tạm giam hay không. Giả thiết, Thẩm phán đề xuất với Chánh án cần phải thay đổi biện pháp tạm giam cho bị cáo nhưng Chánh án không đồng ý thì Thẩm phán có quyền khiếu nại quyết định của Chánh án hay không, trong khi đó Thẩm phán có quyền quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, còn tại phiên toà thì Thẩm phán còn có quyền bắt giam hoặc tha bị cáo.
Thẩm phán không có quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa cũng là vấn đề cần phải xem xét lại, bởi lẽ không có lý do gì lại không cho Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, không ai hiểu nội dung vụ án, cũng như các mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng bằng Thẩm phán, vì thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán có thể biết người bào chữa có thuộc trường hợp bắt buộc hay không bắt buộc, có thuộc trường hợp phải thay đổi hay không. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc gây phiền hà cho Luật sư, vì không phải lúc nào Chánh án, Phó Chánh án cũng có mặt tại trụ sở để xem xét việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư. 
Trong giai đoạn xét xử, Thẩm phán chủ toạ phiên toà là người điều khiển phiên toà, nhưng do tư duy cũ và thói quen của Thẩm phán từ thế hệ này qua thế hệ khác quá tập trung vào việc “khuất phục” bị cáo nên không quan tâm đến việc điều khiển phiên toà nhất là điều khiển việc tranh luận giữa người bào chữa (Luật sư) với Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Đây là khâu yếu nhất của Thẩm phán chủ toạ phiên toà hiện nay.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định khi xét hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.(Điều 209 BLTTHS), nhưng trên thực tế hầu hết các phiên toà hiện nay, chủ toạ phiên toà không để cho bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trang và những tình tiết của vụ án, mà chủ toạ phiên toà đặt ngay các câu hỏi theo diễn biến sự việc mà nội dung bản cáo trạng nêu. Thực tế thì Thẩm phán chủ toạ phiên toà hỏi là chính, hỏi hết cả phần của Kiểm sát viên và người bào chữa; hỏi như một Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên hỏi bị can trong giai đoạn điều tra; Thẩm phán không chỉ hỏi mà còn giáo dục bị cáo, bình luận, nhận xét, tỏ thái độ đối với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; tại phiên toà sơ thẩm người ta chỉ thấy chủ toạ phiên toà nói. Chủ toạ phiên toà không chỉ hỏi mà còn giải thích, cho bị cáo và những người tham gia tố tụng về Bộ luật hình sự, trong khi đó thì lại không giải thích cho bị cáo và những người tham gia tố tụng về quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự cũng chưa có quy định tại phiên toà những người tham gia tố tụng được hỏi lẫn nhau, trong khi đó ở giai đoạn điều tra, lại có quy định khi đối chất Điều tra viên có thể cho những người đối chất được hỏi lẫn nhau (Điều 138 BLTTHS).
Đối với Hội thẩm, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán chủ toạ phiên toà, mọi quyết định của Hội đồng xét xử được biểu quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế thì rất ít Hội thẩm thực hiện đúng trách nhiệm và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho mình, Chế định Hội thẩm tham gia xét xử còn nặng tính hình thức, Hội thẩm còn ỷ lại quá nhiều vào Thẩm phán, không có tư duy độc lập; các quyết định của Hội đồng xét xử chủ yếu do Thẩm phán chủ toạ phiên toà đưa ra và Hội thẩm chỉ đồng ý; rất ít vụ án bản án của Hội đồng xét xử được thông qua tại phòng nghị án. Công tác lựa chọn, bầu hoặc cử Hội thẩm cũng chưa được quan tâm, đặc biệt việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm chưa đáp ứng yêu cầu. 
Thư ký Toà án được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau: Phổ biến nội quy phiên toà; báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà; ghi biên bản phiên toà; tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án (Điều 41 BLTTHS). Thực tế cho thấy, việc ghi biên bản phiên toà của Thư ký Toà án hiện nay là vấn đề yếu nhất; Thư ký Toà án ở các Toà án hiện nay đều là sinh viên đại học luật mới ra trường, không được đào tạo nghề (Thư ký); việc tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu; hầu hết biên bản phiên toà hiện nay không phản ảnh đầy đủ và trung thực diễn biến phiên toà, do Thư ký Toà án không ghi chép kịp.
Kiểm sát viên tham gia phiên toà hình sự sơ thẩm để thực hiện quyền công tố. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên toà đã được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên là người công bố bản cáo trạng, bổ sung cáo trạng hoặc rút cáo trạng tại phiên toà; tham gia cùng với Hội đồng xét xử xét hỏi tại phiên toà, trình bày lời luận tội, tranh luận với người bào chữa hoặc bị cáo; đưa ra chứng cứ hoặc yêu cầu, trong đó có quyền yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án. Thực trạng hiện nay cho thấy có nhiều trường hợp Kiểm sát viên ít tham gia xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để chứng minh tội phạm, mà ỷ lại cho chủ toạ phiên toà; khi trình bày lời luận tội tại phiên toà không căn cứ vào kết quả xét hỏi mà lại căn cứ vào Bản cáo trạng, mặc dù kết quả xét hỏi tại phiên toà đã có nhiều nội dung không đúng với bản cáo trạng; đặc biệt sau khi người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo và đề nghị Kiểm sát viên tranh luận về từng vấn đề mà người bào chữa (Luật sư) nêu ra, nhưng một số Kiểm sát viên không tranh luận lại, thậm chí chỉ nói một câu “vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố”, cá biệt có Kiểm sát viên từ chối tham gia phiên toà mà không có lý do chính đáng.
b).  Về người tham gia tố tụng
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm bao gồm: Bị cáo; người bào chữa; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch.
Trong số những người tham gia tố tụng thì bị cáo là nhân vật trung tâm. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng nhằm tới việc xác định bị cáo có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì phạm tội gì, mức hình phạt bao nhiêu, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thế nào…Là bị cáo, họ chưa bị coi là người có tội, họ chỉ là người bị cáo buộc về một tội phạm nào đó theo Bộ luật hình sự, nên họ phải được đối xử như đối với một người bình thường khác. Cũng chính vì vậy mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền của bị cáo rất đầy đủ và cụ thể để họ tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ cho mình trước lời cáo buộc của Viện kiểm sát tại phiên toà.  Tuy nhiên, trực trạng hiện nay, do nhận thức chưa đúng nên trước phiên toà bị cáo bị đối xử như người đã có tội; Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và ngay cả những người tham dự phiên toà cũng coi bị cáo là người đã có tội.
Để bảo vệ các quyền của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
 Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý. Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm góp phần bảo vệ công lý. Hiện nay cả nước có hơn 6.250 Luật sư và hơn 3000 thực tập làm nghề Luật sư. Theo đánh giá của Liên đoàn Luật sư thì vị thế của Luật sư đã được nâng cao rõ rệt; các cơ quan tiến hành tố tụng tôn trọng, tạo thuận lợi hơn cho Luật sư khi hành nghề; các Đoàn Luật sư được địa phương quan tâm hơn, hỗ trợ nhiều hơn vè kinh phí, cơ sở vật chất. Tuy nhiên, số lượng Luật sư phân bổ chưa đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, mới có khoảng 20% vụ án hình sự có Luật sư tham gia; Luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại còn ít. Trình độ, năng lực của Luật sư cũng còn hạn chế; còn vi phạm đạo đức nghề nghiệp; cá biệt có Luật sư lợi dụng hành nghề để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lợi dụng diễn đàn để tuyên truyền chống nhà nước ảnh hưởng uy tín của Luật sư…
Ngoài Luật sư, người bào chữa có thể là người đại diện hợp pháp của người bị cáo. Người đại diện hợp pháp là bố mẹ để, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.
Ngoài ra, người bào chữa còn có thể là Bào chữa viên nhân dân. Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, chế định bào chữa viên nhân dân hiện nay vẫn chưa có nên thực tiễn không ít trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho họ vì rất khó xác định họ có phải là bào chữa viên nhân dân hay không ?
Ngoài bị cáo, Bộ luật hình sự Việt Nam còn quy định những người tham gia tố tụng khác như: Người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch; người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Trong số những người tham gia tố tụng trên, có người bị hại là người mà thực tiễn xét xử còn nhiều vướng mắc, một phần do Bộ luật tố tụng hình sự quy định không rõ ràng, phần còn lại là do nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng không thống nhất.
Bộ luật tố tụng hình sự cũng như Bộ luật hình sự không có quy định đối với tội phạm nào thì có người bị hại, còn tội phạm thì không, nên thực tiễn xét xử có Toà án xác định là người bị hại có Toà án chỉ xác định là nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án như: đối với tội chống người thi hành công vụ hoặc đối với tội gây rối trật tự công cộng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì trường hợp nào có người bị hại, trường hợp không có người bị hại ? Các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương cũng không thấy hướng dẫn.
Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bị hại chỉ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo, nhưng theo quy định tại đoạn 1 Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm, nên cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng như người tham gia tố tụng đều hiểu rằng, người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, kể cả tội danh, hình phạt và các quyết định khác. Cách hiểu này rõ ràng là không đúng nhưng lại được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chấp nhận và quyết định theo cách hiểu này. Ví dụ: Do có kháng cáo của người bị hại nên Toà án cấp phúc thẩm đã chuyển tội danh từ tội cố ý gây thương tích sang tội giết người (là tội danh nặng hơn).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà. Vậy, người bị hại trình bày lời buộc tội trước hay sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội ? Nếu người bị hại vắng mặt thì Toà án có xét xử vắng mặt họ được không ?
Theo quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì, trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền của người bị hại, nhưng ai là người đại diện hợp pháp cho người bị hại thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định. Trường hợp người bị hại không chết nhưng họ là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì có người đại diện cho họ không, Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định.
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự quy định nếu người bị hại từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo Điều 308 của Bộ luật hình sự, nhưng trên thực tế chưa có trường hợp nào người bị hại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, mặc dù có nhiều trường hợp họ không cộng tác với cơ quan tiến hành tố tụng như: không đi giám định tỷ lệ thương tật, không có mặt theo giấy triệu tập mà sự có mặt của họ là bắt buộc, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cho Toà án nói riêng.
4. Một số vấn đề về hình thức và thủ tục tại phiên toà  
Do lịch sử để lại, có sự kế thừa mô hình tố tụng của Toà án Pháp nên từ phòng xử án, vị trí, chỗ ngồi của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, “Vành móng ngựa”, chỗ ngồi của người bào chữa (Luật sư) và những người tham gia tố tụng khác cho đến nay vẫn không có gì thay đổi. Khi đất nước mở cửa, phát triển kinh tế thị trường, đã nhiều lần có ý kiến đề nghị Luật sư phải được ngồi ngang hàng với Kiểm sát viên; tại Hội nghị tổng kết 2 năm ngày thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam, trả lời phỏng vấn báo giới, Chủ tịch liên đoàn Luật sư lại đề cập đến chỗ ngồi của Luật sư tại phiên toà sao cho bình đẳng với Kiểm sát viên.
Việc trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung cũng còn nhiều vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định chưa đầy đủ như: trường hợp chỉ cần truy tố lại chứ không cần điều tra lại bất cứ một tình tiết nào của vụ án, nhưng trong quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung vẫn phải ghi “để điều tra bổ sung”. Việc Điều bổ sung đối với phần dân sự trong vụ án hình sự chưa được Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể, mặc dù Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự”. Giải quyết không chỉ bao gồm xét xử mà bao gồm cả giai đoạn điều tra, truy tố. Khi Toà án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung về vấn đề dân sự, một số Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra không nhận hồ sơ vụ án mà làm công văn trả ngay cho Toà án với lý do: Toà án có thẩm quyền điều tra về vấn đề dân sự.
Theo quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng hình sự thì, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp phiên toà không mở, thời hạn tạm giam đã hết, thế là Toà án ra một cái lệnh vô thời hạn: “tạm giam bị cáo cho đến khi kết thúc phiên toà”, có trường hợp 6 tháng hoặc một năm sau phiên toà mới được mở. Đây là vi phạm không phải ít, nhưng không được phát hiện, uốn nắn.
Đến ngày mở phiên toà theo quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vì những lý do khác nhau nên phải hoãn phiên toà, trong đó có những lý do không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; việc thông báo hoãn phiên toà cũng không thống nhất, có Toà án thông báo bằng văn bản gửi cho cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, nhưng có Toà án chỉ viết ở trên bảng đạt trước trụ sở với nội dung: “phiên toà xét xử bị cáo A hoãn” không có một lời giải thích.
Hiện nay, có nhiều trường hợp sau khi điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án lại cho Toà án xét xử sơ thẩm nhưng chỉ bằng một công văn, không thay đổi bản cáo trạng (vẫn bản cáo trạng cũ), Việc làm này là không đúng pháp luật vì kết quả điều tra sung cần phải được thể hiện trong bản cáo trạng.
Kể từ khi khai mạc phiên toà cho đến khi kết thúc phiên toà có thể chia ra các giai đoạn: phần mở đầu, phần xét hỏi, phần tranh luận và tuyên án.
Đánh giá chung, thì việc xét xử tại phiên toà hiện nay so với trước khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-1-2002 của Bộ Chính trị có tiến bộ hơn, bước đầu bảo đảm tranh tụng dân chủ giữa người bào chữa (Luật sư) với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác…; việc phán quyết của Toà án đã căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà; phiên toà diễn ra dân chủ hơn; quyền lợi của người tham gia tố tụng được tôn trọng. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp thì chưa đáp ứng. Sau khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW, các Toà án tập trung tổ chức các phiên toà “mẫu” để rút kinh nghiệm rồi nhân rộng trên phạm vi toàn ngành, nhưng sau một thời gian, các Toà án đều báo cáo là đã tổ chức phiên toà hình sự sơ thẩm đúng với tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW, nhưng trên thực tế thì hiện nay còn nhiều phiên toà vẫn xét xử không đúng với Nghị quyết số 08-NQ/TW và Công văn số  Số: 13-CV/BCĐCCTP ngày 04 tháng 11 năm 2002 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW, ngày 02-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì lại nhận thức rằng, Nghị quyết số 08-NQ/TW và Công văn số  Số: 13-CV/BCĐCCTP không còn hiệu lực. Vậy là những phiên toà “mẫu” không còn là “mẫu” nữa. Mặt khác do Bộ luật tố tụng hình sự chưa được sửa đổi, bổ sung theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49NQ/TW nên việc tổ chức và điều khiển phiên toà hình sự sơ thẩm vẫn còn mang nặng tính thẩm vấn, chưa thể hiện tính tranh tụng tại phiên toà. Chủ toạ phiên toà vẫn hỏi quá nhiều, không chỉ hỏi mà còn giáo dục, nhận xét, bình luận, đánh giá về lời của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phần tranh luận chính là phần thể hiện tính tranh tụng nhất nhưng chủ toạ phiên toà chưa điều khiển để người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tranh luận với Kiểm sát viên, còn Kiểm sát viên thì không tranh luận hoặc tranh luận không hết các ý kiến mà người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng đưa ra cần tranh luận làm rõ. Việc xử lý các tình huống tại phiên toà của chủ toạ cũng còn lúng túng, khi gặp phải trường hợp ngoài dự kiến ban đầu của chủ toạ phiên toà như: người bào chữa (Luật sư) tự ý rời bỏ phòng xử án mà không được chủ toạ đồng ý; bị cáo ra toà lặng thinh như người câm, không nói, không trả lời bất cứ câu hỏi nào của Hội đồng xét xử hoặc của Kiểm sát viên; tại phiên toà bị cáo đề nghị mời Luật sư bào chữa; Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà rút hồ sơ vụ án để xem xét lại…Việc Hội đồng nghị án, cũng như thời gian nghị án còn nhiều vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ ràng; chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát xem bản án có được thông qua tại phòng nghị án hay không ? Biên bản nghị án có phản ảnh đúng trình tự, nội dung thảo luận của Hội đồng xét xử hay không ?…
I-  PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ  
Hoàn thiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là một yêu cầu tất yếu và cũng là vấn đề nằm trong chiến lược cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49NQ/TW đề ra. Vì vậy, phương hướng hoàn thiện phải gắn liền với mục tiêu và phương hướng cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị.
1. Xác định mô hình tố tụng hình sự
Trước hết, cần xác định mô hình tố tụng hình sự ở nước ta theo mô hình như thế nào, đây là vấn đề cốt lõi của việc hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung và thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng.
Hiện nay, trên sách báo cũng như các báo cáo về cải cách tư pháp đều xác định mô hình (kiểu) tố tụng hình sự của nước ta hiện nay là “tố tụng thẩm vấn” và đi liền với mô hình tố tụng thẩm vấn là “luật thành văn”. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, mô hình tố tụng của nước ta hiện nay là một hình tố tụng pha trộn. Theo TS Nguyễn Duy Hưng thì “Mô hình tố tụng pha trộn giữa thẩm vấn và tranh tụng của chúng ta rất tiến bộ vì kết hợp được ưu điểm của hai mô hình tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng ra đời trước đó là nhà nước kiểm soát được tội phạm nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nghi can. Nếu chính thức ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi thì sẽ càng làm tăng thêm tính ưu việt của nó[1]. Đồng tình với ý kiến trên, đa số cho rằng trên thực tế Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta đã có một số quy định mang tính tranh tụng, chứ không chỉ thuần tuý là thẩm vấn. Trên thế giới hiện nay cũng không còn mô hình tố tụng của quốc gia nào chỉ thuần tuý là “tranh tụng” hay “thẩm vấn” mà đã có sự pha trộn. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mỗi nước mà tính tranh tụng hay tính thẩm vấn nhiều hay ít. Còn ở nước ta căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì còn nặng về tính “thẩm vấn” mặc dù tính “tranh tụng” đã được ghi nhận nhưng chưa đậm nét.
 Khẳng định lại mô hình tố tụng “pha trộn” mà nước ta đang áp dụng, tức là chúng ta phải trả lời câu hỏi: Vì sao cho đến nay mô hình tranh tụng pha trộn lại không phát huy được tác dụng như chúng ta mong đợi ? Đó là vì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn mang nặng tư duy cũ và thiên về tố tụng thẩm vấn nhiều hơn; Bộ luật tố tụng hình sự cũng chưa có nhiều quy định bảo đảm cho tính tranh tụng nhiều hơn, nhất là các quy định về phiên toà, mặc dù Nghị quyết số 08-NQ/TW và Công văn số 13 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có nhiều nội dung mang tính tranh tụng nhiều hơn.
2. Xây dựng pháp luật 
Xây dựng một hệ thống pháp luật từ Hiến pháp đến các Luật, Pháp lệnh… có liên quan đến các quy định về xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng thể hiện tính tranh tụng nhiều hơn nữa.
Các quy định của Hiến pháp về “Cơ quan tư pháp”, cũng như quy định về các quyền cơ bản của Công dân, cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Nâng cao vị thế của Toà án, chỉ có các Toà án mới là Cơ quan tư pháp; Hệ thống Toà án được tổ chức lại thành 4 cấp; Viện kiểm sát là Cơ quan công tố; Cơ quan điều tra không nằm trong Bộ Công an; hoạt động điều tra dưới sự chỉ huy của Công tố; các cơ quan này không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Luật tổ chức Toà án, Luật tổ chức Công tố và Luật tổ chức Cơ quan điều tra cần cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về hệ thống Toà án, Hệ thống cơ quan Công tố và Công tố viên, Hệ thống Cơ quan điều tra và Điều tra viên.
Bộ luật tố tụng hình sự, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- Không quy định người đứng đầu Toà án, Viện công tố, Cơ quan điều tra là “Người tiến hành tố tụng”, vì những người này đại diện cho cơ quan tiến hành tố tụng. Thẩm phán có quyền cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có quyền áp dụng, thay đổi tất cả các biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp tạm giam.
- Chỉ quy định Luật sư mới là người bào chữa, sửa đổi, bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của Luật sư để tạo thuận lợi cho Luật sư  hoạt động; bổ sung một số quyền và nghĩa vụ đối với Luật sư trong trường hợp bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (bào chữa bắt buộc).
- Tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ án dân sự nếu các bên có yêu cầu.
- Bỏ thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, Cơ quan công tố có quyền truy tố một công dân ra bất cứ Toà án nào trên lãnh thổ Việt Nam để xét xử sơ thẩm theo thẩm quyền xét xử (thẩm quyền theo việc), nếu có tranh chấp về thẩm quyền theo việc thì Viện công tố giải quyết chứ không phải Chánh án Toà án.
- Về giới hạn xét xử cần quy định: Viện công tố chỉ truy tố người phạm tội và hành vi mà người đó thực hiện, còn bị cáo có phạm tội hay không và phạm tội gì thì để cho Toà án quyết định.
- Thay đổi hình thức phiên toà sơ thẩm theo hướng: Bỏ vành móng ngựa thay vào đó là ghế bị cáo; bàn của Hội đồng xét xử cao nhất, Luật sư và Công tố viên ngồi ngang nhau nhưng thấp hơn Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án ngồi ở phía dưới Hội đồng xét xử; mọi diễn biến phiên toà, kể cả diễn biến khi nghị án phải được ghi âm hoặc ghi hình và được sử dụng bảo quản theo quy định của pháp luật.
- Khi xét xử Công tố viên trình bày bản cáo trạng và đặc cách câu hỏi đối với  bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; trong quá trình xét hỏi, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác cũng có quyền hỏi; bị cáo có thể đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác; Thẩm phán chủ toạ phiên toà chỉ điều khiển việc xét hỏi, chỉ đặt câu hỏi đối với Công tố viên người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác khi thật cần thiết, chấp nhận hoặc bác bỏ những câu hỏi hoặc yêu cầu người bị hỏi không phải trả lời vì câu hỏi và câu trả lời có thể làm lộ bí mật nhà nước, hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục.
- Đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại bắt buộc phải có mặt tại phiên toà và trình bày lời buộc tội trước khi Công tố viên trình bày lời luận tội, nếu họ vắng mặt không có lý do chính đáng thì vụ án được đình chỉ, vì người bị hại từ bỏ quyền khởi tố, mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là bắt buộc.
Cùng với việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng trên, thì cần có Luật về chứng cứ. Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định trình tự, thủ tục thu thập, cung cấp chứng cứ, còn các vấn đề khác về chứng cứ như: khái niệm, nội dung, nguồn chứng cứ, giá trị của chứng cứ, đánh giá chứng cứ… sẽ quy định trong Luật về chứng cứ.
3. Nâng cao trình độ, năng lực cho Thẩm phán, Công tố viên, Điều tra viên và Luật sư.
Mọi sự thay đổi, cải cách bảo đảm tăng cường tính tranh tụng tại phiên toà, suy cho đến cùng vấn đề quyết định vẫn là con người. Nếu trình độ, năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán, Công tố viên, Điều tra viên và Luật sư như hiện nay thì mục tiêu cải cách sẽ không đạt được. Vì vậy, việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ này cần phải tiến hành đồng bộ với quá trình cải cách tư pháp theo một lộ trình hợp lý.
- Đối với đội ngũ Thẩm phán,cần nghiên cứu bỏ hình thức xét tuyển bằng hình thức thi tuyển, không chỉ thi tuyển vào ngạch Thẩm phán mà thi tuyển từ Thẩm phán sơ cấp lên Thẩm phán trung cấp, từ trung cấp lên Thẩm phán cao cấp, từ cao cấp lên Thẩm phán tối cao.
- Đối với Công tố viên (Kiểm sát viên hiện nay), ngoài kiến thức về kiểm sát điều tra thì phải có kiến thức điều tra và chỉ huy điều tra; năng lực, trình độ, kinh nghiệm xét hỏi, tranh luận tại phiên toà. Cũng cần thi tuyển như đối với Thẩm phán.
- Đối với Điều tra viên là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội phạm, ngoài kiến thức pháp luật thì còn cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám phá tội phạm, hiểu và sử dụng thành thạo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ. Việc bổ nhiệm Điều tra viên cũng phải áp dụng hình thức thi tuyển như đối với Thẩm phán và Công tố viên.
- Đối với Luật sư cần tăng về số lượng, đồng thời quan tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi tuyển phải bảo đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư; chế độ miễn cho những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và các đối tượng khác) cũng phải có tiêu chí cụ thể chứ không phải ai cũng được miễn như quy định hiện nay; cần có quy định bảo vệ Luật sư khihàng nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
Chú thích:
[1] Trích phát biểu tại buổi toạ đàm do Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh  tổ chức ngày 21-5-2011
Nguồn: Cổng thông tin điện tử TANDTC (http: toaan.gov.vn)

Rửa tiền, vì sao khó khởi tố?


Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã quy định thêm một tội mới là tội rửa tiền để phù hợp với công ước quốc tế. Tuy nhiên, đến nay các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa xử lý hình sự được một vụ rửa tiền nào, vì sao?
Tội rửa tiền là một tội mới được quy định trong BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Điều 251) thay cho tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có. Theo quy định, người nào thực hiện một trong các hành vi sau thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó; sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác…
Thiếu hướng dẫn về tội phạm
Thực tế từ đó đến nay, các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa xử lý hình sự được một vụ rửa tiền nào dù vẫn triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm có tổ chức, nhiều đường dây buôn lậu, buôn bán ma túy… Qua các vụ phạm tội này, cơ quan chức năng cũng phát hiện ra nhiều tiền, tài sản mà người phạm tội đã hợp pháp hóa thông qua việc thành lập công ty, kinh doanh bất động sản, chứng khoán…
Theo các chuyên gia, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc này mà đáng chú ý nhất là việc thiếu hướng dẫn.
Trước hết là về mặt khái niệm. Pháp luật nước ta chưa giải thích rõ ràng, đầy đủ về các hành vi rửa tiền. Trong khi đó, theo Công ước Palermo năm 2000 của Liên Hiệp Quốc, các quốc gia phải hình sự hóa bốn nhóm hành vi rửa tiền: Nhóm hành vi chuyển đổi, chuyển nhượng tài sản biết rõ là phạm tội mà có với mục đích che giấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản… Nhóm hành vi che giấu hoặc ngụy trang bất cứ khía cạnh thông tin nào về tài sản biết rằng do phạm tội mà có. Nhóm hành vi nhận, sở hữu, sử dụng tài sản mà vào thời điểm nhận biết rằng do tội phạm mà có. Nhóm hành vi tham gia, phối hợp hay thông đồng, âm mưu, hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào nói trên.
Đi sâu, TS Đỗ Đức Hồng Hà (Phó Trưởng ban Thư ký Văn phòng Bộ Tư pháp) phân tích thêm: Trong cấu thành tội phạm tội rửa tiền ở nước ta hiện nay không quy định cụ thể số lượng tiền, tài sản được rửa có giá trị bao nhiêu thì phạm tội. Luật không quy định, hướng dẫn lại không có nên các cơ quan tố tụng không có căn cứ để xử lý hình sự dù có thể vẫn phát hiện ra dấu hiệu rửa tiền.
Thẩm phán Lê Thành Văn (Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM) và Thẩm phán Vũ Phi Long (Phó Chánh Tòa Hình sự TAND TP.HCM) cũng đều đồng quan điểm là một khi chưa có hướng dẫn cụ thể thì chưa áp dụng được tội rửa tiền. Bởi lẽ khái niệm chung về hành vi rửa tiền thì có thể ai cũng hiểu nhưng để chứng minh đủ yếu tố cấu thành tội phạm để xử lý hình sự là rất khó.
Thiếu cơ chế quản lý tiền mặt minh bạch
Một nguyên nhân khác, theo ThS Nguyễn Trường Tín (giảng viên Trường ĐH Luật TP.HCM), người Việt Nam có thói quen xài tiền mặt, hạn chế việc giao dịch, thanh toán qua ngân hàng. Trong khi hiện nay chúng ta lại đang thiếu một cơ chế quản lý tiền mặt rõ ràng nên khó có thể làm minh bạch nguồn gốc các khoản tiền. Đây là việc cần phải cải thiện nếu muốn nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền.
Đồng tình, kiểm sát viên cao cấp Võ Văn Thêm (Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao) bổ sung: Trong thời hội nhập, việc rửa tiền nhiều khả năng chứa đựng nhân tố nước ngoài. Chẳng hạn, người nước ngoài hợp pháp hóa tiền, tài sản ở Việt Nam hoặc ngược lại, người Việt Nam có thể hợp pháp hóa tiền, tài sản ở nước ngoài thông qua tổ chức tài chính nào đó. Vì vậy, để phát hiện hành vi rửa tiền, cần mở rộng hợp tác tư pháp quốc tế nhưng điều kiện này ở ta đang còn hạn chế.
“Đối với tội phạm trong nước, khi phát hiện có hành vi liên quan đến việc sử dụng tiền, tài sản biết rõ do phạm tội mà có, các cơ quan tố tụng thường xử lý về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Bởi hành vi rửa tiền không chỉ khó phát hiện mà nếu chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì không thể xử lý hình sự” – ông Thêm cho biết.
Phòng, chống rửa tiền qua nhiều “kênh”
Ngày 22-5, tại kỳ họp thứ 3 của Quốc hội, các đại biểu đã thảo luận về dự thảo Luật phòng, chống rửa tiền. Nhiều đại biểu băn khoăn về mối quan hệ giữa phòng, chống rửa tiền và tội phạm khủng bố… trong dự thảo. Các ý kiến đề nghị phải làm rõ vai trò của ngân hàng trong hoạt động chống rửa tiền và của công an trong chống khủng bố, tội phạm, đồng thời có cơ chế quy định về hoạt động phối hợp của hai ngành cụ thể hơn chứ chỉ quy định như dự thảo thì khi ban hành luật sẽ khó thực hiện. Cạnh đó, dự thảo chưa làm rõ các hành vi rửa tiền. Ngoài ra, rửa tiền được thực hiện qua nhiều “kênh” như đầu tư vào nhà hàng, khách sạn, chứng khoán… nhưng dự luật mới chỉ “quét” được các giao dịch qua ngân hàng là còn bỏ lọt.
Đặc biệt, một đại biểu cho rằng dự thảo cần bổ sung thêm điều cấm “lợi dụng chức vụ, quyền hạn cho nguời thân trong gia đình lập doanh nghiệp để rửa tiền”. Theo vị này, hiện tình trạng con cái các ông to lợi dụng chức vụ, quyền hạn của cha mẹ để “làm ăn” không phải ít nên cần phải quy định như trên.
Nghị viên Mỹ Tom DeLay bị kết tội rửa tiền
Năm 2010, cựu lãnh đạo đa số trong Hạ viện Mỹ Tom DeLay đã bị kết án chung thân về tội rửa tiền và âm mưu rửa tiền. Các công tố viên cho biết DeLay đã sử dụng Ủy ban Hành động chính trị của mình rót 190.000 USD trái phép vào quỹ từ thiện của các công ty trong cuộc chạy đua vào Quốc hội bang Texas hồi năm 2002.
DeLay từng nắm vị trí số hai trong Hạ viện Mỹ, từng là một trong những nghị viên mạnh mẽ nhất của đảng Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ.
Úc xét xử sáu bị cáo gốc Việt
Năm 2009, một tòa án tại Úc đã phạt sáu người Úc gốc Việt từ năm năm tù đến 12 năm tù vì tham gia đường dây rửa tiền lớn nhất từ trước tới nay tại nước này. Từ tháng 12-2005 tới tháng 10-2006, có 68 triệu Úc kim thu lợi từ tội phạm ma túy đã được “rửa” thông qua các văn phòng chuyển tiền ở Footscray, Saint Albans, Cabramatta, ngoại ô Sydney và Bankstown. Sau khi nhận tiền mặt từ khách hàng, các văn phòng này đã trao cho hai phi công của hãng hàng không Việt Nam Airlines cầm về Việt Nam giao cho các cơ sở kinh doanh thuộc gia đình của một phụ nữ Melbourne.
Rửa tiền là thách thức với Trung Quốc
Tội rửa tiền tại Trung Quốc nằm trong nhóm tội tham nhũng. Theo các chuyên gia nước này, quan tham ở Trung Quốc có thể dễ dàng “xách tay” nhiều tỉ USD ra khỏi đất nước, tậu bất động sản cao cấp ở nước ngoài, tiêu tiền cho gái, đánh bạc… Năm 2010, các cơ quan thanh tra kỷ luật của Trung Quốc đã thực hiện 140.000 vụ thanh tra tham nhũng với kết quả là 145.000 người phải nhận hình phạt.
Theo: Tạp chí Pháp luật TP.HCM online